Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nghiên cứu tác nhân gây bệnh chết rạp cây con ba kích (Morinda officinalis How.) tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.29 KB, 8 trang )

Kết quả nghiên cứu Khoa học

BVTV - Số 6/2019

NGHIÊN CỨU TÁC NHÂN GÂY BỆNH CHẾT RẠP CÂY CON BA KÍCH
(Morinda officinalis How.) TẠI VIỆT NAM
Study on The Pathogen Causing Damping - off on Indian Mullberry
(Morinda officinalis How.) in Viet Nam
1

1

2

1

Chu Thị Mỹ , Đặng Thị Hà , Đào Thị Kim Nhung , Lê Thị Thu ,
1
1
Hoàng Diệu Linh & Phan Thúy Hiền
Ngày nhận bài: 14.11.2019

Ngày chấp nhận: 25.11.2019
Abstract

Indian Mullberry (Morinda officinalis How.), locally known as “ba kich” belonging to the Rubiaceae family,
commonly grown in Viet Nam for medicinal purposes. However, ba kich seedlings in the nurseries are sufferred
from the attack of damping-off disease. The objective of the present study was to characterize the causal
pathogen of the damping-off disease of ba kich. Surveys were conducted in different ba kich nurseries in Thanh
Hoa and Bac Giang provinces from March to July 2018; and a number of 3 to 4 month old seedlings showing
symptoms of damping-off disease were collected for further identification. In the surveyed nurseries, the incidence


of damping-off disease was above 50%. Disinfected collar segments, about 5 mm in length, were plated on
quarter strength PDA (mPDA) and the isolated fungus was cultured on PDA and incubated at 25°C. Rhizoctonia
solani was consistently isolated from the infected tissues. The colony growth was 90 mm after 3 days on PDA,
sclerotia were produced after incubation from 5 to 7 days. The optimal conditions for the development of R. solani
o
o
were 25 C to 30 C and pH 7. The efficacy of azoxystrobin + difenoconazole (Amistar top 325 SC) and
validamycin A (Vanicide 5 SL) in reducing R. solani mycelial growth was tested in vitro. The results indicated that
azoxystrobin + difenoconazole (Amistar top 325 SC) is highly effective in inhibiting the mycelial growth of R.
solani. This is the first report of R. solani causing damping-off disease of ba kich in Viet Nam.
Keywords: Morinda officinalis, damping off, seedling disease.
*

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Cây ba kích (Morinda officinalis How.), là loại
cây dược liệu thuộc họ cà phê (Rubiacea), được
trồng nhiều ở Trung Quốc, Lào, Ấn Độ và Triều
Tiên. Ở Việt Nam, ba kích mọc hoang dại nhiều
ở các tỉnh miền núi như Quảng Ninh, Phú Thọ,
Bắc Giang, Quảng Nam, v.v. Trong đông y, ba
kích được sử dụng làm dược liệu chữa các bệnh
như: phong thấp, giảm huyết áp (Đỗ Huy Bích và
cs., 2004).
Trên thế giới, chưa có nhiều nghiên cứu về
sâu, bệnh hại cây ba kích. Cây ba kích trồng tại
Quảng Đông, Trung Quốc bị bệnh héo do nấm
Fusarium oxysporum f. sp. Morindae gây ra với
nguồn bệnh chủ yếu từ đất bị nhiễm bệnh (Shi và


1. Trung tâm nghiên cứu trồng và chế biến cây thuốc
Hà Nội - Viện Dược liệu
Corresponding author:
2. Học viện Nông nghiệp Việt Nam

32

Chi, 1988). Bên cạnh đó, một số bệnh hại trên lá
được công bố trên một số cây thuộc chi Morinda
spp. như bệnh đốm lá do nấm Corynospora sp.
trên cây Morinda citrifolia L. (thuộc họ cà phê
Rubiaceae) trồng tại vùng Agharkar, Ấn Độ. Triệu
chứng bệnh đốm lá do nấm này gây ra bắt đầu
xuất hiện trên đồng ruộng từ tháng 7 đến tháng
10 (Firdousi và Khan, 2015). Bệnh thán thư do
nấm Colletotrichum spp. gây ra trên cây con 1
tháng tuổi của một số loài thuộc chi Morinda ở 2
đảo Andaman và Nicobar Islands, Ấn Độ
(Krishna và cs., 2012).
Tại Việt Nam, mới công bố bệnh héo vàng do
nấm F. oxysporum trên ba kích ở một số vùng của
Quảng Ninh và Thanh Hóa. Bệnh xuất hiện từ giai
đoạn cây con đến khi cây hình thành củ, nhưng
bệnh thường gây hại mạnh nhất ở giai đoạn cây ba
kích được 3 – 4 năm, tỷ lệ bệnh trên đồng ruộng có
thể lên đến 60% (Đặng Thị Hà và cs., 2017).
Gần đây, ở một số vùng thuộc Thanh Hóa và
Bắc Giang, cây ba kích con biểu hiện triệu chứng



Kết quả nghiên cứu Khoa học
chết rạp, đã ảnh hưởng đến năng suất và chất
lượng cây giống; nhưng vẫn chưa xác định được
nguyên nhân; do đó, chưa có biện pháp phòng
trừ bệnh hiệu quả. Bài báo này là công bố đầu
tiên về nguyên nhân gây bệnh chết rạp trên cây
con ba kích ở Việt Nam.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Vật liệu, thời gian và địa điểm nghiên cứu
Cây ba kích con biểu hiện triệu chứng chết rạp
được thu thập tại các vùng trồng ba kích tại huyện
Quảng Thành, tỉnh Thanh Hóa và huyện Lục Nam,
tỉnh Bắc Giang trong năm 2018. Các vật liệu khác
sử dụng trong nghiên cứu bao gồm: nguyên liệu sử
dụng trong môi trường phân lập, làm thuần và nuôi
cấy tác nhân gây bệnh [khoai tây - đường - agar
(PDA), môi trường PDA một phần tư độ mạnh có
bổ sung kháng sinh (mPDA), thạch - nước cất
(WA) và nguyên liệu sử dụng cho môi trường nhân
sinh khối nấm (Burgess và cs., 2008). Các trang
thiết bị và dụng cụ: Tủ sấy dụng cụ, buồng cấy, nồi
hấp, tủ định ôn, dụng cụ nuôi cấy nấm. Nghiên cứu
được thực hiện từ tháng 3 đến tháng 12 năm 2018
tại Trung Tâm Nghiên cứu trồng và chế biến cây
thuốc Hà Nội.
2.2 Phƣơng pháp nghiên cứu
2.2.1. Điều tra, phân lập và giám định tác
nhân gây bệnh
Phương pháp điều tra thu thập mẫu được tiến
hành theo “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về

phương pháp điều tra phát hiện dịch hại cây
trồng” (QCVN 01-38, 2010). Mẫu bệnh cây con ba
kích có triệu chứng chết rạp hoặc héo sau khi thu
thập từ đồng ruộng về được loại bỏ thân lá và rửa
sạch dưới vòi nước. Cắt bộ phận gốc thân, rễ bị
bệnh thành những miếng nhỏ sao cho miếng cắt
bao gồm cả mô bệnh và mô khỏe. Khử trùng
miếng cắt bằng ethanol 70% trong 5 giây, sau đó
rửa sạch bằng nước cất vô trùng, dùng dao cấy
đã khử trùng cắt vết bệnh thành các miếng nhỏ 5
× 5 mm và cấy lên môi trường mPDA. Khi nấm đã
phát triển với kích thước đường kính tản nấm 1 2 cm, cấy truyền sang môi trường WA. Nấm được
làm thuần bằng cách cấy đỉnh sinh trưởng của sợi
nấm từ môi trường WA sang môi trường PDA và
được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm ở điều kiện
o
25 C với 12 h chiếu sáng xen kẽ 12 h tối (Burgess

BVTV - Số 6/2019
và cs., 2008). Sau 7 ngày nuôi cấy, nấm được
giám định dựa vào đặc điểm hình thái. Các mẫu
nấm được giám định dựa vào khóa phân loại của
Sneh và cs. (1991).
2.2.2. Lây bệnh nhân tạo
Phương pháp lây bệnh qua đất được tiến
hành theo Burgess và cs. (2008). Cây ba kích sử
dụng cho thí nghiệm là cây 7 tháng tuổi, khỏe
mạnh, không có biểu hiện triệu chứng bệnh,
được trồng trong các chậu thí nghiệm chứa giá
thể đất đã khử trùng. Thí nghiệm lây bệnh được

bố trí với 3 lần nhắc lại, 20 cây/lần nhắc lại.
Nguồn nấm lây bệnh được nhân sinh khối trên
giá thể hạt kê - trấu. Nấm được nuôi trong bình
tam giác 15 ngày, sau đó đem ra trộn với đất
xung quanh gốc cây cần lây bệnh, mỗi gốc cây
sử dụng 50g sinh khối nấm. Theo dõi hàng ngày
sự xuất hiện, quá trình hình thành và phát triển
triệu chứng trên cây lây bệnh. Mẫu bệnh có triệu
chứng điển hình từ thí nghiệm lây bệnh được tái
phân lập theo quy tắc Koch. Thời điểm lây bệnh
nhân tạo: tháng 7 năm 2018. Chỉ tiêu theo dõi:
Thời gian từ khi lây bệnh đến khi xuất hiện triệu
chứng, thời gian từ khi lây bệnh đến khi cây chết,
tỷ lệ cây nhiễm bệnh, khả năng phục hồi.
2.2.3 Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ và
pH đến sự phát triển của nấm gây bệnh chết rạp
trên môi trường nhân tạo
Chọn mẫu nấm đã được làm thuần, cắt tản
nấm thành những miếng cấy tròn có đường kính
5 mm, cấy trên môi trường PDA, mỗi công thức
lặp lại 5 lần, mỗi lần 1 đĩa Petri. Đối với thí
nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ, các
mẫu nấm thuần được nuôi cấy trong tủ định ôn ở
o
các điều kiện nhiệt độ 20, 25, 30 và 35 C. Thí
nghiệm nghiên cứu ảnh hưởng của pH đến sự
phát triển của nấm được tiến hành với các
o
ngưỡng pH 4, 5, 6, 7 ở điều kiện nhiệt độ 30 C.
Chỉ tiêu theo dõi: Đương kính tản nấm sau khi

cấy 24, 48 và 72 giờ.
2.2.4. Khả năng ức chế của một số loại thuốc
bảo vệ thực vật đối với nấm gây bệnh chết rạp
trên môi trường nhân tạo
Thí nghiệm được tiến hành trên môi trường
PDA với 2 loại thuốc trừ bệnh là Amistar top 325
SC (hoạt chất azoxystrobin 200 g/l +
difenoconazole 125 g/l) với nồng độ 0,25 ml
thuốc/1 lít nước và Vanicide 5 SL (hoạt chất
33


Kết quả nghiên cứu Khoa học

BVTV - Số 6/2019

validamycin A: 5 %) với nồng độ 1,6 ml thuốc/1 lít
nước. Cách thức tiến hành theo phương pháp
kiểm tra sự khuếch tán của thuốc bảo vệ thực vật
trên đĩa Petri (Ahmed và cs., 2012). Cắt tản nấm
thành những miếng tròn nhỏ đường kính 5mm,
cấy vào giữa đĩa Petri đường kính 90 mm có
chứa môi trường PDA, sau đó sử dụng giấy lọc
đã được hấp khử trùng đã được nhúng vào dung
dịch thuốc pha và đặt vào 4 góc trên đĩa petri đã
cấy nấm. Các đĩa này được đặt ở nhiệt độ 30ºC.
Chỉ tiêu theo dõi: bán kính quầng thuốc sau khi
cấy nấm 24, 48 và 72 giờ (mm).
2.2.5. Phương pháp xử lý số liệu


Các số liệu được xử lý thống kê bằng phần
mềm Irristat 5.0 và Excel
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1 K t quả phân lập và xác định tác nhân
gây bệnh ch t rạp cây con ba kích
Mười mẫu cây ba kích biểu hiện triệu chứng
chết rạp, một phần thân sát gốc bị khô và teo lại
được thu thập từ vườn ươm tại Quảng Thành,
Thanh Hóa và Lục Nam, Bắc Giang (Hình 1). Tác
nhân gây bệnh được phân lập, làm thuần trên
môi trường WA và PDA.

Hình 1. Triệu chứng bệnh ch t rạp cây con ba kích

a

b

c

Hình 2. Sợi nấm và hạch nấm của nấm R. solani trên môi trƣờng PDA
đƣợc phân lập từ cây con ba kích tại Bắc Giang và Thanh Hóa
(a). Sợi nấm R. solani phân nhánh vuông góc; (b) Tản nấm và hạch nấm R. solani được phân lập
từ mẫu ba ích trồng tại Bắc Giang. (c) Tản nấm và hạch nấm R. solani được phân lập từ mẫu
ba ích trồng tại Thanh Hóa
Căn cứ vào đặc điểm hình thái nấm của sợi
nấm, tác nhân gây bệnh chết rạp cây con ba kích
là nấm Rhizoctonia solani. Ban đầu, tản nấm có
34


màu trắng đục, vàng nâu hoặc nâu vàng nhạt, về
sau chuyển sang màu nâu sẫm. Tản nấm phát
triển với tốc độ rất nhanh trên môi trường PDA,


Kết quả nghiên cứu Khoa học

BVTV - Số 6/2019

tản nấm mịn, áp sát bề mặt môi trường hoặc xốp.
Sợi nấm đa bào, màu nâu hoặc nâu vàng, phân
nhánh nhiều, vị trí phân nhánh của sợi nấm hơi
thắt lại, sát đó có vách ngăn, phân nhánh gần
như vuông góc (Hình 2a). Sau nuôi cấy 5 đến 7
ngày, nấm bắt đầu hình thành hạch nấm, hạch
non có màu trắng, hạch già có màu nâu, hơi thô,
không định hình (Hình 2b, 2c). Nấm R. solani làm
biến đổi màu môi trường nuôi cấy từ trắng đục
sang màu nâu đến nâu sẫm.

3.2 K t quả lây bệnh nhân tạo nấm
R. solani trên cây ba kích
Để xác định khả năng gây bệnh của nấm R.
solani đối với cây ba kích con, thí nghiệm lây
nhiễm nhân tạo được thực hiện trong nhà lưới
của Trung Tâm Nghiên cứu trồng và chế biến
cây thuốc Hà Nội (Bảng 1, Hình 3).

Bảng 1. Thí nghiệm lây bệnh nhân tạo nấm R. solani trên cây con ba kích
(Trung tâm Nghiên cứu trồng và chế biến cây thuốc Hà Nội, tháng 3 năm 2018)

Lần
nhắc lại
1
2

Thời gian tiềm
dục (ngày)
2-4
2-6

3

3-6

TLB (%) sau lây bệnh
3 ngày
7 ngày
14 ngày
40,0
60,0
100
35,5
64,5
100
30,0

70,0

100


Triệu chứng
Gốc thân bị thối, teo lại có
màu nâu, lá bị héo, khi nhổ
cây lên thấy rễ bị thối thâm
nâu, cây gãy gục rồi chết.

Khi lây nhiễm nấm R. solani trên cây ba kích,
tỷ lệ nhiễm bệnh rất cao và có thời gian tiềm dục
trên cây ký chủ ngắn (2 - 6 ngày). Tỷ lệ bệnh ở
các lần nhắc lại sau 7 ngày lây nhiễm dao động
từ 60 đến 70%. Vết bệnh ban đầu xuất hiện ở
phần cổ rễ hay phần gốc thân sát mặt đất, sau
đó lan ra làm phần gốc thân bị thối, lá cây héo rũ,
rồi cả cây gãy gục và chết (Hình 3). Sau 14 ngày
lây nhiễm, toàn bộ cây lây bệnh đều bị nhiễm
bệnh hoàn toàn trong khi cây đối chứng không
lây nhiễm vẫn sinh trưởng bình thường. Cây biểu
hiện triệu chứng được tái phân lập tác nhân gây
bệnh được xác định nấm R. solani đúng với nấm
đã được sử dụng trước khi lây nhiễm. Như vậy,
nấm R. solani là tác nhân chính gây bệnh chết
rạp cây con trên cây ba kích tại Thanh Hóa và
Bắc Giang.
3.3 Ảnh hƣởng của nhiệt độ và pH đ n
sinh trƣởng và phát triển của nấm R. solani
trên môi trƣờng nhân tạo
Hình 3. Cây ba kích đối chứng (bên trái)
và cây đƣợc lây nhiễm bởi nấm R. solani
(bên phải) sau 6 ngày
(Trung tâm Nghiên cứu trồng và chế biến cây

thuốc Hà Nội, tháng 3 năm 2018)

3.3.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự phát
triển của nấm R. solani trên môi trường nhân tạo
Ở các điều kiện nhiệt độ thí nghiệm khác
nhau, đường kính tản nấm phát triển khác nhau
có ý nghĩa ở độ tin cậy 95% (Bảng 2).

35


Kết quả nghiên cứu Khoa học

BVTV - Số 6/2019

Bảng 2. Sự phát triển của nấm R. solani trên cây ba kích ở các mức nhiệt độ khác nhau
(Trung tâm Nghiên cứu trồng và chế biến cây thuốc Hà Nội, tháng 5 năm 2018)
Đƣờng kính tản nấm (mm) sau cấy

Nhiệt độ
o

( C)

24 giờ

20

10,6


d

48 giờ

72 giờ

d

18,1

c

50,5

b

96 giờ

120 giờ

57,5

90

a

90

90


a

90

90

a

b

36

c

90

b

90

a

25

19, 1

30

22,1


61,3

35

25

a

64,3

90

90

90

LSD0,05

1,6

2,34

1,6

-

-

CV(%)


4,4

2,6

1,1

-

-

Ghi chú
Chưa hình thành hạch sau 15 ngày
theo dõi
Đã hình thành hạch nấm sau 15
ngày theo dõi

Ghi chú: Các công thức trong cùng một cột có chữ cái giống nhau thì hác nhau hông có ý nghĩa
với độ tin cậy 95%
Sau 24 giờ nuôi cấy, đường kính tản nấm ở
o
o
nhiệt độ 20 C là 10,6 mm, ở nhiệt độ 25 C là
o
19,1mm, ở nhiệt độ 30 C là 22,1 mm và ở nhiệt
o
độ 35 C tản nấm phát triển nhanh nhất đạt 25
o
mm. Sau 72 giờ, ở điều kiện nhiệt độ 25 - 35 C,
nấm đã mọc kín đĩa trong khi tản nấm ở nhiệt độ
o

o
20 C mới chỉ đạt 36 mm. Ở nhiệt độ 20 C, nấm
phát triển chậm nhất, sau 120 giờ mới phát triển
o
kín đĩa. Như vậy, 25 - 30 C là khoảng nhiệt độ

tốt nhất cho sự phát triển của tản nấm và hình
o
thành hạch nấm R. solani. Ở nhiệt độ 20 C, khả
năng hình thành hạch nấm chậm hơn so với các
điều kiện nhiệt độ khác.
3.3.2. Ảnh hưởng của pH đến sự phát triển
của nấm R. solani trên môi trường nhân tạo
Đã đánh giá ảnh hưởng của các mức pH 4, 5,
6, 7 đến sự phát triển của nấm R. solani trên môi
trường PDA (Bảng 3).

Bảng 3. Sự phát triển của nấm R. solani ở các mức pH khác nhau
(Trung tâm Nghiên cứu trồng và chế biến cây thuốc Hà Nội, tháng 6 năm 2018)
pH

Đường kính tản nấm (mm) cấy sau
24 giờ

48 giờ

c

37,8


d

42,4

c

78,8

90

61,2

b

90

a

90

61,6

a

90

a

90


4

10,3

5

d

10

72 giờ
78,8
b

12,8

b

7

13,4

a

LSD0,05

0,34

4,7


1,2

CV%

1,6

5

0,7

6

b

96 giờ
90

Ghi chú: Các công thức trong cùng một cột có chữ cái giống nhau thì hác nhau hông có ý nghĩa
với độ tin cậy 95%
Sau nuôi cấy 24 giờ, đường kính tản nấm
R. solani trên môi trường có pH 4 là 10,3 mm,
pH 5 là 10 mm, pH 6 là 12,8 mm và pH 7 là
13,4 mm. Sau 72 giờ nuôi cấy, nấm trên môi
trường pH 6 và 7 đã phát triển kín đĩa Petri
trong khi đó tản nấm ở môi trường pH 4 và 5
36

có kích thước đều là 78,8 mm và mọc kín đĩa
sau 96 giờ. Như vậy, nấm R. solani có khả
năng phát triển ở tất cả các mức pH từ 4 - 7;

trong đó, tại mức pH 6 và 7, nấm phát triển tốt
nhất, pH 4 - 5 kích thước tản nấm phát triển ở
mức trung bình (Hình 4).


Kết quả nghiên cứu Khoa học

A

BVTV - Số 6/2019

B

C

D

Hình 4a. Tản nấm R.solani ở pH 4 (A), pH 5 (B), pH 6 (C), pH 7 (D) sau 24 giờ nuôi cấy

A

B
C
Hình 4b. Tản nấm R.solani trên môi trƣờng PDA ở pH 4 (A),
pH 5 (B), pH 6 (C), pH 7 (D) sau 48 giờ nuôi cấy

D

A


B
C
Hình 4c. Tản nấm R.solani trên môi trƣờng PDA ở pH 4 (A),
pH 5 (B), pH 6 (C), pH 7 (D) sau 72 giờ nuôi cấy

D

Hình 4. Tản nấm Tản nấm R.solani trên môi trƣờng PDA ở pH 4,
pH 5, pH 6, pH 7, sau 24, 48 và 72 giờ nuôi cấy
3.4 Khả năng ức ch của một số loại thuốc
bảo vệ thực vật đối với nấm R. solani của trên
môi trƣờng nhân tạo
Hiệu quả của thuốc trừ nấm Amistar top 325
SC và Vanicide 5 SL đã được đánh giá dựa trên
sự khuếch tán của thuốc trong môi trường nuôi
cấy nấm R. solani (Bảng 4).
Sau 24 giờ nuôi cấy, tốc độ phát triển của
các tản nấm ở các môi trường được xử lý thuốc
có sự khác biệt so với đối chứng. Đường kính
tản nấm trung bình trên môi trường xử lý thuốc

Amistar top là 12 mm và tản nấm trên môi
trường xử lý thuốc Vanicide là 12,2 mm có tác
dụng ức chế nấm R.solani như nhau và có hiệu
quả hơn so với công thức đối chứng (không xử
lý) với đường kính tán nấm 13,1 mm. Sau 72
giờ, khi kích thước tản nấm ở công thức đối
chứng là 90 mm (kín đĩa), công thức xử lý
Amistar top là 30,2 mm và công thức xử lý
Vanicide là 56 mm. Trong hai loại thuốc sử

dụng ở thí nghiệm, thuốc Amistar Top 325 SC
(hoạt chất azoxystrobin + difenoconazole) có

37


Kết quả nghiên cứu Khoa học

BVTV - Số 6/2019

khả năng ức chế mạnh hơn đến sự phát triển
của sợi nấm R. solani so với thuốc Vanicide

5SL (hoạt chất valydamycin A 5%) trên môi
trường PDA (Hình 5).

Bảng 4. Khả năng ức ch của một số loại thuốc hóa học
đ n sự phát triển của nấm R. Solani trên môi trường nhân tạo
(Trung tâm Nghiên cứu trồng và chế biến cây thuốc Hà Nội, tháng 8 năm 2018)
Đường kính tản nấm trung bình (mm) sau
24 giờ
48 giờ
72 giờ

Thuốc hóa học
Đối chứng (không
xử lý)

13,1


a

52,6

Amistar
325SC

12,0

b

21,0

Vanicide 5SL

12,2

b

LSD0,05
CV%

0,34
1,4

top

a

90,0


a

c

30,2

31,4

b

56,0

0,64
0,9

0,62
0,5

c

b

Đặc điểm tản nấm
Tản nấm phát triển nhanh, lan
rộng ra kín đĩa, mọc tràn lên trên
giấy thấm
Tản nấm phát triển chậm, ít bông
xốp, mọc cách xa giấy thấm
Tản nấm phát triển trung bình, tản

nấm ít bông xốp, nấm mọc tránh
giấy thấm.
-

Ghi chú: Các công thức trong cùng một cột có chữ cái giống nhau thì hác nhau hông có ý nghĩa
với độ tin cậy 95%
chất azoxystrobin 200 g/l + difenoconazole 125
g/l) và Vanicide 5SL (hoạt chất validamycin A:
5%) đều có khả năng hạn chế sự phát triển của
sợi nấm R. solani trên môi trường PDA. Trong đó
thuốc Amistar top 325 SC có khả năng hạn chế
mạnh nhất.
- Cần có những nghiên cứu sâu hơn về nấm
R. solani gây bệnh chết rạp cây con ba kích trong
sản xuất làm cơ sở khuyến cáo các biện pháp
phòng trừ thích hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hình 5. Sự phát triển của tản nấm
R. solani trên môi trƣờng PDA có/không
xử lý thuốc trừ nấm
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
- Nguyên nhân gây bệnh chết rạp cây con ba
kích tại Thanh Hóa và Bắc Giang là do nấm
Rhizoctonia solani gây ra. Bệnh biểu hiện triệu
chứng điển hình trên cây ba kích trong vườn
ươm với một phần thân sát gốc bị khô và teo lại,
một số cây bị chết rạp. Nấm R. solani phát triển
o
tốt nhất ở nhiệt độ 25 30 C và pH 7 trên môi
trường PDA.

- Thuốc trừ nấm Amistar top 325 SC (hoạt
38

(1) Ti ng Việt
1. Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2010. QCVN 01-38:
2010/BNNPTNT. Quy chuẩn ỹ thuật quốc gia về
phương pháp điều tra phát hiện dịch hại cây trồng
2. Đặng Thị Hà, Chu Thị Mỹ, Phan Thúy Hiền,
Nguyễn Thị Bình và Trần Hữu Khánh Tân, 2017. Nghiên
cứu tác nhân gây bệnh héo vàng trên cây ba kích
(Morinda officinalis How. Tạp chí bảo vệ thực vật, 2: 9-13.
3. Đỗ Huy Bích, Đặng Quang Chung, Bùi Xuân
Chương, Nguyễn Thuận Dong, Đỗ Trung Đàm, Phạm
Văn Hiển, Vũ Ngọc Lộ, Phạm Duy Mai, Phạm Kim Mãn,
Đoàn Thị Nhu, Nguyễn Tập, Trần Toàn, Viện dược liệu,
2004. Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, Nhà
xuất bản khoa học và kỹ thuật Hà Nội, Tập II.


Kết quả nghiên cứu Khoa học

BVTV - Số 6/2019

(2) Ti ng Anh
4. Ahmed D.B, Chaieb I., Salah K.B., Boukamcha
H., Jannet H.B., Mighri Z. and Daami-Remadi M.,2012.
Antibacterial and antifungal activities of Cestrum parqui
saponins: possible interaction with membrane sterols,
International Research Journal of Plant Science, 3 (1):
001-007.

5. Banett H.L and Hunter B.B., 1998. Illustrated
genera
of
imperfect
fungi.
The
American
Phytopathological Society, St.Paul, Minnesota. 218.
6. Burgess L.W., Knight T.E., Tesoriero L. and
Phan H. T., 2008. Diagnostic manual for plant
diseases in Vietnam. ACIAR Monograph, 129: 210.
7. Firdousi, S. A. and Khan, T. A.,2015. Two new
fungal diseases of trees of manudevi forest of Jalgaon,
district. Flora and Fauna (Jhansi), 21( 2): 158-160.
8. Koch, R.,1876. Untersuchungen über Bakterien:
V. Die Ätiologie der Milzbrand-Krankheit, begründet
auf
die
Entwicklungsgeschichte
des Bacillus

anthracis" [Investigations into bacteria: V. The etiology
of anthrax, based on the ontogenesis of Bacillus
anthracis] (PDF). Cohns Beitrage zur Biologie der
Pflanzen (in German), 2 (2): 277–310.
9. Krishna Kumar; Singh, D. R.; Natarajan
Amaresan; Kuttum Madhuri, 2012. Isolation and
pathogenicity
of Colletotrichum spp.
causing

anthracnose of Indian mulberry (Morinda citrifolia) in
tropical islands of Andaman and Nicobar, India,
Phytoparasitica, 40 (5): 485-491.
10. Shi Xuerong, Chi Peikun, 1988. Identification of
the pathogen causing wild disease of the medicinal
herb Indian mulberry (Morinda officinalis How.), Acta
Phytopathologica Sinica. 04.
11. Sneh B, Burpee L. Ogoshi A.,1991.
Identification of Rhizoctonia species. St Paul, Mn,
USA: APS press.

Phản biện: TS. Trịnh Xuân Hoạt

KẾT QUẢ XÁC ĐỊNH BỆNH ĐỐM CHẾT HOẠI HÌNH NHẪN GÂY HẠI THUỐC LÁ
Results of Diagnotic Necrotic Ring Spot Disease on Tobacco plant
1

Nguyễn Văn Chín và Hà Vi t Cƣờng
Ngày nhận bài: 06.9.2019

2

Ngày chấp nhận 26.9.2019
Abstract

In 2019, Tobacco instutute collected 15 disease samples with crooked tip to the side and necrotic ringspot on
leaves in growing tobacco Bac Giang; necrotic spot symptom in Bac Kan and Cao Bang; leaf curl and crooked tip
to the side in Tay Ninh to diagnose in Research centre for Tropical plant pathology – Vietnam national university
of Agriculture. Results of diagnosis showed that all disease samples in Bac Giang were caused by Tomato
necrotic ringspot virus (TNRV). Virus belong to Tospovirus genus and is spread by insect – thrips. TNRV is a virus

species that is detected the first times on tobacco plant in Vietnam. Other disease samples of Bac Kan, Cao Bang
and Tay Ninh provinces didn‟t infected with Tospovirus.
Keywords: Tobacco, virus, Tospovirus, Tomato necrotic ringspot virus, TNRV.
*

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong 3 năm gần đây, cây thuốc lá có triệu
chứng đốm chết hoại hình nhẫn có chiều hướng
1. Viện Thuốc lá
2. Học Viện Nông nghiệp Việt Nam

tăng dần ở các tỉnh phía Bắc, đặc biệt gây hại
nặng tại Chi nhánh Viện Thuốc lá Bắc Giang
trong vụ xuân 2019. Như năm 2017, chúng xuất
hiện rải rác trên đồng ruộng với mức độ gây hại
không đáng kể; Đến năm 2018, bệnh xuất hiện
phổ biến với tỷ lệ bệnh 12,5%; Và năm 2019,
chúng gây hại rất nặng với tỷ lệ bệnh dao động
39



×