Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đánh giá hiện trạng kháng hoạt chất thuốc Imidacloprid của rầy nâu (Nilaparvata lugens Stål) tại tỉnh Tiền Giang vụ Thu Đông năm 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.04 KB, 7 trang )

Kết quả nghiên cứu Khoa học

BVTV - Số 5/2019

ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG KHÁNG HOẠT CHẤT THUỐC Imidacloprid
CỦA RẦY NÂU (Nilaparvata lugens Stål) TẠI TỈNH TIỀN GIANG
VỤ THU ĐÔNG NĂM 2018
Evaluation of Imidacloprid Resistance Status of Brown Planthopper
(Nilaparvata lugens Stål) in Autumn-Winter Cropping Season of 2018 in
Tien Giang Province
3

4

2

Võ Quốc Việt , Nguyễn Thế Truyền , Lê Khắc Hoàng , Lê Thị Diệu Trang
Ngày nhận bài: 05.7.2019

1

Ngày chấp nhận: 13.8. 2019
Abstract

Brown planthopper (Nilaparvata lugens Stål.) is one of the most important pests on rice in Viet Nam and Asia,
its resistance to most of insecticide ingredients has been reported in many studies. Especticially, brown
planthopper had developed very high resistance to Imidacloprid for many years. In this article, we report on the
status of Imidacloprid resistance in Autumn-winter cropping season of 2018 in Tien Giang province. The
survey results on the use of chemical control for the planthopper showed that the use average level of
Imidacloprid in farmers is very low, 1.11% single-ingredient and 3.33% multi-ingredient (mixture of Imidacloprid
and Chlorpyrifos ethyl) products. Despite of low using Imidacloprid level during investigation, however the testing


resistance in laboratory conditions showed that the hopper still exhibited very high resistance to Imidacloprid with
LD50 recorded in 3 distrists of Chau Thanh, Cai Lay and Cai Be respectively 30.55 (μg/g); 31.72 (μg/g); 27.33
(μg/g) and resistance ratio (RR) ranged from 390.48 to 436.37.
Keywords: brown planthopper, Nilaparvata lugens, insecticide resistance, Imidacloprid
*

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Từ 2003 đến 2015, các đề tài nghiên cứu về
tính kháng hoạt chất thuốc Imidacloprid của rầy
nâu đã được nhiều nhóm nghiên cứu tiến hành
thực hiện. Cho đến gần đây nhất, theo Nguyễn
Thị Nhật Phương (2017) thì kết quả điều tra,
nghiên cứu cho thấy rằng sự tính kháng
Imidacloprid trên quần thể rầy nâu vẫn còn tồn
tại, mặc dù mức độ sử dụng thuốc Imidacloprid
đã giảm đáng kể.
Một số nghiên cứu trên thế giới ghi nhận rằng
tính kháng Imidacloprid trên rầy nâu có liên quan
chặt chẽ đến điểm đột biến ở hai tiểu đơn vị Nlα1
và Nlα3 của thụ thể Neonicotinoid-Achetylcholine
Receptor (nAChR) tại vị trí gần với vị trí gắn kết
Imidacloprid (Liu và cộng sự, 2004). Trong cả hai
tiểu đơn vị nAChR, sự thay đổi hay là sự đột biến
1. Viện Công nghệ Sinh học và Môi trường, Trường
ĐH Nông Lâm Tp.HCM
2. Khoa Nông học, Trường Đại học Nông Lâm Tp.HCM
3. Chi cục Kiểm dịch thực vật vùng II
4. Sinh viên trường Đại học Nông Lâm Tp. HCM


của a xít amin tyrosine (T) ở vị trí 151 đã được
thay đổi thành serine (Y151S). Vì vậy việc điều
tra và đánh giá lại khả năng kháng Imidacloprid
của quần thể rầy nâu qua thời gian với nhiều thế
hệ tại Tiền Giang ở thời điểm này là cần thiết để
làm tiền đề cho việc khảo sát sự hiện diện của
gene kháng Imidacloprid của rầy nâu.
Bài báo này cung cấp các dẫn liệu khoa học về
khả năng lưu tồn tính kháng thuốc của rầy nâu.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Vật liệu nghiên cứu
Phiếu điều tra;
Lồng nuôi rầy, các thiết bị đo nhiệt - ẩm độ
phòng thí nghiệm, giống lúa Jasmine 85, thiết bị
nhỏ thuốc microappicator 0,08 μl/l, thuốc kỹ thuật
Imidacloprid (95%) và các hóa chất, thiết bị khác
trong phòng thí nghiệm.
2.2 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng
10/2018 đến tháng 03/2019 tại 3 huyện Châu
9


Kết quả nghiên cứu Khoa học

BVTV - Số 5/2019

Thành, Cai Lậy và Cái Bè, tỉnh Tiền Giang và
phòng nghiên cứu côn trùng, viện Công nghệ
Sinh học và Môi trường, trường Đại học Nông

Lâm Tp. Hồ Chí Minh.
2.3 Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1 Điều tra tình hình canh tác lúa và hiện
trạng sử dụng thuốc BVTV trong phòng trừ rầy
nâu của nông dân tại tỉnh Tiền Giang
Phỏng vấn trực tiếp nông dân đang có diện
2
tích trồng lúa trên 2000m dựa trên bảng hệ
thống các câu hỏi đã chuẩn bị sẵn. Mỗi huyện
phỏng vấn 2 xã, mỗi xã phỏng vấn 15 hộ nông
dân tương ứng với 30 phiếu điều tra/ huyện.
Tổng số hộ điều tra của 3 huyện là 90 hộ.
2.3.2 Đánh giá khả năng kháng thuốc của các
rầy nâu hoạt chất Imidacloprid
Nhân nuôi - tạo quần thể rầy nâu: Rầy nâu
thu bắt từ ngoài đồng ruộng được nhân nuôi
0
trong trong điều kiện nhiệt độ 28 C ± 2, độ ẩm

a. Nhỏ thuốc lên mảnh lưng ngực của rầy nâu

80 %, 16 giờ sáng và 8 giờ tối. Nuôi rầy qua 2
thế hệ đến khi ổn định số lượng 2000 con/huyện
thì tiến hành thí nghiệm.
Cách pha thuốc: Khối lượng hoạt chất
imidacloprid cần hòa tan với dung môi (m) =
Nồng độ thuốc cần có (μg/g) * thể tích thuốc cần
có (ml) * CF
Trong đó, hệ số hiệu chỉnh CF = 100% / % a.i
hoạt chất Imidacloprid

Phương pháp nhỏ thuốc: Sử dụng rầy cái
trưởng thành cánh ngắn 3 ngày tuổi. Gây mê làm
bất động rầy với khí CO2 trong thời gian 15 giây.
Tiến hành nhỏ thuốc lên mảnh lưng ngực của rầy
nâu, mỗi con nhỏ 1 giọt tương ứng 0,08 μl/l. Công
thức đối chứng nhỏ bằng Acetone. Rầy sau khi xử
lý thuốc được thả vào hộp nhựa tròn (hộp phục
hồi), có chuẩn bị sẵn các cây lúa tươi quấn bông
giữ ẩm làm thức ăn cho rầy hồi phục. Mỗi nồng độ
được lặp lại 3 lần, mỗi lần xử lý 15 cá thể rầy.

b. Rầy sau nhỏ thuốc cho vào hộp phục hồi

Hình 1. Xử lý nhỏ thuốc rầy nâu
Sau thí nghiệm ước tính khoảng nồng độ gây
chết 10 - 95% cá thể với mục đích chọn ra dãy
nồng độ thu hẹp gồm:
 H. Châu Thành: 0; 12,5; 25; 50; 100; 200;
400; 800; 1600 và 3200 (μg/g).
 H. Cai Lậy: 0; 13,5; 27; 54; 108; 216; 432;
864; 1728 và 3456 (μg/g) .
 H. Cái Bè: 0; 11,5 ; 23; 46; 92; 184; 368;
736; 1472 và 2944 (μg/g).
 Rầy nâu mẫn cảm: 0; 0,125; 0,25; 0,5; 1;
2; 4; 8; 16; 32; 64 và 128 (μg/g).
Mỗi nồng độ xử lý với 45 cá thể rầy. Số liệu
10

rầy chết sau 24 giờ xử lý với hoạt chất
Imidacloprid được ghi nhận, xử lý bằng phần

mềm Polo Plus 2.0, tính toán giá trị về liều lượng
gây chết 50% cá thể (LD50). Từ đó, xác định
được tỉ lệ kháng thuốc (RR) của rầy nâu đối với
Imidacloprid.
Xử lý số liệu: Giá trị LD50 được tính bằng
phần mềm Polo-plus (LeOra Software,2002). Tỉ
lệ kháng thuốc (RR) được đánh giá theo tỉ lệ
giữa rầy thí nghiệm và rầy mẫn cảm. Nếu tỉ lệ
kháng (RR) < 3 là rầy còn mẫn cảm; (RR) từ 5 10 là kháng thấp; (RR) từ 11 - 40 là kháng trung


Kết quả nghiên cứu Khoa học

BVTV - Số 5/2019

bình, (RR) 41 - 160 là kháng cao, (RR) > 160 là
kháng rất cao.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Tình hình canh tác lúa và hiện trạng sử
dụng thuốc BVTV trong phòng trừ rầy nâu
của nông dân Tiền Giang

3.1.1 Các giống lúa canh tác trong vụ Thu
Đông 2018
Thông tin ghi nhận từ điều tra thực tế về tình
hình các giống lúa được canh tác trong vụ Thu
Đông năm 2018 tại tỉnh Tiền Giang được trình
bày trong bảng 1.

Bảng 1. Các giống lúa trồng trong vụ Thu Đông 2018 tại tỉnh Tiền Giang

Giống

Loại giống

Đài thơm 8
IR 50404
Nàng hoa 9
OM 4900
Long Hồ 9
IR 4625
ST 21
OM 5451

Nhiễm rầy
Nhiễm rầy
Nhiễm rầy
Nhiễm rầy
Nhiễm rầy
Nhiễm rầy
Nhiễm rầy
Nhiễm rầy

Châu Thành
6,66
46,67
10,00
0,00
0,00
20,00
10,00

6,67

Qua điều tra thực tế, kết quả ghi nhận, các
giống lúa được nông dân gieo trồng ở 3 huyện
Châu Thành, Cai Lậy và Cái Bè, tỉnh Tiền Giang
trong vụ Thu Đông năm 2018 là những giống lúa
có mức độ nhiễm rầy nhẹ hoặc vừa. Hai giống
lúa được gieo trồng nhiều nhất là giống Đài thơm
8 và IR 50404. Với trung bình số hộ gieo trồng
tương ứng lần lượt là 80% ở huyện Cái Bè giống Đài Thơm 8; 46,67% và 53,33% ở huyện
Châu Thành và Cai Lậy - giống IR 50404. Việc
chọn trồng các giống lúa có mức độ nhiễm rầy

Tỉ lệ (%)
nông dân canh tác
Cai Lậy
30,00
53,33
0,00
10,00
0,00
0,00
0,00
6,67

Cái Bè
80,00
16,67
0,00
0,00

3,33
0,00
0,00
0,00

nhẹ và vừa cũng là một biện pháp chủ động
phòng ngừa và hạn chế được sự tấn công, gây
hại của rầy nâu trong canh tác lúa của nông dân
tỉnh Tiền Giang.
3.1.2. Các loại thuốc trừ sâu được sử dụng
trong phòng trừ rầy nâu
Các loại thuốc trừ sâu được nông dân sử
dụng trong phòng trừ rầy nâu tại tỉnh Tiền Giang
trong canh tác lúa vụ Thu Đông năm 2018 được
trình bày trong bảng 2.

Bảng 2. Các hoạt chất thuốc trừ sâu đƣợc nông dân tỉnh Tiền Giang sử dụng
trong vụ Thu Đông năm 2018
Tỉ lệ (%) nông dân sử dụng
Hoạt chất

STT

Châu
Thành

Trung

Cai Lậy


Cái Bè

bình

1

Abamectin

30,00

3,33

0,00

11,11

2

Acetamiprid

10,00

0,00

3,33

4,44

3


Acetamiprid + Buprofezin

0,00

0,00

6,67

2,22

4

Acetamiprid + Pymetrozine

6,67

60,00

0,00

22,22

5

Buprofezin

0,00

0,00


10,00

3,33

6

Carbosulfan + Chlorfluazuron

0,00

6,67

3,33

3,33

7

Cartap

6,67

0,00

0,00

2,22

11



Kết quả nghiên cứu Khoa học

BVTV - Số 5/2019

Tỉ lệ (%) nông dân sử dụng
Hoạt chất

STT

Châu
Thành

Cai Lậy

Cái Bè

bình

8

Chlorantraniprole + Thiamethoxam

26,67

26,67

10,00

21,11


9

Chlorfluazuron + Fipronil

3,33

0,00

0,00

1,11

10

Chlorpyrifos ethyl + Cypermethrin

16,67

10,00

10,00

12,22

11

Cypermethrin

3,33


0,00

0,00

1,11

12

Dinotefuran

3,33

0,00

0,00

1,11

13

Emamectin benzoate

10,00

6,67

0,00

5,56


14

Fenobucarb

0,00

0,00

6,67

2,22

15

Fipronil

50,00

0,00

23,33

24,44

16

Flubendiamide

0,00


0,00

13,33

4,44

17

Imidacloprid

3,33

0,00

0,00

1,11

18

Imidacloprid + Chlorpyrifos ethyl

0,00

10,00

0,00

3,33


19

Nitenpyram

6,67

50,00

6,67

21,11

20

Nitenpyram + Pymetrozine

10,00

6,67

0,00

5,56

21

Nitenpyram +Pymetrozine +Diflubenzuron

0,00


0,00

6,67

2,22

22

Pymetrozine

30,00

86,67

63,33

60,00

Trong số các hoạt chất bảng 2 như trên,
Pymetrozine được ghi nhận chung là hoạt chất
được nông dân sử dụng nhiều nhất trung bình ở
cả 3 huyện là 60%. Trong đó, ở huyện Cai Lậy với
86,67% (thuốc ở dạng đơn) và 60% (thuốc dạng
hỗn hợp giữa Acetamiprid và Pymetrozine. Theo
đánh giá của nông dân, thuốc có thành phần hoạt
chất Pymetrozine có hiệu quả cao nhất trong
phòng trừ rầy nâu. Tuy nhiên, tùy thuộc vào nhiều
yếu tố khách quan mà nông dân có lựa chọn dùng
loại hoạt chất này hoặc thuốc có hoạt chất khác

để thay thế, đáp ứng với tình hình thực tế.
Bên cạnh đó, kết quả điều tra cũng ghi nhận
thuốc chứa hoạt chất Imidacloprid vẫn còn được
ứng dụng trên loài sâu hại này tuy mức độ sử
dụng là rất thấp (3,33% nông dân ở huyện Châu
Thành sử dụng ở dạng đơn chất và 10% nông
dân ở huyện Cai Lậy sử dụng ở dạng hỗn hợp).
Tức là trung bình ở cả 3 huyện là 1,11% nông
dân sử dụng dưới dạng đơn chất và 3,33% được
sử dụng dưới dạng hỗn hợp. Mặt khác, các hoạt
chất cùng nhóm Neonicotinoid với Imidacloprid
qua kết quả điều tra như Acetamiprid,
Thiamethoxam, Dinotefuran và Nitenpyram được

12

Trung

nông dân sử dụng hiện nay cũng ở mức trung
bình hoặc khá phổ biến.
3.1.4. Liều lượng thuốc trừ sâu trong phòng
trừ rầy nâu của nông dân
Qua hình 1 có thể thấy, tỉ lệ các hộ nông dân
sử dụng thuốc đúng liều lượng khuyến cáo ở cả
3 huyện là không cao, dưới mức 50%. Tỉ lệ nông
dân sử dụng thuốc đúng liều lượng cao nhất là ở
huyện Cái Bè với mức 46,67%, tỉ lệ thấp hơn là
nông dân ở 2 huyện Châu Thành và Cai Lậy với
cùng mức 43,33%.
Bên cạnh đó, hiện trạng sử dụng thuốc không

đúng khuyến cáo, vượt quá liều lượng khuyến
cáo cũng được ghi nhận ở cả 3 huyện Châu
Thành, Cai Lậy và Cái Bè ở mức khá phổ biến.
Liều lượng thuốc sử dụng cao hơn từ gấp 1,5
đến 2 lần.
Liều lượng thuốc nông dân sử dụng vượt quá
khuyến cáo là khác nhau ở các huyện, nhìn
chung phổ biến nhất là ở ngưỡng gấp 1,5 lần
khuyến cáo. Cao nhất là ở huyện Cai Lậy, có
trung bình 46,67% sử dụng liều gấp 1,5 lần
khuyến cáo và ở 2 huyện Châu Thành và Cái Bè
có cùng mức 38,33%.


Kết quả nghiên cứu Khoa học

BVTV - Số 5/2019

Liều lượng thuốc trừ rầy nâu
tại tỉnh Tiền Giang (Vụ Thu Đông 2018)
50%
40%
30%

43,33%

43,33%

46,67%


46,67%

38,33%

38,33%

20%
10%

18,34%

15%

10%

0%

Châu Thành

Cái Bè

Đúng khuyến cáo

43,33%

Cai Lậy
43,33%

Gấp 1,5 lần


38,33%

46,67%

38,33%

Gấp 2 lần

18,34%

10%

15%

46,67%

Hình 1. Liều lƣợng thuốc trừ rầy nâu tại tỉnh Tiền Giang (vụ Thu Đông 2018)
3.2 Xác định mức độ kháng thuốc của rầy
nâu đối với hoạt chất Imidacloprid
3.2.1. Mức độ kháng thuốc của rầy nâu đối với
hoạt chất Imidacloprid trong vụ Thu Đông năm 2018

Thí nghiệm thăm dò ước tính nồng độ gây
chết 10% và 95% cá thể với nhiều nồng độ khác
nhau nhằm giới hạn để chọn ra được khoảng
nồng độ gây chết từ 10 - 95% cá thể.

Bảng 4. Mức độ kháng hoạt chất thuốc Imidacloprid của rầy nâu ở tỉnh Tiền Giang
Nguồn rầy nâu


LD50
(μg/g)

Giới hạn tin cậy 95%

Độ dốc (SE)
(Slope)

Châu Thành
Cai Lậy
Cái Bè
Mẫn cảm

30,55
31,72
27,33
0,07

22,58 - 42,17
23,41 - 43,73
20,31 - 37,44
0,03 - 0,13

1,05
1,04
1,07
0,50

Kết quả ghi nhận từ bảng 4 cho thấy LD 50 ở
các quần thể rầy nâu ở 3 huyện Châu Thành,

Cai Lậy và Cái Bè dao động từ 27,33 - 31,72
(μg/g). Trong đó giá trị LD 50 cao nhất là nguồn
rầy ở Cai Lậy với giá trị LD 50 là 31,72 (μg/g).
Kế tiếp theo đó là nguồn rầy từ huyện Châu
Thành và cuối cùng là ở huyện Cái Bè với lần
lần giá trị LD 50 là 30,55 (μg/g) và 27,33 (μg/g).
Tỉ lệ kháng thuốc (RR) tương ứng dao động từ
390,48 - 453,15. Dựa trên các số liệu tỉ lệ
kháng bảng 4 của rầy nâu và thang đánh giá
mức độ kháng thuốc, rầy nâu ở cả 3 huyện
Châu Thành, Cai Lậy và Cái Bè của tỉnh Tiền
Giang được đánh giá là đã kháng rất cao với
Imidacloprid.

Tính không đồng
nhất
(Heterogeneity)
0,24
0,133
0,18
0,29

Tỉ lệ
kháng
(RR)
436,37
453,15
390,48
1,00


3.2.2 Diễn biến tính kháng hoạt chất thuốc
Imidacloprid của rầy nâu tại Tiền Giang
Các số liệu cập nhật ở bảng 5 cho thấy về
thực trạng diễn biến tính kháng hoạt chất thuốc
Imidacloprid của rầy nâu tại Tiền Giang qua các
năm thông qua các nghiên cứu. Số liệu cho thấy
vào năm 2006, giá trị LD50 của rầy nâu ở mức rất
cao (16,3 - 24,2 μg/g), ở thời điểm này tương
ứng với sự kiện bùng phát mạnh dịch rầy nâu ở
các tỉnh thuộc ĐBSCL và Đông Nam Bộ (Báo cáo
của Cục BVTV, 2006).
Năm 2009 giá trị LD50 của rầy nâu đã giảm
xuống còn 1,8 (μg/g), tức là đã giảm 9,1 - 13,4
lần so với năm 2006. Nguồn rầy nâu tại tỉnh Tiền
Giang được đánh giá là kháng cao với hoạt chất
Imidacloprid với tỉ lệ kháng thuốc (RR) là 42,9.

13


Kết quả nghiên cứu Khoa học

BVTV - Số 5/2019

Bảng 5. Diễn biến tính kháng hoạt chất Imidacloprid
của rầy nâu tại Tiền Giang qua các năm
Năm
2006

Tiền Giang

LD50 (μg/g)
(1)
16,30 - 24,20
(2)

Mức độ kháng
thuốc
-

Ri
(2)

2009
2010
2011
2014
2015
2016

1,80
(2)
2,40
(2)
3,50
(3)
26,30
(3)
24,10
(4)
15,33


42,90
(2)
57,10
(2)
83,30
(3)
219,20
(3)
185,40
(4)
172,86

Kháng cao
Kháng cao
Kháng cao
Kháng rất cao
Kháng rất cao
Kháng rất cao

2018

27,34 - 30,55

390,48 - 453,15

Kháng rất cao

Ghi chú
Huyện Long Định, huyện

Chợ Gạo
Huyện Châu Thành,
Huyện Cai Lậy.
Huyện Châu Thành,
Huyện Cai Lậy,
Huyện Cái Bè.

Chú thích:
- Không có số liệu
1. Masaya Matsumura, Hiroaki Takeuchi, Masaru Satoh, Sachiyo Sanada-Morimura, Akira Otuka,
Tomonari Watanabe, Dinh Van Thanh
2. Phan Văn Tương, Phùng Minh Lộc, Nguyễn Văn Huỳnh,Trần Tấn Việt, Huỳnh Ngọc Diễm
3. Phùng Minh Lộc, Trần Thanh Tùng, Hồ Thị Thu Giang, Taro Adati
4. Nguyễn Thị Nhật Phương
Các số liệu tổng hợp từ các nghiên cứu cũng
cho thấy, giá trị LD 50 có xu hướng tăng dần qua
các năm từ năm 2009 - 2018, từ 1,8 (μg/g) đến
từ 27,34 - 30,55 (μg/g), tức là giá trị LD 50 đã
tăng ở mức gấp 15,19 - 16,97 lần. Mức độ
kháng thuốc của rầy nâu cũng tăng dần từ mức
kháng cao (2009 - 2011) đến mức kháng rất cao
(2014 - 1018).
Kết quả ở bảng 5 cho thấy các giá trị LD50 và
tỉ lệ kháng (RR) duy trì ở mức cao qua nhiều
năm. Nhưng hiện trạng sử dụng Imidacloprid
trong kiểm soát rầy nâu của nông dân cũng giảm
đáng kể, tuy nhiên thực tại tính kháng hoạt chất
Imidacloprid vẫn duy trì ở mức độ cao.
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1 Kết luận

Ba nhóm thuốc được sử dụng tại Tiền Giang
trừ rầy nâu phổ biến ở dạng đơn hoạt chất là
Pyridine
azomethine
(Pymetrozine:
60%,
Neonicotinoid
(Nitenpyram:
21,11%),
Phenylpyrazole (Fipronil: 24,44) và ở dạng hỗn
hợp là Acetamiprid và Pymetrozine (22,22%),
14

Chlorantraniprole và Thiamethoxam (21,11%).
Hoạt chất Imidacloprid được sử dụng ở mức
độ rất thấp ở tỉnh Tiền Giang, chỉ 1,11% hộ sử
dụng ở dạng đơn chất và 3,33% hộ sử dụng ở
dạng hỗn hợp (dạng hỗn hợp giữa Imidacloprid
và Chlorpyrifos ethyl).
Liều lượng sử dụng thuốc trong kiểm soát rầy
nâu ở Tiền Giang phổ biến với liều lượng cao
hơn khuyến cáo từ 1,5 - 2 lần.
Mặc dù, tần suất sử dụng Imidacloprid trong
phòng trừ rầy nâu ở 3 huyện là rất thấp. Tuy
nhiên, khi kiểm tra tính kháng trong phòng thí
nghiệm của rầy nâu thu thập từ 3 huyện Châu
Thành, Cai Lậy và Cái Bè đều thể hiện tính
kháng rất cao đối với hoạt chất thuốc
Imidacloprid với tỉ lệ kháng RR dao động từ
390,48 - 436,37 lần. Các số liệu điều tra thực tế

cho thấy nhiều hoạt chất cùng nhóm
Neonicotinoid, cùng cơ chế tác động với
Imidacloprid vẫn được sử dụng trong phòng trừ
rầy nâu tại Tiền Giang. Đây cũng có thể là một
trong những yếu tố tác động làm cho rầy nâu duy


Kết quả nghiên cứu Khoa học

BVTV - Số 5/2019

trì tính kháng cao với Imidacloprid mặc dù tần
suất tiếp xúc với hoạt chất này là không cao.
Nhưng bên cạnh đó cũng không loại trừ các khả
năng về sự xuất hiện của đột biến điểm Y151S
(Liu và cộng sự, 2004) hoặc sự hiện diện của
gene kháng khác như CYP6ER1 (Ruoheng Jin
và cộng sự, 2019).
4.2 Đề nghị
Tiếp tục thực hiện các thí nghiệm theo dõi tính
kháng hoạt chất thuốc Imidacloprid của rầy nâu
qua các năm.
Khảo sát sự hiện diện của gene kháng
Imidacloprid trên các quần thể rầy nâu tại tỉnh
Tiền Giang.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cục BVTV, 2007. Báo cáo tình hình và kết quả
thực hiện công tác phòng chống rầy nâu, bệnh vàng lùn,
lùn xoắn lá trên lúa các tỉnh, thành phía Nam năm 2006.
2. Liu và cộng sự, 2004. A nicotinic acetylcholine

receptor mutation conferring target-site resistance to
Imidacloprid in Nilaparvata lugens (brown planthopper).
3. Matsumura và ctv, 2008. Species-specific
insecticide resistance to Imidacloprid and Fipronil in the

rice planthoppers Nilaparvata lugens and Sogatella
furcifera in East and South-east Asia. Pest Manag Sci.
2008; số 64, trang 1115 - 1121.
4. Nguyễn Thị Nhật Phương, 2017. Đánh giá khả
năng kháng thuốc của rầy nâu (Nilaparvata lugens Stål)
đối với các hoạt chất Imidacloprid, Fenobucard,
Profenofos tại các tỉnh Tiền Giang, An Giang và Cần
Thơ. Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành BVTV. Đại học
Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh.
5. Phan Văn Tương, 2013. Nghiên cứu khả năng
kháng thuốc của rầy nâu (Nilaparvata lugens Stål) đối
với các hoạt chất thuốc trừ sâu Fenobucarb, Fipronil và
Imidacloprid tại Đồng bằng sông Cửu Long. Luận án
Tiến sĩ chuyên ngành BVTV, Đại học Nông Lâm Tp.
HCM, 135 trang.
6. Phùng Minh Lộc, Trần Thanh Tùng, Lê Thị Diệu
Trang, Hồ Thị Thu Giang và Taro Adati, 2016. Đánh giá
hiệu lực phòng trừ rầy nâu hại lúa (Nilaparvata lugens
Stål.) của một số thuốc trừ sâu. Tạp chí chuyên ngành
BVTV số 4/2016, trang 37 - 43.
7. Ruoheng Jin và cộng sự, 2019. Overexpression
of CYP6ER1 associated with clothianidin resistance in
Nilaparvata lugens (Stål)

Phản biện: TS. Đào Bách Khoa


HIỆU LỰC TRONG PHÕNG THÍ NGHIỆM CỦA TUYẾN TRÙNG GÂY BỆNH
CÔN TRÙNG ĐỐI VỚI MỌT ĐỤC THÂN (Euwallacea fornicatus)
HẠI KEO TAI TƢỢNG VÀ KEO LAI
Laboratory Efficacy of EPNs to Euwallacea fornicatus Damaging
on Accacia mangium and Accacia Hybrid
1

Bùi Quang Tiếp , Trịnh Quang Pháp
Ngày nhận bài: 02.7.2019

2

Ngày chấp nhận: 13.8.2019
Abstract

Polyphagous shot-hole borer Euwallacea fornicatus (Eichhoff) (Coleoptera, Curculionidae: Scolytinae)
damages not only on forest trees but also on plants and landscape trees around the world. The experiment was
used two entomopathogenic nematode (EPN) species
Heterorhabditis
indica
and
Steinernema
1. Trung tâm Nghiên cứu Bảo vệ rừng.
quangdongense to control the third larvae of
2. Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật

15




×