Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Đánh giá hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp của xã Sen Thủy - huyện Lệ Thủy - tỉnh Quảng Bình. Đề xuất một số giải pháp sử dụng đất bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (736.17 KB, 67 trang )

PHẦN THỨ NHẤT
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong vài thập kỷ trở lại đây, sự gia tăng dân số của thế giới đã thúc
đẩy nhu cầu ngày càng lớn về lương thực và thực phẩm. Song song với sự
phát triển dân số là sự phát triển về kinh tế, khoa học kỹ thuật. Và để thỏa
mãn nhu cầu ngày càng cao, nhiều hoạt động của con người đã gây ảnh
hưởng đến môi trường và các nguồn tài nguyên đất đai, một dạng tài nguyên
không tái tạo được. Do đó, việc đánh giá tài nguyên thiên nhiên làm cơ sở cho
việc sử dụng hợp lý, hiệu quả và phát triển bền vững là một nhiệm vụ khó
khăn trong giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh đó, việc sử dụng đất nông nghiệp đạt hiệu quả cao là vấn đề
quan tâm hàng đầu trong công tác quản lý, sử dụng đất của nhà nước. Mà lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp là một ngành kinh tế lấy đất đai làm tư liệu sản xuất
thì mỗi mục đích sử dụng đất có những yêu cầu nhất định mà đất đai cần đáp
ứng. Việc lựa chọn, so sánh các kiểu sử dụng đất hoặc cây trồng khác nhau
phù hợp với điều kiện đất đai là đòi hỏi của người sử dụng đất, các nhà làm
quy hoạch, để từ đó có những quyết định đúng đắn, phù hợp trong việc sử
dụng đất mang lại hiệu quả kinh tế và bền vững. Vì vậy, đánh giá mức độ
thích hợp tài nguyên đất đai phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp là một
việc làm tất yếu của bất kỳ một quốc gia, một vùng lãnh thổ hay tại một địa
phương nào đó là rất cần thiết.
Tình hình thực tế ở nước ta cho thấy, việc quản lý và sử dụng đất còn
nhiều bất cập. Đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng được quản lý
và sử dụng chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của người dân và phụ thuộc vào thời
tiết khí hậu. Ngoài ra, việc canh tác cây trồng ít quan tâm đến bảo vệ và cải
tạo đất đai đã làm cho chất lượng đất ngày càng bị suy giảm nghiêm trọng. Vì
vậy, việc nghiên cứu đánh giá hiện trạng đất đai hợp lý, bền vững và đạt hiệu
quả cao theo hướng sản xuất hàng hóa đang được quan tâm nghiên cứu trên
phạm vi cả nước và từng vùng.
1


Xã Sen Thủy – huyện Lệ Thủy – tỉnh Quảng Bình là một xã vùng đồng
bằng của tỉnh. Có chiều dài 10 km, với tổng diện tích tự nhiên của xã là
7.526,86 ha, và tổng dân số của xã là 5.556,00 người. Sen Thủy là một xã
đang trên đà phát triển của huyện Lệ Thủy. Tuy nhiên, nền kinh tế của xã chủ
yếu vẫn dựa vào sản xuất nông nghiệp. Do đặc tính của vị trí địa lí nên địa
bàn của xã có tuyến đường quốc lộ 1A chạy dọc qua theo hướng Bắc – Nam.
Đây là một điều kiện thuận lợi để xã phát triển kinh tế xã hội. Do đất đai có
độ phì thấp, hiệu quả sản xuất không cao nên để đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao về lương thực thực phẩm, đồng thời góp phần tăng thu nhập cho người
dân, thâm canh trên một đơn vị diện tích đất được coi là biện pháp hữu hiệu
nhất. Tuy nhiên, nếu thâm canh không hợp lý nhiều khi lại làm tăng nhanh
mức độ ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí, làm giảm nhanh sức sản
xuất của đất. Vì vậy, trong quá trình khai thác, sử dụng của người dân sẽ
không tránh khỏi tình trạng sử dụng đất không hợp lý nên hiệu quả sử dụng
đất mang lại không cao.
Xuất phát từ thực tế đó, được sự đồng ý của khoa TNĐ&MTNN và cô
giáo hướng dẫn, TS.Trần Thị Thu Hà, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Đánh giá hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp của xã Sen Thủy - huyện Lệ
Thủy - tỉnh Quảng Bình. Đề xuất một số giải pháp sử dụng đất bền vững”.
1.2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
- Đánh giá hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp của xã Sen Thủy, huyện
Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình góp phần xây dựng, làm cơ sở để phục vụ cho
công tác phân bổ quỹ đất.
- Góp phần tạo nên một cơ sở pháp lí chặt chẽ trong việc quản lí và sử
dụng nguồn tài nguyên đất đai cho địa phương .
- Góp phần xây dựng cơ sở pháp lí phục vụ cho vấn đề quản lí nhà
nước đối với các hình thức giao đất, thu hồi đất…theo quy định của pháp luật
về đất đai ở trên địa bàn xã.
- Xác định các loại hình sản xuất nông nghiệp nhằm mang lại hiệu quả
cao trong việc sử dụng đất nông nghiệp, phục vụ cho phát triển bền vững.

- Đề xuất hướng sử dụng đất theo hướng bền vững.
2
1.3. YÊU CẦU CỦA ĐỀ TÀI
- Đánh giá đúng, khách quan trung thực, toàn diện hiện trạng sử dụng
đất nông nghiệp.
- Các phương án đánh giá cần phải xây dựng trên cơ sở điều tra số liệu,
phân tích cụ thể đảm bảo tính khoa học.
- Bước đầu đề xuất các giải pháp để sử dụng đất có hiệu quả và
bền vững, có tính khả thi cao.
- Sử dụng tổng hợp các phương pháp điều tra đảm bảo độ chính xác của
số liệu.
- Nội dung đề tài có thể áp dụng vào thực tế.
3
PHẦN THỨ HAI
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐÁNH GIÁ ĐẤT
2.1.1. Các khái niệm liên quan
2.1.1.1. Khái niệm về đất đai
Trong phạm vi nghiên cứu về sử dụng đất, đất đai được nhìn nhận như
một nhân tố sinh thái (FAO, 1976). Trên quan điểm nhìn nhận của FAO thì
đất đai bao gồm tất cả các thuộc tính sinh học và tự nhiên của bề mặt trái đất
có ảnh hưởng nhất định đến tiềm năng và hiện trạng sử dụng đất. Như vậy,
đất được hiểu như một tổng thể của nhiều yếu tố bao gồm: (khí hậu, địa mạo/
địa hình, đất, thổ nhưỡng, thủy văn, thảm thực vật tự nhiên, động vật tự nhiên,
những biến đổi của đất do hoạt động của con người). [2]
“Đất đai là một diện tích cụ thể của bề mặt trái đất bao gồm tất cả các
cấu thành của môi trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt như: khí hậu, bề
mặt, thổ nhưỡng, dạng địa hình, mặt nước, các lớp trầm tích sát bề mặt cùng
với nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất, tập đoàn động thực vật, trạng
thái định cư của con người, những kết quả của con người trong quá khứ và

hiện tại để lại (san nền, hồ chứa nước hay hệ thống tiêu thoát nước, đường sá,….)”. [3]
“Đất đai là một vạt đất xác định về mặt địa lý, là một phần diện tích bề
mặt của trái đất với những thuộc tính tương đối ổn định hoặc thay đổi có tính
chất chu kì có thể dự đoán được của môi trường bên trên, bên trong và bên
dưới nó như không khí, loại đất, điều kiện địa chất, thủy văn, động thực vật,
những hoạt động tác động từ trước và hiện tại của con người, ở chừng mực
mà những thuộc tính này có ảnh hưởng đáng kể đến việc sử dụng vạt đất đó
của con người trong hiện tại và tương lai”.
Từ các định nghĩa trên, đất đai được hiểu là: Đất đai là một vùng đất có
vị trí cụ thể, có ranh giới và có những thuộc tính tổng hợp của các yếu tố tự
nhiên, kinh tế - xã hội như: khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng, địa chất/địa mạo,
thủy văn, động thực vật và các hoạt động sản xuất của con người.
4
2.1.1.2. Khái niệm về đánh giá đất đai
- Đánh giá đất đai là so sánh, đánh giá khả năng của đất theo từng
khoanh đất vào độ màu mỡ và khả năng sản xuất của đất.
- Theo Sôbôlev: đánh giá đất là học thuyết về sự đánh giá có tính chất
so sánh chất lượng đất của các vùng đất khác nhau mà ở đó thực vật sinh
trưởng và phát triển.
- Đánh giá đất đai là sự phân chia có tính chất chuyên canh về hiệu suất
của đất do những dấu hiệu khách quan (khí hậu thời tiết, thủy văn, thảm thực
vật tự nhiên, hệ động vật tự nhiên…) và thuộc tính của chính đất đai tạo nên.
- Đánh giá đất đai chỉ có ý nghĩa trong lĩnh vực một vùng có điều kiện
tự nhiên (trừ yếu tố đất), điều kiện kinh tế xã hội như nhau.
- Theo FAO (1976) đánh giá đất đai là quá trình so sánh đối chiếu
những tính chất vốn có của vạt/khoanh đất cần đánh giá với những tính chất
đất đai mà loại hình sử dụng đất yêu cầu.
Trong sản xuất nông nghiệp, việc đánh giá đất nông nghiệp được dựa
theo các yếu tố đánh giá đất với những mức độ khác nhau. Mức độ khác nhau
của các yếu tố đánh giá đất được tính toán dựa trên những cơ sở khách quan,

phản ánh các thuộc tính của đất và mối tương quan giữa chúng với năng suất
cây trồng trong nhiều năm. Nói cách khác, đánh giá đất đai trong sản xuất
nông nghiệp thường dựa vào chất lượng (độ phì tự nhiên và độ phì hữu hiệu)
của đất và mức sản phẩm mà độ phì đất tạo nên. [2]
Trong đánh giá đất đai có hai khái niệm cụ thể như sau:
- Đánh giá tiềm năng sử dụng đất đất đai: Là việc phân chia hay phân
hạng đất đai thành các nhóm dựa trên các yếu tố thuận lợi hay hạn chế trong
sử dụng như độ dốc, độ dày tầng đất, đá lẫn, tình trạng xói mòn, ngập úng,
khô hạn, …Trên cơ sở đó có thể lựa chọn những kiểu sử dụng đất phù hợp.
- Đánh giá mức độ thích hợp đất đai: Là quá trình xác định mức độ
thích hợp cao hay thấp của các kiểu sử dụng đất cho một đơn vị đất đai và
tổng hợp cho toàn khu vực dựa trên so sánh yêu cầu kiểu sử dụng đất với đặc
điểm các đơn vị đất đai.
5
2.1.1.3. Khái niệm về loại hình sử dụng đất (LUT)
LUT là loại hình đặc biệt của sử dụng đất được mô tả theo các thuộc
tính nhất định. LUT là bức tranh mô tả thực trạng sử dụng đất của một vùng
đất với những phương thức quản lý sản xuất trong các điều kiện kinh tế - xã
hội và kỹ thuật được xác định. Trong sản xuất nông nghiệp, loại hình sử dụng
đất được hiểu khái quát là hình thức sử dụng đất đai để sản xuất hoặc phát
triển một nhóm cây trồng, vật nuôi trong một chu kỳ hoặc chu kỳ nhiều năm.
Ngoài ra, LUT còn có nghĩa là kiểu sử dụng đất. [2]
2.1.2. Những luận điểm cơ bản về đánh giá đất
2.1.2.1. Trên thế giới
Các nghiên cứu về đất trên thế giới xuất hiện khá sớm. Cách đây hơn
bốn nghìn năm, người Trung Quốc đã có sơ đồ thổ nhưỡng và đã biết sử dụng
để làm cơ sở cho việc đánh thuế (Nycle C. Brady, 1974). Nhưng mãi đến thế
kỷ XIV sau Công nguyên, việc đánh giá đất mới được đi sâu, nghiên cứu và
ứng dụng ở nhiều nước châu Âu. Đến giữa thế kỷ XIX, Đocutraiev đã đưa ra
cơ sở phân hạng đất theo quan điểm phát sinh, từ đó nhiều nhà thổ nhưỡng

học trên thế giới đã nghiên cứu và đưa ra nhiều quan điểm và phương pháp
đánh giá đất khác nhau. Các phương pháp đánh giá đất mới đã dần dần phát
triển thành lĩnh vực nghiên cứu liên ngành mang tính chất hệ thống nhằm kết
hợp các kiến thức khoa học về tài nguyên đất và mục đích sử dụng đất. Vì
vậy, có các luận điểm đánh giá đất của một số nước và tổ chức trên thế giới
như sau:
a/ Luận điểm đánh giá đất của Đôcutraiev
Đánh giá đất đai của Đôcutraiev cho rằng để đánh giá đất đai có hiệu
quả cần nghiên cứu khả năng tự nhiên của đất. Theo ông, khả năng tự nhiên
của đất là yếu tố quyết định giá trị của đất và sự thu nhập từ đất.
- Những yếu tố đánh giá đất và chỉ tiêu của chúng ở những vùng khác
nhau thì khác nhau.
- Những yếu tố đánh giá đất dự đoán chủ yếu là những yếu tố có mối
liên quan chặt chẽ với năng suất cây trồng và được thể hiện giá trị tương đối
bằng điểm.
6
- Những yếu tố đánh giá đất chủ yếu là:
+ Loại đất theo phát sinh.
+ Những số liệu phân tích về tính chất đất (tính chất hóa học,
tính chất lý học và các dấu hiệu khác).
- Việc lựa chọn các yếu tố đánh giá đất cần được hoàn thiện để phù hợp
với điều kiện khí hậu, điều kiện kinh tế - xã hội của vùng. [2]
b/ Luận điểm đánh giá đất của Rozop và cộng sự
Tại hội nghị Quốc tế về Đánh giá đất lần thứ 10 tổ chức tại Matscơva
(1974), một luận điểm mới về đánh giá đất của Rozop và cộng sự đã được
trình bày và nhất trí cao. Nội dung luận điểm của Rozop bao gồm những
điểm sau:
- Đánh giá đất phải dựa vào các vùng địa lý, thổ nhưỡng khác nhau có
các yếu tố đánh giá đất khác nhau.
- Đánh giá đất phải dựa vào đặc điểm của cây trồng.

- Cùng một loại cây trồng, cùng một loại đất nhưng không thể áp dụng
hoàn toàn những tiêu chuẩn đánh giá đất của vùng này cho vùng khác.
- Đánh giá đất phải dựa vào trình độ thâm canh.
- Có một mối tương quan chặt chẽ giữa chất lượng đất và năng suất
cây trồng.
Trường hợp không có sự tương quan giữa năng suất cây trồng và chất
lượng đất là do:
+ Trình độ thâm canh khác nhau.
+ Trong quá trình sản suất, tiềm năng của đất chưa có điều kiện
thuận lợi để biểu hiện cụ thể bằng năng suất. [2]
c/ Luận điểm đánh giá đất của Pháp
Theo Đôlômông, khả năng của đất ảnh hưởng rất lớn đến đặc tính dinh
dưỡng của cây trồng và ở mức độ nhất định, sinh trưởng phát triển và khả
năng cho năng suất của cây trồng đã thể hiện được tính chất đất. Theo luận
điểm này, có thể lập được một thang năng suất biểu thị tương quan sơ bộ với
đặc tính đất đai và với đánh giá đất theo độ phì đất dựa trên nguyên tắc thống
kê năng suất cây trồng nhiều năm. Tuy nhiên đánh giá đất theo độ phì đất có
những bất cập sau:
7
- Không thể chỉ dựa vào một loại cây trồng để làm tiêu chuẩn đánh giá
đất có giá trị mà cần phải thống kê năng suất của các loại cây trồng trong hệ
thống luân canh.
- Đánh giá đất theo năng suất cây trồng ở mức độ nhất định cũng thể
hiện trình độ của người sử dụng đất, bởi vì kết quả tổng hợp của tất cả các
biện pháp kỹ thuật tác động là tiền đề để tăng độ màu mỡ của đất.
- Độ phì nhiêu của đất phụ thuộc nhiều vào hình thái phẫu diện đất,
nhưng độ phì đất chỉ đạt mức độ tối đa khi lượng dinh dưỡng cung cấp cho
cây trồng đạt mức tối ưu. [2]
d/ Luận điểm đánh giá đất ở Anh
Theo Ruanell, nhà thổ nhưỡng học người Anh thì:“ Đánh giá đất theo

năng suất cây trồng gặp rất nhiều khó khăn vì năng suất cây trồng biểu hiện
cả sự hiểu biết của người sử dụng đất. Bởi vậy đánh giá đất theo năng suất chỉ
được sử dụng để sơ bộ đánh giá độ phì của các loại đất khác nhau”. [2]
e/ Luận điểm đánh giá đất của FAO
Phương pháp đánh giá đất theo quan điểm của Đocutraiev và các nhà
khoa học đất Liên Xô cũ là nêu lên sự tương tác giữa cây trồng – đất – môi
trường và điều kiện kinh tế - xã hội. Sự đánh giá tổng hợp của yếu tố mang
tính khách quan cao, nhưng điều chung nhất là các phương pháp đó quan tâm
chủ yếu đến năng suất cây trồng và yếu tố được xếp vào vị trí quan trọng nhất
liên quan đến năng suất cây trồng là độ phì nhiêu của đất. Phương pháp này
có tác dụng tốt đối với việc đánh giá đất một cách tổng quát. Khi áp dụng
đánh giá cho các tiểu vùng cụ thể thì còn mắc phải những hạn chế nhất định.
Năm 1970, nhiều nhà khoa học đất trên thế giới đã cùng nhau nghiên cứu để
đưa ra một phương pháp đánh giá đất có tính khoa học và thống nhất các
phương pháp hiện tại. Năm 1972 tổ chức lương thực thế giới (FAO) đã phác
thảo “ Đề cương đánh giá đất” và công bố vào năm 1973. Năm 1975, Hội
nghị đánh giá đất ở Rome dự thảo đề cương đánh giá đất của FAO, được các
nhà khoa học đất hàng đầu bổ sung và công bố vào năm 1976 (Khung đánh
giá đất – Frameword for Evaluation). Tài liệu này đã được nhiều nước nghiên
cứu và ứng dụng cho đến ngày nay.
8
Theo FAO, việc đánh giá đất cho các vùng sinh thái hoặc các vùng lãnh
thổ khác nhau là nhằm tạo ra một sức sản xuất mới, bền vững, ổn định và hợp
lý. Vì vậy khi đánh giá đất được nhìn nhận như là “một vạt đất xác định về
mặt địa lý, là một diện tích bề mặt của trái đất với những thuộc tính tương đối
ổn định hoặc thay đổi có tính chất chu kỳ có thể dự đoán được của môi trường
xung quanh nó như không khí, loại đất, điều kiện địa chất, thủy văn, động
thực vật, những tác động trước đây và hiện nay của con người, ở chừng mực
mà những thuộc tính này có ảnh hưởng đáng kể đến việc sử dụng vạt đất đó
trong hiện tại và trong tương lai”.

Như vậy, theo luận điểm này, đánh giá đất phải được xem xét trên
phạm vi rất rộng, bao gồm cả không gian và thời gian, cần xem xét cả điều
kiện kinh tế, tự nhiên và xã hội. Cũng theo luận điểm này thì những tính chất
đất có thể đo lường hoặc ước lượng, định lượng được. Vấn đề quan trọng là
cần lựa chọn chỉ tiêu đánh giá đất thích hợp, có vai trò tác động trực tiếp và
có ý nghĩa đối với vùng nghiên cứu. [2]
2.1.2.2 Ở Việt Nam
Từ ngàn xưa, ông cha ta đã có cách phân hạng ruộng đất thành ruộng
tốt, ruộng xấu. Đánh giá phân hạng ruộng đất là một đòi hỏi của thực tiễn sản
xuất nông nghiệp. Từ thời phong kiến, các triều đại phong kiến nước ta đã
thực hiện đo đạc, phân hạng theo kinh nghiệm nhằm quản lý đất đai cả số
lượng lẫn chất lượng. Năm 1092, nhà Lý tiến hành đo đạc ruộng đất lần đầu
tiên và lập danh bạ để đánh thuế đất đai. Đến nhà Hậu Lê, ruộng đất đã được
phân chia thành các hạng: nhất đẳng điền, nhị đẳng điền… nhằm phục vụ việc
quản điền và thu thuế. Ngoài ra trong thời gian này nhà Lê cũng ban hành
chính sách quan điền (1429) và chính sách lộc điền (1477). Những kiến thức
về đất đai liên quan đến cây trồng được tìm thấy trong “Dư địa chí” của
Nguyễn Trãi và một số các công trình nghiên cứu của Lê Quý Đôn, Lê Tắc,
Nguyễn Nghiêm.
Sau khi lên nắm quyền (1802), nhà Nguyễn đã chỉ đạo xây dựng địa
bàn thống nhất cho các xã, thôn. Ruộng đất lúc này đã phân thành sáu hạng
(lục hạng thổ) đối với ruộng trồng màu và thành bốn hạng (tứ đẳng điền) đối
9
với ruộng trồng lúa làm cơ sở cho việc mua bán cũng như chính sách ban
hành ruộng đất.
Thời kỳ Pháp thuộc, cách phân hạng được thực hiện đối với một số đồn
điền nhằm đánh thuế. Vào năm 1886, Pavie và cộng sự đã tiến hành khảo sát
đất vùng Trung Lào, Trung bộ và Đông Nam Bộ Việt Nam. Cuối cùng, vào
năm 1890 kết quả này được xem là tài liệu nghiên cứu về đất đầu tiên của
Việt Nam và cả Đông Dương. Trong thời gian này có một số công trình

nghiên cứu về đất như Báo cáo kết quả của phòng phân tích Nam Bộ do
P.Morange (1898 - 1901), Bei (1902) và một số nhận xét về thành phần lý hóa
học của đất lúa Nam Bộ được công bố thực hiện.
Năm 1954, đất nước ta chia làm hai miền: Ở miền Bắc cùng với công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc đánh giá đất đai bắt đầu được nghiên
cứu, chủ yếu là việc nghiên cứu ứng dụng phương pháp đánh giá đất của Liên
Xô cũ theo trường phái Đocutriev.
Ở thập kỷ 70 Nguyễn Văn Thân (Viện thổ nhưỡng nông hóa) đã tiến
hành nghiên cứu phân hạng đất với một số cây trồng trên một số loại đất. Sau
đó những tiêu chuẩn xếp hạng ruộng đất được xây dựng và thực hiện ở Thái
Bình năm 1980 – 1982.
Vào đầu những năm 1990, nước ta tiến hành nghiên cứu ứng dụng
phương pháp đánh giá đất đai của FAO trong dự án quy hoạch tổng thể
ĐBSCL năm 1990 của Phân viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp.
Từ năm 1992 đến nay, phương pháp đánh giá đất đai của FAO bắt đầu
được thực hiện nhiều ở nước ta. Đánh giá đất đai theo FAO được triển khai
rộng khắp ở nhiều mức độ chi tiết và tỷ lệ bản đồ khác nhau. Từ việc đánh giá
đất đai cho 9 vùng sinh thái Việt Nam của Phạm Dương Hưng, Công Phò,
Bùi Thị Ngọc Duy ở bản đồ tỷ lệ 1: 250000, tới đánh giá đất cấp tỉnh trên bản
đồ 1: 100000, 1:50000, cấp huyện 1: 25000 và một số dự án nhỏ 1: 10000.
Đến nay, nước ta đã phân chia toàn bộ đất đai thành 6 hạng từ hạng I
đến hạng VI, với 3 cấp độ thích nghi. Rất thích hợp (S1), thích hợp (S2) và ít
thích hợp (S3), không thích hợp (N). Trong đó chia ra đất không thích hợp
hiện tại (N1), đất không thích hợp vĩnh viễn (N2). [2]
10
2.2. QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ ĐẤT
2.2.1. Các nguyên tắc đánh giá đất
- Đánh giá đất tập trung cho một số cây trồng chính: Lúa và các loại
cây lương thực khác, cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày, cây ăn quả…
- Đánh giá đất dựa vào điều kiện tự nhiên của đất và không đề cập đến

đặc điểm kinh tế - xã hội.
- Đánh giá đất trên một số loại đất chính. Ở mỗi loại đất chính trên mỗi
loại cây trồng tiến hành xây dựng 3 khung đánh giá đất cho 3 trình độ
thâm canh (cao, trung bình và thấp).
- Dựa vào kinh nghiệm sản xuất của nông dân. [2]
2.2.2. Nội dung đánh giá đất
- Xác định các yếu tố đánh giá đất.
- Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá đất.
- Xây dựng bản đồ đất (thể hiện các yếu tố đánh giá đất).
- Xây dựng bản đồ đánh giá đất.[2]
2.2.3. Các công đoạn của việc đánh giá đất
2.2.3.1. Bước chuẩn bị
- Xác định mục tiêu, địa bàn, ranh giới, mức độ cần thiết điều tra và tỷ
lệ bản đồ và xây dựng đề cương chi tiết.
- Thu thập tài liệu về tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, kinh tế - xã hội.
- Chuẩn bị công cụ, vật tư kỹ thuật và kinh phí.
- Phác thảo tài liệu ban đầu như các bản đồ cơ sở: Bản đồ thổ nhưỡng,
bản đồ hiện trạng sử dụng đất, bản đồ thủy lợi…
- Dự kiến nội dung điều tra, chỉnh lý và bổ sung trên thực địa.
- Tổ chức lực lượng tham gia.
2.2.3.2. Bước điều tra dã ngoại
- Điều tra bổ sung, chỉnh lý, hoàn thiện các số liệu về tình hình cơ bản
và các loại bản đồ chuyên đề như hiện trạng sử dụng đất, thủy lợi, giao thông...
- Điều tra đất, đào phẫu diện đất, mô tả, chỉnh lý ranh giới, chụp ảnh
hình thái phẫu diện đất, cảnh quan theo các hệ thống sử dụng đất tại các điểm đã
dự kiến.
11
- Điều tra, phỏng vấn trực tiếp nông dân và cán bộ địa phương về hiệu
quả kinh tế sử dụng đất đai theo mẫu phiếu điều tra của Viện Quy hoạch và
Thiết kế nông nghiệp.

- Xem xét các tác động ảnh hưởng tới môi trường, mức độ và nguyên
nhân gây thoái hóa hoặc ô nhiễm môi trường trong khu vực điều tra, thu thập
các số liệu ảnh hưởng đã có. Nếu cần thiết thì lấy mẫu đất, mẫu nước hoặc
nông sản để phân tích theo quy định chuyên ngành.
- Báo cáo sơ bộ kết quả điều tra dã ngoại với cơ sở để tranh thủ sự tham
gia góp ý của cán bộ, nông dân địa phương.
2.2.3.3. Bước nội nghiệp (tổng hợp, xây dựng tài liệu chính thức)
- Xác định và lựa chọn loại hình sử dụng đất đai (LUTs).
- Xây dựng bản đồ đơn vị đất đai (LMUs).
- Phân tích hiệu quả kinh tế xã hội trong sử dụng đất đai:
+ Các chỉ tiêu kinh tế cần phân tích: Đầu tư cơ bản, tổng thu
nhập, thu nhập thuần, giá trị ngày công lao động, hiệu suất đồng vốn.
+ Các chỉ tiêu xã hội cần phân tích: Đảm bảo an toàn lương thực,
gia tăng lợi ích của người nông dân; đáp ứng mục tiêu chiến lược phát triển
kinh tế của vùng; thu hút nhiều lao động, giải quyết công ăn việc làm cho nông
dân; góp phần định canh, định cư và chuyển giao tiến bộ khoa học – kỹ thuật
vào sản xuất; tăng cường sản phẩm hàng hóa xuất khẩu.
+ Các chỉ tiêu phân tích được đánh giá định lượng.
- Phân tích tác động môi trường: Phân tích tác động môi trường là yêu
cầu bắt buộc trong đánh giá và sử dụng đất đai. Đó là việc xem xét thực trạng
và nguyên nhân xảy ra sự suy thoái môi trường, nhằm loại trừ các loại sử
dụng có khả năng gây ra thảm họa về môi trường sinh thái trong và
ngoài vùng.
- Phân hạng mức độ thích hợp đất đai.
+ Tổng hợp kết quả phân hạng đất đai.
+ Tổ hợp các kiểu thích hợp đất đai.
+ Xây dựng bản đồ phân hạng thích hợp đất đai.
+ Xây dựng bản đồ phân hạng theo kiểu thích hợp đất đai.
+ Xây dựng bản đồ phân hạng thích hợp đất đai tương lai.
- Đề xuất sử dụng đất đai.

12
* Quan điểm trong đề xuất sử dụng đất đai:
- Bảo đảm sự phù hợp giữa mục tiêu phát triển của nhà nước, của
địa phương và mục tiêu của người sử dụng đất đai.
- Có đủ điều kiện và khả năng phát triển trước mắt và lâu dài.
- Gia tăng lợi ích cho người sử dụng đất đai.
- Không gây tác động xấu tới môi trường.
- Đáp ứng được các yêu cầu về xã hội: thu hút lao động, định
canh, định cư ...
* Cơ sở khoa học để đề xuất sử dụng đất đai:
- Kết quả đánh giá, phác hoạ sự thích hợp đất đai hiện tại và tương lai.
- Hiện trạng sử dụng đất đai và phương hướng phát triển.
- Chuyển đổi cơ cấu cây trồng hợp lý.
- Có đủ các giải pháp kỹ thuật đi kèm để khắc phục các hạn chế.
* Lựa chọn loại hình sử dụng đất đai thích hợp nhất.
- Loại trừ trước phần diện tích đất đã quy hoạch sử dụng cho
mục tiêu khác.
- Dựa vào các kiểu thích hợp đất đai lựa chọn mỗi kiểu một loại
sử dụng đất đai có mức độ thích hợp cao nhất.
- Tổng hợp diện tích của từng loại hình sử dụng đất đai đã chọn.
- Xác định hệ số sử dụng đất để quy đổi ra diện tích sử dụng đất
thực tế.
- Điều chỉnh sự lựa chọn: đối chiếu diện tích của các loại sử
dụng đất đai đã chọn với hiện trạng và khả năng, phương hướng phát
triển để điều chỉnh.
- Chính thức đề xuất sử dụng đất đai.
- Viết báo cáo đánh giá phân hạng đất đai. [6]
2.2.4. Ý nghĩa của các công đoạn đánh giá hiện trạng sử dụng đất
- Công đoạn đánh giá đất đai giúp chúng ta biết được một cách tổng
quát toàn bộ tính chất của một loại hình nào đó về đất để sử dụng tốt cho cây

trồng và các ngành kinh tế quốc dân nói chung.
13
- Công đoạn đánh giá đất đai là gắn liền đánh giá đất đai và quy hoạch
sử dụng đất đai, coi đánh giá đất đai là một phần của quá trình quy hoạch sử
dụng đất đai.
- Công đoạn đánh giá đất đai có ý nghĩa khoa học là kết quả nghiên cứu
góp phần về cơ sở lý luận cho phương pháp đánh giá đất theo FAO ứng dụng
vào điều kiện cấp xã của nước ta nhằm phục vụ cho quy hoạch sử dụng đất
hợp lý.
- Công đoạn đánh giá đất đai có ý nghĩa thực tiễn là kết quả nghiên cứu
của đề tài phản ánh mức độ thích hợp của một đơn vị đất đai đối với mỗi loại
hình sử dụng đất hiện tại, từ đó có hướng khai thác sử dụng hợp lý trong
tương lai.
2.3. NỘI DUNG ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG ĐẤT
2.3.1. Đánh giá loại hình sử dụng đất đai
Loại hình sử dụng đất đai được xác định thống nhất trong cả nước. Sau
khi điều tra phân loại thực trạng sử dụng đất đai, tùy thuộc vào các loại hình
sử dụng đất sẽ đánh giá các chỉ tiêu:
- Tỷ lệ (%) diện tích so với toàn bộ quỹ đất, tổng diện tích đất đang sử
dụng và diện tích của các loại đất chính.
- Đặc điểm phân bố các loại đất trên địa bàn lãnh thổ.
- Bình quân diện tích các loại đất trên đầu người.
2.3.2. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất đai
Hiệu quả sử dụng đất đai biểu thị mức độ khai thác sử dụng đất đai và
thường được đánh giá bằng các chỉ tiêu sau:
Tổng diện tích đất đai -Tổng diện tích đất chưa sử dụng
* Tỷ lệ SDĐ (%) =
Tổng diện tích đất đai

Diện tích các loại đất

* Tỷ lệ SD loại đất (%) =
Tổng diện tích đất đai

14
Tổng diện tích gieo trồng hàng năm
* Hệ số SDĐ (lần) =
Diện tích cây hàng năm (đất canh tác)
Diện tích đất lâm nghiệp có rừng + Diện tích đất cây lâu năm
* Độ che phủ (%) =
Tổng diện tích đất đai
2.3.3. Đánh giá hiệu quả sản xuất đất đai
Hiệu quả sản xuất của đất đai biểu thị năng lực sản xuất hiện tại của
việc sử dụng đất. Các chỉ tiêu thường dùng để đánh giá hiệu quả sử dụng đất
đai là:
Sản lượng một loại cây trồng
* Sản lượng của đơn vị diện tích cây trồng =
Diện tích cây trồng đó
* Giá trị tổng sản lượng của Giá trị tổng sản lượng nông, lâm, ngư
đơn vị diện tích đất nông nghiệp =
Diện tích đất nông nghiệp

* Sản lượng của đơn vị diện Sản lượng sản phẩm thủy sản
tích đất nuôi trồng thủy sản =
Diện tích đất nuôi trồng thủy sản
2.3.4. Đánh giá tính bền vững trong sử dụng đất đai
* Bền vững về kinh tế: là chỉ tiêu mô tả mối quan hệ giữa lợi ích mà
người sử dụng đất nhận được và chí phí bỏ ra để nhận được lợi nhuận đó. Đối
với những hộ sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao thì hiệu quả kinh tế là một
nhân tố để thúc đẩy sản xuất phát triển. Bền vững về kinh tế được đánh giá
thông qua các chỉ tiêu sau:

- Tổng giá trị sản xuất (GO): Là toàn bộ giá trị của cải vật chất và dịch
vụ được tạo ra trong sản xuất trong một thời gian nhất định thường là một năm.
15
- Chi phí trung gian (IC): bao gồm các chi phí vật chất và dịch vụ được
sử dụng trong quá trình sản xuất.
- Giá trị gia tăng (VA): là kết quả cuối cùng sau khi trừ đi chi phí trung
gian của hoạt động sản xuất, kinh doanh nào đó. Đây là chỉ tiêu quan trọng để
đánh giá hiệu quả sản xuất ( VA=GO-IC).
* Bền vững về mặt xã hội: Để đánh giá hiệu quả sử dụng đất, ngoài
việc xác định hiệu quả kinh tế mang lại thì cần phải xác định hiệu quả xã hội
về việc giải quyết công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, khả năng thu hút
lao động.
* Bền vững về mặt môi trường: Trong quá trình sản xuất để nâng cao
năng suất sản phẩm thì con người tìm mọi cách tác động một cách không hợp
lý vào đất gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường. Để đánh giá bền vững
về mặt môi trường, chúng tôi tiến hành đánh giá trên các khía cạnh tác động
tích cực và tác động tiêu cực.
- Đánh giá khả năng giải quyết việc làm, thu nhập từ hoạt động sản
xuất nông nghiệp.
- Đánh giá những tác động tích cực và tiêu cực ảnh hưởng đến
môi trường.
- Đề xuất các giải pháp sử dụng đất bền vững. [2]
2.3.5. Đánh giá mức độ thích hợp sử dụng đất đai
Mức độ thích hợp sử dụng đất đai biểu thị sự phù hợp của các thuộc
tính của đất đai với mục đích đang sử dụng. Đất đai có nhiều công dụng khác
nhau, tuy nhiên khi sử dụng cần căn cứ vào các thuộc tính của đất đai để lựa
chọn mục đích sử dụng là tốt nhất và có lợi nhất. Để đánh giá mức độ thích
hợp sẽ dựa vào kết quả đánh giá mức độ thích nghi của đất đai. [3]
16
PHẦN THỨ BA

ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Toàn bộ quỹ đất nông nghiệp của xã Sen Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh
Quảng Bình.
3.2. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Phạm vi không gian: Toàn bộ phạm vi trong địa giới hành chính của
xã Sen Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
- Phạm vi thời gian: Đề tài được nghiên cứu trong khoảng thời gian 18
tuần từ 05/01/2009 đến ngày 09/05/2009.
3.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
- Điều tra, nghiên cứu phân tích điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội
của xã.
- Đánh giá những thuận lợi và khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế-
xã hội của xã.
- Tìm hiểu và đánh giá hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp của xã.
- Đề xuất một số giải pháp sử dụng đất bền vững.
3.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.4.1. Phương pháp điều tra thu thập, số liệu, tài liệu
- Thu thập và xử lý số liệu: điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của xã
Sen Thủy qua các báo cáo của UBND xã.
- Điều tra, thu thập số liệu thông qua điều tra nông hộ và phỏng vấn cán
bộ xã.
3.4.2. Phương pháp khảo sát thực địa
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành đi khảo sát thực địa
tại địa phương nhằm tìm hiểu về tình hình sản xuất, hình thức canh tác của
các loại cây trồng, xem xét về hiện trạng sử dụng đất, sự phân bố các hạng đất
để làm cơ sở cho việc đánh giá hiện trạng sử dụng đất của xã.
17
3.4.3. Phương pháp phân tích SWOT (Strenght, Weekness, Opportunity,

Threat/Risk)
Dựa trên sự phân tích về điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, rủi ro của một
loại hình sử dụng đất để lựa chọn loại hình sử dụng đất phù hợp.
3.4.4. Phương pháp xử lý nội nghiệp
Sau khi điều tra, thu thập số liệu ở các nguồn khác nhau, chúng tôi đã
tiến hành xử lý, tính toán để bảo bảo tính chính xác và thống nhất.
18
PHẦN THỨ TƯ
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI XÃ SEN THỦY,
HUYỆN LỆ THỦY, TỈNH QUẢNG BÌNH
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Sen Thuỷ là một xã nằm ở vùng bán sơn địa của huyện Lệ Thuỷ, có
điểm dân cư nằm dọc theo trục đường quốc lộ 1A, cách trung tâm huyện Lệ
Thuỷ 16 km về phía Đông Nam, cách thành phố Đồng Hới 45 km về phía
Nam. Trên địa bàn có đường quốc lộ 1A đi qua dài 10 km, xã có ranh giới
hành chính được xác định như sau :
- Phía Bắc giáp xã Hưng Thuỷ (huyện Lệ Thuỷ).
- Phía Nam giáp xã Vĩnh Tú, xã Vĩnh Chấp (huyện Vĩnh Linh, tỉnh
Quảng Trị).
- Phía Tây giáp xã Tân Thuỷ, xã Thái Thuỷ (huyện Lệ Thuỷ).
- Phía Đông giáp xã Ngư Thuỷ Nam, xã Ngư Thuỷ Trung (huyện
Lệ Thuỷ).
Tổng diện tích tự nhiên của xã là 7.527,86 ha, chiếm 5,30% tổng diện
tích đất tự nhiên của huyện Lệ Thủy, gồm 12 thôn: Sen Đông, Sen Thượng I,
Sen Thượng II, Xóm Phường, Xóm Đồn, Xóm Nồm Bấc, Xóm Dum, Hoà
Bình, Trung Tân, Sen Bình, Trầm Kỳ, Thanh Sơn.
4.1.1.2. Địa hình
Xã Sen Thuỷ có địa hình tương đối bằng phẳng. Địa hình thấp dần từ

Tây Bắc sang Đông Nam, nằm trong khu vực tiếp giáp giữa vùng gò đồi và
vùng đồng bằng, một trong những đặc trưng của khu vực Trung Bộ.
4.1.1.3. Thời tiết, khí hậu
Xã Sen Thuỷ chịu ảnh hưởng chung của điều kiện khí hậu nhiệt đới gió
mùa, một năm có hai mùa rõ rệt:
- Mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau, cứ đến
tháng 10, 11 thường chịu ảnh hưởng của bão, đây cũng là thời gian xảy ra lũ
lụt trên toàn xã, thời gian gần đây chịu ảnh hưởng của rét đậm, rét hại nên gây
19
ra nhiều khó khăn cho đời sống của người dân trong toàn xã. Lượng mưa lớn
nhưng phân bố không đều giữa các tháng và các năm. Tổng lượng mưa bình
quân hàng năm từ 2000 - 2500 mm.
- Mùa khô thường từ tháng 4 đến tháng 8, mấy năm nay xuất hiện từ
cuối tháng 1. Đặc biệt, vào tháng 5 và tháng 6 có sự xuất hiện của gió Lào
gây ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt cũng như sản xuất của người dân.
Nhiệt độ trung bình năm của xã là 24
0
C. Nhiệt độ cao nhất trong năm
của xã là 39
0
C vào tháng 7. Nhiệt độ thấp nhất trong năm của xã là 11
0
C vào
tháng 2. Với độ ẩm trung bình năm là 80%. [15]
4.1.1.4. Tài nguyên đất
Do cấu trúc của địa hình nên đất đai của xã Sen Thuỷ được chia làm ba
loại chính.
- Vùng đồi núi chủ yếu là đất feralit đỏ vàng phát triển trên đá sét và
biến chất, tầng đất trung bình, thuận lợi cho trồng cây lâm nghiệp như thông,
keo các loại,…

- Vùng đồng bằng ở triền dốc phía tây của xã chủ yếu là đất nâu vàng
trên nền phù sa cổ, phù hợp cho trồng cây công nghiệp dài và ngắn ngày như
sắn, lạc, cây cao su… Ngoài ra, ở phía Đông có đất cồn cát trắng vàng và đất
cát điển hình. Đây là loại đất khai thác chưa hiệu quả, chủ yếu sử dụng để
trồng các loại sắn, khoai lang, ….
- Vùng đồng bằng thường hay bị ngập lũ vào tháng 9, 10, 11 hàng năm
chủ yếu là đất thịt pha lẫn ít phù sa, tầng đất từ trung bình đến dày, thuận lợi
cho trồng lúa và cây rau màu các loại…
4.1.1.5. Tài nguyên khoáng sản
Hiện nay trên địa bàn xã, có mỏ quặng Titan nằm ở phía Đông Nam
của xã giáp với xã Ngư Thủy Trung – huyện Lệ Thủy và xã Vĩnh Tú – huyện
Vĩnh Linh – tỉnh Quảng Trị đang được khai thác và có khả năng mở rộng
trong tương lai, với trữ lượng chưa xác định chính xác. Đây là tiềm năng lớn
nhằm mang lại lợi ích lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
4.1.1.6. Tài nguyên nước
Trên địa bàn xã có 4 hồ chứa nước là:
- Hồ Sen với diện tích khoảng 46 ha.
20
- Hồ Bàu Dum với diện tích khoảng 30 ha.
- Hồ Bàu Trống với diện tích khoảng 2 ha.
- Hồ Diêm Vương với diện tích khoảng 2 ha.
Ranh giới của xã chạy dọc từ phía Bắc đến phía Đông được bao bọc
bởi 4 hồ chứa nước. Với trữ lượng nước chưa tính được chính xác nhưng với
diện tích ước tính gần 80 ha, phục vụ tưới tiêu khoảng 70 – 80% tổng diện
tích đất nông nghiệp. Nó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc cung cấp nước
sản xuất nông nghiệp lẫn sinh hoạt của toàn bộ nguời dân trong xã.
4.1.1.7. Tài nguyên rừng
Bảng 1: Diện tích đất lâm nghiệp năm 2008 xã Sen Thủy
Chỉ tiêu Diện tích
(ha)

Tỷ lệ so với diện tích
đất tự nhiên (%)
Tỷ lệ so với diện tích
đất lâm nghiệp (%)
Đất lâm nghiệp 6.244,45 82,95 100,00
Đất rừng sản xuất 5.668,45 75,30 90,77
Đất rừng phòng hộ 576,00 7,65 9,23
Nguồn: [14]
Tổng diện tích đất lâm nghiệp của toàn xã tương đối lớn với 6.244,45
ha, trong đó diện tích đất rừng sản xuất là 5.668,45 ha, đất rừng phòng hộ là
576,00 ha. Toàn bộ diện tích này chủ yếu là trồng cây keo lai, keo lá tràm và
một số trồng thông, phân bố rộng khắp trên các sườn đồi tương đối dốc. Tỷ lệ
che phủ ước đạt 83%. Công tác quản lý nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp,
công tác trồng rừng, chăm sóc, bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng
được các cấp, các ngành và chủ rừng quan tâm. Xã đã tiến hành bàn giao đất
trước đây do lâm trường cho 7 thôn quản lý với diện tích 420 ha, đã chuyển
đổi một số diện tích đất lâm nghiệp sang trồng cây cao su và các loại cây khác
có giá trị kinh tế cao hơn. Diện tích trồng mới cao su năm 2008 là 22 ha, diện
tích trồng rừng tập trung là 70 ha, diện tích trồng cây phân tán là 50 ha. Sản
lượng khai thác nhựa thông ước tính 25 tấn. [12], [13], [14].
4.1.1.8. Thảm thực vật
Thảm thực vật trên địa bàn xã tương đối đa dạng. Cơ cấu cây trồng
nông nghiệp chính bao gồm các loại cây: lúa, khoai lang, sắn, lạc, ngô, đậu
21
các loại, ớt, vừng, rau các loại, các loại cây ăn quả. Các loại cây lâm nghiệp
như keo tai tượng, keo lá tràm, thông, bạch đàn, dương và một số cây bản địa.
4.1.1.9. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên của xã
a/ Thuận lợi
- Là một xã có đường quốc lộ chạy qua nên rất thuận lợi trong việc lưu
thông, trao đổi hàng hoá nông sản, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp trong

vùng và với vùng khác.
- Địa hình phần lớn tương đối bằng phẳng, là điều kiện rất thuận lợi
cho sản xuất nông nghiệp, nhất là những giống cây trồng nhiệt đới, có hiệu
quả kinh tế cao.
- Nguồn nước mặt, nước ngầm và nước mưa phong phú, trữ lượng
nước khá lớn luôn luôn cung cấp đủ nước tưới cho sản xuất nông nghiệp một
cách khá chủ động và nước sinh hoạt cho người dân trên địa bàn xã.
b/ Khó khăn
- Điều kiện khí hậu hai mùa rõ rệt, lượng mưa phân bố không đều trong
năm, về mùa khô nhiệt độ lên cao gây hạn hán lâu ngày, mùa mưa với lượng
lớn gây ra lũ lụt và ngập úng cho nên gây khó khăn rất lớn cho sản xuất nông
nghiệp của xã.
- Chủng loại đất trên địa bàn xã không phong phú và chất lượng thấp
nên khó có khả năng đa dạng hóa các loại cây trồng.
- Nhóm đất cồn cát trắng vàng và đất cát điển hình có hàm lượng mùn
thấp, ít thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của cây trồng, đòi hỏi phải có
sự đầu tư nhiều phân bón, nước tưới và công lao động….
- Trên địa bàn có nhiều vùng có địa hình thấp nên về mùa mưa dễ bị
ngập úng, khó tiêu nước gây ra nhiều khó khăn cho việc đi lại, vận chuyển vật
tư và sản phẩm nông nghiệp.
4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
4.1.2.1. Dân số, lao động và việc làm
a/ Dân số
Theo số liệu thống kê tháng 2 năm 2009, dân số của toàn xã là 1275 hộ
gồm 5556 người. Trong đó có 2788 nữ, chiếm 50,18% tổng dân số của xã, có
2768 nam, chiếm 49,82% tổng dân số của xã, bình quân có 4,36 người/hộ.
22
Mật độ dân số trung bình là 73,80 người/km
2
. Tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên

là 0,89%, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên là 20,0%.
Bảng 2: Tình hình dân số xã Sen Thủy năm 2008
Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2008
Tổng số dân Người 5556
Số nam giới Người 2768
Số nữ giới Người 2788
Tỷ lệ gia tăng dân số % 0,89
Nguồn: [11], [12], [13]
b/ Lao động và việc làm
Bảng 3: Lao động và việc làm xã Sen Thủy năm 2008
Chỉ tiêu Số lao động % so với lao động toàn xã
Tổng lao động 2334,0 100,0
Lao động nông lâm ngư nghiệp 1400,0 60,0
Lao động công nghiệp xây dựng 234,0 10,0
Lao động dịch vụ 700,0 30,0
Nguồn: [11], [12], [13]
4.1.2.2. Cơ sở hạ tầng
a/ Giao thông
Do điều kiện kinh tế - xã hội của xã còn nhiều khó khăn nên việc đầu
tư xây dựng các tuyến đường giao thông trên địa bàn chưa hoàn chỉnh. Ngoài
tuyến quốc lộ 1A chạy qua địa bàn xã với 10 km, hầu hết hệ thống đường
giao thông nông thôn còn là đường đất, có một số đường đá sỏi. Đây là một
khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế của xã. Hiện nay, UBND xã đang
phối hợp với Dự án phân cấp giảm nghèo để bê tông hóa một số đoạn đường
trên địa bàn. [12], [13]
b/ Hệ thống thuỷ lợi
Tính đến cuối năm 2008 trên địa bàn xã có một trạm bơm và 4 hồ chứa,
hai đập nước (Đập Úng, Đập Tuyên) phục vụ cho việc tưới tiêu cho hầu hết
diện tích đất canh tác trên địa bàn. Tuy chưa có hệ thống kênh mương để dẫn
nước vào đồng ruộng nhưng do xây dựng được hai đập nước nên việc ngập

úng ít xảy ra, trừ mùa lũ. [12], [13]
23
c/ Hệ thống điện
Tính đến cuối năm 2008 các thôn trong toàn xã đều sử dụng điện, số hộ
dùng điện đạt 100%. Với tổng chiều dài 13 km đường trung áp 0,4 KVA và
29 km đường hạ thế 220V. Bao gồm 7 trạm biến áp với tổng dung lượng
1.440 KVA từng bước nâng cao chất lượng cung cấp cho sinh hoạt và sản
xuất. Tuy nhiên, do xây dựng đã lâu, vốn chủ yếu do nhân dân tự đóng góp và
một số tập thể ở trong xã nên việc xây dựng không đồng bộ. Hiện nay đường
dây xuống cấp nghiêm trọng dẫn đến hao hụt điện năng, xảy ra sự cố mất điện
làm ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt của bà con trong toàn xã. [12], [13]
d/ Cơ sở chế biến và thu mua nông sản
Hiện nay trên địa bàn xã vẫn chưa có cơ sở chế biến quy mô lớn và thu
mua nông sản. Nhưng trên địa bàn xã đã có 10 máy xay xát gạo phục vụ nhu
cầu cuộc sống hiện tại của bà con trong toàn xã. [12], [13]
4.1.2.3. Trình độ sản xuất của người dân
Trên địa bàn xã, phần lớn người dân sản xuất chủ yếu dựa vào kinh
nghiệm. Trong những năm gần đây, thông qua các hoạt động nâng cao năng
lực của một số dự án 150 người đã được tham gia các lớp tập huấn kĩ thuật
chăn nuôi. [12], [13]
4.1.2.4. Ngành nghề dịch vụ
Hiện nay trên địa bàn xã có 136 hộ kinh doanh lớn và nhỏ, thu hút 408
lao động. Có 17 xe ô tô vận tải, 3 xe khách Bắc – Nam, một xe du lịch, một xe
con. Có 2 cơ sở là doanh nghiệp tư nhân phục vụ cho mục đích xây dựng.
Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp khác như các cơ sở sản xuất mộc,
gò hàn, sản xuất vật liệu xây dựng tiếp tục phát triển và có những bước
chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.
Nguồn: [12], [13]
4.1.2.5. Thu nhập và mức sống
Theo báo cáo của UBND xã thì thu ngân sách trên địa bàn xã năm 2007

là 1.634.771.245 đồng, 11 tháng năm 2008 là 1.572.117.000 đồng.
Mức sống của người dân ngày càng được nâng cao, thu nhập bình quân
năm 2006 là 5,5 triệu đồng, năm 2007 ước đạt từ 5,5 - 6,0 triệu đồng, năm
24
2008 ước đạt 6,5 triệu đồng/người/năm. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2008 là 28,4%
giảm 1,5% so với năm 2007. [12], [13]
4.1.2.6. Đánh giá chung về tình hình kinh tế - xã hội của xã
a/ Thuận lợi
- Trên địa bàn xã có 4 hồ chứa nước và hai đập ngăn nước đủ để cung
cấp tưới tiêu cho phần lớn diện tích đất nông nghiệp của xã một cách chủ
động, cũng như việc cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt của người dân.
- Xã Sen Thuỷ có nguồn lao động dồi dào lại có kinh nghiệm trong sản
xuất nông nghiệp. Được sự quan tâm của các cấp chính quyền mở các lớp tập
huấn quy trình sản xuất cho người dân, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất nên trình độ sản xuất của họ ngày càng được nâng cao góp phần tăng
chất lượng và sản lượng cây trồng, nâng cao thu nhập.
- Ngành chăn nuôi ngày càng phát triển, làm tăng khả năng sản xuất
cho ngành trồng trọt, góp phần cung cấp lượng phân hữu cơ dồi dào cho sản
xuất nông nghiệp, duy trì và cải thiện độ phì của đất, tăng năng suất cây
trồng, tăng thu nhập.
- Xã Sen Thuỷ có hệ thống điện đủ để cung cấp 100% điện cho người
dân cả về sản xuất lẫn sinh hoạt nên nâng cao đời sống tinh thần và vật chất
cho người dân, làm thay đổi diện mạo nông thôn.
- Xã có 4 hồ chứa nước nên có lượng cá nước ngọt rất lớn, đây là điều
kiện để nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt, tạo công ăn việc làm và nâng cao
thu nhập.
b/ Khó khăn
- Xã Sen Thuỷ có mức sống và thu nhập chỉ đạt mức trung bình. Đây là
một nguyên nhân hạn chế khả năng đầu tư của người dân vào sản xuất và
nâng cao năng suất cây trồng, con vật nuôi.

- Tuy nguồn lao động xã dồi dào nhưng phần lớn là lao động trong
ngành nông nghiệp. Trong sản xuất nông nghiệp chủ yếu là kinh nghiệm đúc
kết được, trình độ sản xuất không cao, khả năng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất còn nhiều hạn chế.
25

×