Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong bộ luật hình sự việt nam năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN QUANG SƠN

BIỆN PHÁP TƢ PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN QUANG SƠN

BIỆN PHÁP TƢ PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS ĐỖ NGỌC QUANG

HÀ NỘI - 2020



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Quang Sơn


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP BẮT
BUỘC CHỮA BỆNH TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .................. 7
1.1. Khái niệm và ý nghĩa biện pháp tƣ pháp bắt buộc chữa bệnh ......... 7
1.1.1. Khái niệm biện pháp bắt buộc chữa bệnh ...................................... 7
1.1.2. Ý nghĩa biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh .......................... 11
1.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến áp dụng biện pháp tƣ pháp bắt buộc

chữa bệnh .................................................................................................... 17
1.2.1. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự khi thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội ................................................................. 17
1.2.2. Tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự bị hạn chế khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội ......................................................... 23
1.2.3. Tình trạng dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác khi
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội ................................................ 28
1.3. Sự phát triển của Luật hình sự Việt Nam về biện pháp tƣ pháp bắt
buộc chữa bệnh........................................................................................... 34
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự
1985 ........................................................................................................... 34
1.3.2. Giai đoạn từ 1985 đến khi ban hành Bộ luật hình sự 1999 ........ 38
1.4. Quy định của một số quốc gia về biện pháp tƣ pháp bắt buộc chữa
bệnh ............................................................................................................. 42


Chƣơng 2 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 VÀ BỘ LUẬT
HÌNH SỰ 2015 VỀ BẮT BUỘC CHỮA BỆNH VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TẠI VIỆT NAM TỪ NĂM 2014 ĐẾN 2018 .................................. 49
2.1. Quy định của Bộ luật hình sự 1999 và Bộ luật hình sự 2015 về biện
pháp tƣ pháp bắt buộc chữa bệnh ............................................................ 49
2.1.1. Quy định của Bộ luật hình sự 1999 về biện pháp tư pháp bắt buộc
chữa bệnh ................................................................................................. 49
2.1.2. Quy định của Bộ luật hình sự 2015 về biện pháp tư pháp bắt buộc
chữa bệnh ................................................................................................. 54
2.2.Thực tiễn áp dụng biện pháp tƣ pháp bắt buộc chữa bệnh từ 2014
đến 2018....................................................................................................... 64
2.2.1. Những kết quả đạt được về áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc
chữa bệnh ................................................................................................. 60
2.2.2. Những hạn chế, khó khăn trong việc áp dụng biện pháp tư pháp

bắt buộc chữa bệnh .................................................................................. 68
2.2.3. Những nguyên nhân gây nên những hạn chế, khó khăn trong
việc áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh ........................... 72
2.3. Các giải pháp hoàn thiện quy định về biện pháp tƣ pháp bắt buộc
chữa bệnh .................................................................................................... 81
2.3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự ....................................................... 76
2.3.2. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự .......................................... 81
2.3.3. Các giải pháp khác......................................................................... 84
KẾT LUẬN .................................................................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 93


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CQĐT:

Cơ quan điều tra

VKS:

Viện kiểm sát

TA:

Tòa án


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta luôn được
Đảng, Nhà nước quan tâm, theo dõi và chỉ đạo sát sao. Đảng, Nhà nước ta đã

đặt ra một trong những mục tiêu quan trọng trong quá trình lập pháp trong
lĩnh vực tư pháp hình sự là trừng trị người phạm tội, giáo dục họ tuân thủ
pháp luật để họ trở thành những công dân có ích cho xã hội, phòng ngừa và
đấu tranh chống tội phạm. Theo đó, người thực hiện hành vi phạm tội thì phải
chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình và hậu quả do mình gây ra. Tuy
nhiên, trong thực tiễn cuộc sống cũng cho thấy nhiều trường hợp do các yếu
tố khách quan (bệnh tâm thần…) mà bản thân người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội không nhận thức hoặc điều khiển được hành vi của mình dẫn
đến gây ra những hậu quả nguy hại cho xã hội, cũng như người sau khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc đang chấp hành hình phạt tù thì họ bị
rơi vào trạng thái không nhận thức hoặc điều khiển được hành vi. Như vậy,
nếu áp dụng hình phạt đối các trường hợp nêu trên như những người bình
thường khác có hành vi phạm tội sẽ không đạt được mục đích của hình phạt.
Vì vậy, cần phải có một giải pháp hữu hiệu và quy định biện pháp tư pháp bắt
buộc chữa bệnh là cần thiết và đóng vai trò rất quan trọng. Quy định biện
pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong Bộ luật hình sự vừa thể hiện được
chính sách hình sự của nhà nước ta với mục đích chính là phòng ngừa khả
năng gây thiệt hại cho trật tự, an toàn xã hội của người bị bệnh tâm thần hoặc
bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần, vừa thể hiện tính nhân đạo khi
không cần thiết phải áp dụng hình phạt mà đưa họ vào cơ sở điều trị chuyên
khoa. Như vậy, với biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh thì hình phạt không
phải là công cụ duy nhất để giáo dục người phạm tội, phòng ngừa và đấu
tranh chống tội phạm. Tuy nhiên trong thời gian qua, Bộ luật hình sự nói

1


chung và chế định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh nói riêng đã thể hiện
những hạn chế nhất định trong nhiệm vụ phòng ngừa và đấu tranh chống tội
phạm. Trong khi đó, với nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển ở nước ta

hiện nay, tình hình tội phạm sẽ ngày càng gia tăng với những diễn biến phức
tạp và thủ đoạn tinh vi hơn. Đòi hỏi Bộ luật hình sự nói chung và chế định
biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh nói riêng phải luôn được đổi mới, hoàn
thiện nhằm bắt kịp, dự đoán được tội phạm, phòng ngừa và đấu tranh chống
tội phạm. Chính vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, đồng bộ,
có hệ thống chế định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong Bộ luật hình
sự Việt Nam năm 2015.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
2.1. Mục tiêu tổng quát
Qua việc nghiên cứu, tác giả muốn đem đến cái nhìn tổng quan về khái
niệm, nội dung, ý nghĩa của biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh để từ đó
làm rõ các quy định liên quan đến biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh được
quy định trong Bộ luật hình sự 2015. Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên
cứu, tác giả sẽ đưa các quy định liên quan đến biện pháp tư pháp bắt buộc
chữa bệnh ở một số quốc gia trên thế giới. Trên cơ sở đó, sẽ đánh giá được
những ưu điểm, khuyết điểm của chế định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa
bệnh của nước ta so với các quốc gia khác, từ đó tiếp thu những kinh nghiệm
của các nước đã đạt được để chế định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh
hoàn thiện và hiệu quả hơn.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Để đạt được mục tiêu đặt ra nêu trên, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu
những vấn đề sau:

2


Thứ nhất, Những vấn đề chung về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa
bệnh trong luật hình sự Việt Nam;
Ở phần này, tác giả sẽ làm rõ khái niệm và ý nghĩa biện pháp tư pháp
bắt buộc chữa bệnh, các yếu tố ảnh hưởng đến áp dụng biện pháp tư pháp bắt

buộc chữa bệnh, sự phát triển của Luật hình sự Việt Nam về biện pháp tư
pháp bắt buộc chữa bệnh, quy định của một số quốc gia về biện pháp tư pháp
bắt buộc chữa bệnh.
Thứ hai, quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự
năm 2015 về bắt buộc chữa bệnh;
Ở phần này, tác giả sẽ đưa ra quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 và
Bộ luật hình sự năm 2015 về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh.
Thứ ba, thực tiễn áp dụng quy định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa
bệnh;
Ở phần này, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu hoạt động áp dụng biện
pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong giai đoạn hiện nay và ảnh hưởng của
việc áp dụng biện pháp này đến công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội
phạm trên cơ sở thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh từ
năm 2014 đến năm 2018.
Thứ tư, giải pháp hoàn thiện quy định về biện pháp tư pháp bắt buộc
chữa bệnh;
Ở nội dung này, tác giả sẽ nghiên cứu và đưa ra các giải pháp nhằm
hoàn thiện quy định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong Bộ luật hình
sự, Bộ luật tố tụng hình sự, nâng cao hiệu quả phòng ngừa và đấu tranh phòng
chống tội phạm.

3


3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh không phải là một
chế định mới được quy định trong Bộ luật hình sự 2015. Kể từ khi Bộ luật
hình sự năm 1985 ra đời cho đến nay, biện pháp tư pháp bắt buộc chữa
bệnh không được nghiên cứu nhiều, còn nhiều thiếu sót, phần lớn chỉ nêu
lên một cách chung chung hoặc chỉ phân tích một khía cạnh của vấn đề

này. Khi nghiên cứu về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh, tác giả đã
tìm đọc, tham khảo rất nhiều tài liệu liên quan nhưng chỉ tìm được luận
văn của Ths. Ngô Thanh Sơn năm 2013 nghiên cứu chuyên sâu về quy
định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh với đề tài “Biện pháp tư pháp
bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh)”. Ngoài ra, tác giả không tìm thấy một
công trình nghiên cứu chuyên sâu về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa
bệnh của các nhà khoa học Việt Nam. Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa
bệnh chỉ được các nhà khoa học Việt Nam bình luận ở một phần của công
trình nghiên cứu chung về bộ luật hình sự như: “Bình luận khoa học Bộ
luật hình sự 2015” của GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa; Chánh

tòa

hình

sự

Đinh Văn Quế, “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 phần
chung”…. Từ những bất cập nêu trên, tác giả muốn xây dựng một công
trình nghiên cứu chuyên sâu về quy định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa
bệnh trong Bộ luật hình sự, trên cơ sở kế thừa và phát huy những thành
tựu đã đạt được của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu trước đây. Với
đề tài “Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 2015” đã khẳng định được tính mới và sẽ góp phần nâng cao
sức mạnh, tính hiệu quả của hệ thống pháp luật hình sự.

4



4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng mà tác giả nghiên cứu là quy định biện pháp tư pháp bắt
buộc chữa bệnh trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả lựa chọn đề tài để nghiên cứu là “Biện pháp tư pháp bắt buộc
chữa bệnh trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015”. Trong giới hạn đề tài
này, tác giả nghiên cứu quy định của bộ luật hình sự về biện pháp tư pháp bắt
buộc chữa bệnh; lịch sử hình thành, quy định của các quốc gia về biện pháp
bắt buộc chữa bệnh; thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh
từ năm 2014 đến 2018; quy định Bộ luật tố tụng hình sự về biện pháp bắt
buộc chữa bệnh; các giải pháp hoàn thiện quy định biện pháp tư pháp bắt
buộc chữa bệnh.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thứ nhất, phương pháp so sánh: Trong quá trình nghiên cứu quy định
biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm
2015, tác giả sẽ sử dụng biện pháp so sánh thông qua việc trình bày các chế
tài hình sự qua từng thời kỳ cũng như các quy định về biện pháp tư pháp bắt
buộc chữa bệnh ở một số quốc gia.
Thứ hai, phương pháp phân tích, tổng hợp: Để làm rõ khái niệm, đặc
điểm, ý nghĩa của biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh và quy định biện
pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh, tác giả sẽ sử dụng phương pháp phân tích.
Sau đó, tác giả dùng phương pháp tổng hợp để làm cho những vấn đề được
trình bày trở nên rõ ràng và có căn cứ.

5


6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Hiện nay, việc nghiên cứu về chế định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa

bệnh ở nước ta còn hạn chế, các tài liệu nghiên cứu về vấn đề này của các nhà
khoa học Việt Nam không nhiều và phần lớn chỉ đề cập đến một khía cạnh
nhất định chưa thể hiện được đầy đủ tầm quan trọng của vấn đề này. Chính vì
vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh theo Bộ
luật hình sự Việt Nam năm 2015” để làm rõ những vấn đề có liên quan thông
qua lý luận và thực tiễn để phát huy những điểm mới, điểm tiến bộ cũng như
chỉ ra những hạn chế, bất cập, nguyên nhân để từ đó có thể đưa ra các kiến
nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả quy định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa
bệnh trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015. Bên cạnh đó, luận văn có thể
làm tài liệu sử dụng cho việc nghiên cứu của những sinh viên, học viên,
những người nghiên cứu về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh.
7. Bố cục của luận văn
Tác giả sẽ bố cục luận văn thành ba phần, bao gồm: Lời nói đầu, phần
nội dung gồm hai chương và phần kết luận. Cụ thể như sau:
Mở đầu
Chương 1: Những vấn đề chung về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh
trong luật hình sự Việt Nam
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự 1999 và Bộ luật hình sự 2015 về bắt
buộc chữa bệnh và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam từ năm 2014 đến 2018
Kết luận

6


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái niệm và ý nghĩa biện pháp tƣ pháp bắt buộc chữa bệnh

1.1.1. Khái niệm biện pháp bắt buộc chữa bệnh
Hình phạt không phải là công cụ duy nhất để trừng trị, giáo dục, cải tạo
người phạm tội, phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm. Trên thực tế, nhiều
trường hợp nếu cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng hình phạt một cách máy
móc thì sẽ không đạt được các mục đích nêu trên. Ngoài hình phạt thì trong
một số trường hợp Bộ luật hình sự còn quy định việc áp dụng biện pháp tư
pháp đối với người phạm tội. Biện pháp tư pháp có thể được áp dụng chung
với hình phạt để xử lý tội phạm nhưng cũng có thể được áp dụng riêng cho
từng trường hợp cụ thể. Trong các biện pháp tư pháp được quy định trong Bộ
luật hình sự thì biện pháp bắt buộc chữa bệnh giữ vị trí đặc biệt quan trọng
trong hệ thống biện pháp cưỡng chế hình sự, nhằm mục đích chính là phòng
ngừa khả năng gây thiệt hại cho trật tự, an toàn xã hội của người bị bệnh tâm
thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần. Như vậy, biện pháp tư
pháp nói chung và biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh nói riêng được quy
định trong Bộ luật hình sự đã cho thấy chính sách của nhà nước ta trong việc
xử lý tội phạm là áp dụng nhiều biện pháp, cách thức khác nhau để đạt được
mục tiêu chung vì sự ổn định, trật tự, an toàn xã hội, không cần thiết phải áp
dụng hình phạt đối với người phạm tội mà đưa họ vào cơ sở điều trị chuyên
khoa để bắt buộc chữa bệnh. Bên cạnh đó, việc quy định biện pháp tư pháp
bắt buộc chữa bệnh còn thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước ta đối với

7


người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần. Bản
thân họ có thể do bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi dẫn đến thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội mà nếu ở trong tình trạng tỉnh táo họ có thể không mong muốn
thực hiện tội pham đó và quy định cũng đảm bảo cho mỗi công dân được
chăm sóc về y tế, được chữa trị khi bị bệnh.

Biện pháp bắt buộc chữa bệnh là biện pháp đặc biệt trong các biện pháp
cưỡng chế về hình sự. Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh không phải là
biện pháp nhằm giáo dục, cải tạo người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội mà là biện pháp mang tính chất cưỡng chế nhằm điều trị, chăm sóc phục
hồi sức khỏe cho người bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Sau khi khỏi
bệnh, người bị áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh sẽ có thể tiếp
tục bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của mình hoặc phải tiếp
tục chấp hành hình phạt tù theo bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Do đó, thi hành biện pháp bắt buộc chữa bệnh phải tuân thủ theo nguyên tắc
bảo đảm việc điều trị, chăm sóc, phục hồi sức khỏe cho người bị áp dụng biện
pháp tư pháp và ngăn ngừa họ tiếp tục thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội.
Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh là biện pháp cưỡng chế về hình
sự được quy định để phòng ngừa khả năng gây thiệt hại cho trật tự, an toàn xã
hội. Mặc dù là một quy định rất quan trọng, đã trải qua ba lần pháp điển hóa
nhưng đến thời điểm này Bộ luật hình sự năm 2015 vẫn không đưa ra khái
niệm như thế nào là biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh. Chính vì vậy
trong khoa học luật hình sự hiện nay còn tồn tại rất nhiều quan điểm khác
nhau của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu về khái niệm biện pháp tư pháp
bắt buộc chữa bệnh. Chẳng hạn như:

8


Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa và PSG.TS Lê Thị Sơn: “Biện pháp tư pháp
bắt buộc chữa bệnh là buộc người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
hay đang chấp hành hình phạt và đang mắc bệnh tới mức mất năng lực trách
nhiệm hình sự do mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác phải vào cơ sở điều trị
chuyên khoa để chữa bệnh” [19, tr.12]. Theo tác giả Nguyễn Thị Ánh Hồng:

“Biện pháp bắt buộc chữa bệnh là biện pháp buộc người bị mắc bệnh tâm
thần đến mức làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
phải vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh, hoặc nếu
không cần thiết phải đưa vào một cơ sở điều trị chuyên khoa thì có thể giao
cho gia đình hoặc người giám hộ trông nom dưới sự giám sát của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp này
là Viện kiểm sát hoặc Tòa án tùy vào giai đoạn tố tụng, trên cơ sở căn cứ vào
kết luận của Hội đồng giám định pháp y” [20, tr.28]. Theo tác giả Đinh Văn
Quế - Nguyên Chánh Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao: “Bắt buộc chữa
bệnh là một biện pháp bắt buộc người phạm tội phải chữa bệnh trong một cơ
sở chuyên khoa y tế do cơ quan tiến hành tố tụng quyết định tùy theo giai
đoạn tố tụng”[28, tr.221]. Còn theo TS. Hoàng Văn Hùng: “Biện pháp bắt
buộc chữa bệnh là biện pháp tư pháp được Bộ luật hình sự quy định, do Tòa
án hoặc Viện kiểm sát áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình”[32,tr.261].
Trên đây là một số quan điểm của các nhà khoa học Việt Nam về biện
pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh. Tuy nhiên, nhìn chung các quan điểm mà
các nhà khoa học đưa ra chỉ ở một phạm vi nhất định chưa thể hiện được hết
nội hàm của biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh. Điều này thể hiện ở chỗ
quy định của pháp luật về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh không chỉ
được áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi

9


mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần mà còn
được áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi
có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới
mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình hoặc

được áp dụng đối với người đang chấp hành hình phạt tù mà bị bệnh tới mức
mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Điều này
có nghĩa là biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh được áp dụng đối với người
bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng
điều khiển hành vi trong hoặc sau khi người này thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội hoặc khi đang chấp hành hình phạt tù. Trên cơ sở kết luận giám
định của Hội đồng giám định pháp y, pháp y tâm thần, Viện kiểm sát hoặc
Tòa án áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh đối với họ. Tùy vào
từng giai đoạn giải quyết vụ án (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử) hoặc giai
đoạn thi hành án mà thẩm quyền áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa
bệnh thuộc về Viện kiểm sát hoặc Tòa án. Khi có quyết định áp dụng biện
pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh thì người mất năng lực trách nhiệm hình sự
sẽ được đưa vào cơ sở điều trị chuyên khoa để thực hiện bắt buộc chữa bệnh.
Chính vì lẽ đó, việc xây dựng, đưa ra một khái niệm pháp lý mang tính chung
nhất về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh là cần thiết.
Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu, các quan điểm, lý luận của các nhà
khoa học và quy định tại Điều 49 Bộ luật hình sự năm 2015, tác giả của luận
văn xin được đưa ra khái niệm biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh như sau:
“Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh là biện pháp cưỡng chế về hình sự
được quy định trong Bộ luật hình sự, tùy vào từng giai đoạn giải quyết vụ án
hoặc giai đoạn thi hành án, trên cơ sở kết luận giám định pháp y, pháp y tâm
thần mà Tòa án hoặc Viện kiểm sát áp dụng đối với người trong hoặc sau khi
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng trước khi kết án hoặc đang

10


chấp hành hình phạt tù mà mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình vào cơ sở điều trị
chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh, nhằm phòng ngừa khả năng gây thiệt hại

cho trật tự, an toàn xã hội”.
1.1.2. Ý nghĩa biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh
Với ý nghĩa là một trong biện pháp cưỡng chế về hình sự, biện pháp tư
pháp bắt buộc chữa bệnh giữ một vị trí rất quan trọng trong việc xác định
năng lực trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội. Quy định “Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh” được tác giả nghiên
cứu, đánh giá một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ thông qua việc làm rõ
khái niệm về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh, các điều kiện, cũng như
mục đích áp dụng biện pháp này. Bên cạnh đó, tác giả còn nghiên cứu các giai
đoạn áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh, thực tế áp dụng để đưa
ra những đánh giá về tính hiệu quả của việc áp dụng biện pháp này. Do đó,
việc nghiên cứu “Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh” có ý nghĩa rất lớn
trong quá trình phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm hiện nay. Cụ thể:
Thứ nhất, Biện pháp bắt buộc chữa bệnh hạn chế quyền tự do của
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc người phạm tội.
Biện pháp bắt buộc chữa bệnh là biện pháp cưỡng chế về hình sự.
Cưỡng chế được hiểu là việc sử dụng quyền lực Nhà nước buộc phải tuân thủ.
Vì là biện pháp cưỡng chế về hình sự cho nên biện pháp tư pháp bắt buộc
chữa bệnh cũng mang những nội dung cưỡng chế nhất định. Tuy nhiên, nếu
hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất thì tính cưỡng chế ở biện
pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh ít nghiêm khắc hơn. Tính nghiêm khắc của
hình phạt thể hiện ở chỗ người bị kết án có thể bị hạn chế hoặc tước bỏ quyền
tự do, quyền tài sản, về chính trị thậm chí cả quyền sống [32, tr.227]. Bên
cạnh đó, hình phạt cũng để lại hậu quả pháp lý là án tích cho người bị kết án

11


trong thời hạn nhất định theo quy định của pháp luât [32, tr.227]. Tính cưỡng
chế của biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh thể hiện ở việc người bị bệnh

bị hạn chế quyền tự do đi lại mà phải thực hiện việc chữa bệnh mà không phụ
thuộc vào mong muốn của họ cũng như người thân thích khi có quyết định
của Tòa án hoặc Viện kiểm sát. Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh thì tính
cưỡng chế không những nhằm mục đích phòng ngừa khả năng gây thiệt hại
cho trật tự, an toàn xã hội mà còn đảm bảo cho mỗi công dân được chăm sóc
về y tế, được chữa trị khi bị bệnh. Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh
được áp dụng nhằm thay thế, hỗ trợ hình phạt theo những căn cứ, điều kiện
mà pháp luật quy định.
So với hình phạt, tính cưỡng chế trong biện pháp tư pháp bắt buộc chữa
bệnh ít nghiêm khắc hơn, nhưng là một trong những biện pháp làm hạn chế
quyền tự do của con người cho nên để tránh sự tùy tiện trong việc áp dụng
pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, Bộ luật hình sự
quy định thẩm quyền áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh thuộc về
Viện kiểm sát nhân dân hoặc Tòa án nhân dân tùy vào từng giai đoạn tố tụng
giải quyết vụ án và giai đoạn thi hành án hình sự.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 102 Hiến pháp 2013: “Tòa án nhân
dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực
hiện quyền tư pháp”. Đây là cơ quan duy nhất có quyền nhân danh Nhà nước
tuyên một người có tội hay không có tội và quyết định hoặc không quyết định
áp dụng biện pháp cưỡng chế về hình sự đối với họ. Ngoài Tòa án thì Viện
kiểm sát cũng có thẩm quyền áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 107 Hiến pháp 2013: “Viện kiểm sát nhân
dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 49 Bộ luật hình sự năm 2015 thì
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh tâm thần,

12


một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi

thì Viện kiểm sát hoặc Tòa án căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám
định pháp y tâm thần có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên
khoa để bắt buộc chữa bệnh. Như vậy, quy định này cho thấy trong giai đoạn
điều tra, truy tố mà Viện kiểm sát biết được người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì Viện kiểm sát có
quyền áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh đối với họ. Còn trong
giai đoạn xét xử hoặc thi hành án thẩm quyền áp dụng biện pháp tư pháp bắt
buộc chữa bệnh thuộc về Tòa án. Nói tóm lại, tùy vào từng giai đoạn giải
quyết vụ án hoặc thi hành án mà thẩm quyền áp dụng biện pháp tư pháp bắt
buộc chữa bệnh thuộc về Tòa án hoặc Viện kiểm sát. Ngoài hai cơ quan này
ra thì không có một cơ quan Nhà nước nào khác có quyền quyết định áp dụng
biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh.
Thứ hai, biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh là một trong cơ sở để
xác định lỗi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh được áp dụng đối với người bị
bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng
điều khiển hành vi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Điều này có
nghĩa, đối với người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, nhưng không thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội thì không áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh đối
với họ. Khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội do đang trong tình trạng
không có khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi cho nên họ
được xác định là không có lỗi đối với hành vi và hậu quả do mình gây ra cho
nên hình phạt không được áp dụng đối với họ mà áp dụng biện pháp tư pháp

13


bắt buộc chữa bệnh mặc dù trong trường hợp tương tự nếu người bình thường

thực hiện hành vi gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội thì phải chịu hình phạt.
Phạm vi áp dụng biện pháp tư pháp rộng hơn hình phạt. Nếu hình phạt
chỉ áp dụng đối với người có hành vi phạm tội thì biện pháp tư pháp bắt buộc
chữa bệnh được áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội. Tức là biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh được áp dụng đối với người
phạm tội, là người đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của
mình và áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng
hành vi đó không đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
Mặt khác, cũng có những trường hợp người bị bệnh tâm thần, một bệnh
khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi nhưng tại
thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội họ không bị bệnh mà chỉ
trước hoặc sau khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì họ bị bệnh. Đối
với những trường hợp này, thì nếu vẫn tiến hành xét xử và tuyên hình phạt đối
với họ sẽ trái với nguyên tắc nhân đạo đã được thừa nhận trong luật hình sự
Việt Nam, cũng như không đạt được mục đích của hình phạt. Như vậy, việc
áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh đối với họ nhằm phòng ngừa
khả năng gây thiệt hại cho trật tự, an toàn xã hội là phù hợp. Khi họ đã khỏi
bệnh thì có thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ theo quy định của
pháp luật.
Khi áp dụng biện pháp này thì Tòa án hoặc Viện kiểm sát phải căn cứ
vào kết luận pháp y, pháp y tâm thần. Quy định này nhằm tránh sự tùy tiện,
tiêu cực trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Hiện nay, pháp luật đã quy
định rất chặt chẽ đối với công tác giám định pháp y, pháp y tâm thần đảm bảo
xác định chính xác tình trạng bệnh của người thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội. Theo Thông tư 18/2015/TT-BYT ngày 14/07/2015 ban hành quy
trình giám định pháp y tâm thần và biểu mẫu sử dụng trong giám định pháp y

14



tâm thần thì “1.1 Người giám định pháp y tâm thần là bác sỹ chuyên ngành
tâm thần, đã được cấp có thẩm quyền bổ nhiệm là giám định viên pháp y tâm
thần hoặc là người giám định pháp y tâm thần theo vụ việc (gọi chung là
giám định viên). Mỗi trường hợp giám định pháp y tâm thần thông thường có
03 giám định viên tham gia. Trường hợp phức tạp, có khó khăn trong việc xác
định bệnh cũng như đánh giá năng lực hành vi thì có thể có 05 giám định viên
tham gia. Trường hợp giám định lại lần thứ hai, có tính chất phức tạp, có sự
tham gia của nhiều chuyên khoa khác nhau thì có thể mời thêm chuyên gia về
giám định pháp y tâm thần, nhưng tổng số không quá 09 người/01 ca giám
định”. Theo quy định của luật giám định tư pháp thì có hai hình thức giám
định là giám định cá nhân và giám định tập thể [56]. Tùy vào yêu cầu của cơ
quan tố tụng mà việc giám định tâm thần được thực hiện theo một trong hai
hình thức trên. Như vậy, khi nghi ngờ một người bị bệnh tâm thần thì cơ quan
tiến hành tố tụng phải quyết định trưng cầu giám định và cũng chỉ được áp
dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh khi có kết luận pháp y, pháp y
tâm thần kết luận một người bị mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi.
Thứ ba, áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh thể hiện tính
nhân đạo xã hội chủ nghĩa của Bộ luật hình sự
Tính nhân đạo của Bộ luật hình sự được thể hiện qua nhiều Điều luật
khác nhau như Điều 3, Bộ luật hình sự năm 2015 đã quy định “….khoan hồng
đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập
công chuộc tội, ăn năn, hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại
gây ra”. Đối với biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh tính nhân đạo của Bộ
luật hình sự thể hiện ở việc không buộc người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh
khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mà họ

15



đã thực hiện. Cho dù hành vi mà họ thực hiện nguy hiểm và nghiêm trọng đến
đâu chăng nữa thì họ luôn được xác định là không có lỗi và không phải chịu
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt. Bên cạnh
đó, tính nhân đạo của biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh còn thể hiện ở
việc đưa người bị mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
vào điều trị tại cơ sở chuyên khoa, tạo điều kiện cho họ được điều trị, chăm
sóc về sức khỏe, giúp họ khỏi bệnh để trở về với cuộc sống bình thường.
Thứ tư, biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh góp phần phòng ngừa và
đấu tranh chống tội phạm
Bộ luật hình sự có nhiều công cụ, phương tiện khác nhau để phòng
ngừa khả năng gây thiệt hại cho trật tự, an toàn xã hội, trong đó hình phạt
được xem như công cụ chủ yếu và quan trọng nhất. Tuy nhiên, không phải
trong mọi trường hợp việc áp dụng hình phạt có thể đem lại hiệu quả, nếu
hình phạt không được nghiên cứu và áp dụng đúng đắn còn có thể đem lại
những hậu quả tiêu cực. Như trường hợp người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh
khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội thì rõ ràng việc sử dụng hình phạt đối với
những người này là không cần thiết, không đạt được mục đích của hình phạt.
Nhưng cũng không thể để người này ở ngoài xã hội để rồi họ có thể thực hiện
những hành vi gây ra những hậu quả nguy hại cho xã hội. Trong trường hợp
này, việc áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh với tư cách là biện
pháp thay thế hình phạt là phù hợp, vừa đạt được mục đích của hình phạt lại
vừa không trái với nguyên tắc cơ bản của Bộ luật hình sự. Với việc áp dụng
biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh thì người thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội sẽ buộc phải vào cơ sở điều trị chuyên khoa theo quyết định của
Tòa án hoặc Viện kiểm sát và họ được quản lý, theo dõi sát sao để đảm bảo
rằng họ không thực hiện được hành vi gây nguy hại cho xã hội. Hơn nữa, việc

16



bị đưa vào cơ sở điều trị chuyên khoa để chữa bệnh tạo điều kiện để họ có cơ
hội được điều trị khỏi bệnh và khi đó họ sẽ có hành động, cư xử đúng mực
không vì bị bệnh mà dẫn đến việc thực hiện hành vi nguy hiểm mà nếu ở
trong trạng thái bình thường họ không mong muốn.
1.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến áp dụng biện pháp tƣ pháp bắt buộc
chữa bệnh
1.2.1. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy [32,
tr.122, 123]. Khi con người ở trong trạng thái bình thường, có khả năng nhận
thức và điều khiển hành vi trong khi thực hiện tội phạm thì vấn đề lỗi mới
được đặt ra, vì khi đó con người mới có khả năng tiếp thu những đòi hỏi của
xã hội. Từ đó, việc Nhà nước áp dụng các biện pháp cần thiết mới đạt được
mục đích răn đe, giáo dục, phòng ngừa tội phạm. Còn khi đã mất đi khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì họ sẽ luôn được coi là không
có lỗi và vấn đề cải tạo, giáo dục họ không cần thiết mà cần phải đưa họ vào
cơ sở điều trị chuyên khoa để chữa bệnh. Con người có cấu tạo sinh học rất
đặc biệt, luôn có khuynh hướng hình thành và phát triển năng lực trách nhiệm
hình sự, nhưng phải trải qua một quá trình hoạt động, giáo dục nhất định trong
môi trường xã hội thì năng lực trách nhiệm hình sự mới thành hiện thực. Khi
đã trải qua một quá trình hoạt động trong môi trường xã hội thì con người có
khả năng nhận thức, trên cơ sở khả năng nhận thức con người có khả năng
điều khiển xử sự phù hợp với đòi hỏi chung của xã hội. Năng lực trách nhiệm
hình sự của con người được biểu hiện thông qua khả năng nhận thức và khả
năng điều khiển hành vi [32, tr.124, 125].


17


Đối với quan điểm triết học Mác-Lênin, nhận thức là quá trình phản
ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính
tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn [49]. Như vậy, để có khả
năng nhận thức con người phải trải qua một quá trình hoạt động, giáo dục
trong môi trường xã hội trong một khoảng thời gian nhất định. Trong quá
trình hoạt động, giáo dục trong môi trường xã hội con người được tiếp xúc từ
những vấn đề cơ bản như gia đình, họ hàng, trường học cho đến những vấn đề
phức tạp như xã hội, pháp luật…, từ đó con người tiếp thu được những kiến
thức thông qua suy nghĩ, kinh nghiệm và giác quan, dần hình thành nên khả
năng nhận thức. Khi con người đạt đến khả năng nhận thức nhất định thì con
người mới hiểu được mong muốn của mình đối với xã hội và hiểu được
những đòi hỏi của xã hội đối với bản thân mình. Từ đó con người mới đánh
giá được hành vi của mình là đem lại những lợi ích hay là đang làm ảnh
hưởng xấu đến xã hội. Khi con người đã nhận thức được hành vi của mình là
xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà pháp
luật hình sự quy định là tội phạm thì khi đó con người mới nhận thức được
hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, tức là nhận thức được tính chất gây thiệt
hại cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đây là năng lực nhận thức
của con người khi phạm tội.
Khả năng điều khiển hành vi được hiểu là khả năng của con người
trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định tự đưa ra được những quyết định, lựa
chọn của mình. Cụ thể, khả năng điều khiển hành vi được thể hiện khi con
người đối diện với những tình huống nhất định thì con người khả năng tự lựa
chọn, đưa ra quyết định sử dụng một hoặc một số biện pháp để thỏa mãn mục
đích của người đó. Và trong trường hợp con người quyết định thực hiện hành
vi không hợp pháp gây ra thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan,


18


tổ chức, cá nhân mà luật hình sự quy định là tội phạm thì họ phải chịu trách
nhiệm hình sự về sự lựa chọn của mình.
Theo từ điển Tiếng Việt thì “ý chí là cái hình thành từ trong ý thức mà
ra” hay khả năng điều khiển hành vi xuất phát từ khả năng nhận thức của
người phạm tội. Trong luật hình sự, những dấu hiệu của tình trạng không có
năng lực trách nhiệm hình sự được coi như là những dấu hiệu mà khi không
có những dấu hiệu đó con người được coi là có năng lực trách nhiệm hình sự.
Điều này có nghĩa là con người khi đạt đến độ tuổi nhất định mà không có
dấu hiệu của tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự thì được mặc
nhiên thừa nhận là có năng lực trách nhiệm hình sự. Khả năng này tồn tại, hạn
chế hay mất đi phụ thuộc vào sự phát triển của con người có bình thường hay
không. Trên thực tế, khi con người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối
loạn hoạt động tâm thần thì khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành
vi sẽ bị hạn chế hoặc bị mất đi. Hay luật hình sự gọi là tình trạng không có
năng lực trách nhiệm hình sự.
Điều 21 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tình trạng không có
năng lực trách nhiệm hình sự: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách
nhiệm hình sự”.
Như vậy, con người phải đạt đến độ tuổi nhất định thì mới có năng lực
trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp đạt độ tuổi nhất
định thì có năng lực trách nhiệm hình sự. Ngoài độ tuổi ra thì để xác định một
người là có năng lực trách nhiệm hình sự thì đòi hỏi người đó phải có tình
trạng sức khỏe hoàn toàn bình thường. Bởi năng lực trách nhiệm hình sự có
thể bị hạn chế hoặc loại trừ nếu hoạt động của não bộ bị rối loạn do bệnh tật.
Một người không trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là


19


×