Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo luật hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh quảng ninh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (910.3 KB, 88 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRN THO NGUYấN

TộI Cố ý GÂY THƯƠNG TíCH HOặC GÂY TổN HạI
CHO SứC KHỏE CủA NGƯờI KHáC THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2020


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRN THO NGUYấN

TộI Cố ý GÂY THƯƠNG TíCH HOặC GÂY TổN HạI
CHO SứC KHỏE CủA NGƯờI KHáC THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh)
Chuyờn ngnh: Lut Hỡnh s v T tng hỡnh s
Mó s: 8380101.03

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: GS.TSKH O TR C

H NI - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

TRẦN THẢO NGUYÊN


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG
TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE NGƢỜI KHÁC..... 8
1.1.

Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thƣơng tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe ngƣời khác trong luật hình sự

Việt Nam .............................................................................................. 8

1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
người khác ............................................................................................ 8
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe người khác trong luật hình sự Việt Nam ................ 11
1.2.

Khái quát quá trình phát triển của pháp luật về tội cố ý gây
thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe ngƣời khác trong pháp
luật hình sự ......................................................................................... 12

1.2.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1985.......................................................... 12
1.2.2. Giai đoạn hiệu lực của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 ............ 15
1.2.3. Giai đoạn hiệu lực của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 ............ 17
1.3.

Phân biệt tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của ngƣời khác với các tội phạm có liên quan khác ............ 20

1.3.1. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác với tội giết người ...................................................... 20


1.3.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh ................................................................................. 22
1.3.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác với tội chống người thi hành công vụ ....................... 23
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 26
CHƢƠNG 2: TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN
HẠI CHO SỨC KHỎE NGƢỜI KHÁC THEO QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH ........................................ 27
2.1.

Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe ngƣời
khác theo quy định của BLHS 2015 ............................................... 27

2.1.1. Điểm mới của BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) so với
BLHS 2015 về tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác........................................................................... 27
2.1.2. Các yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe người khác .................................................................... 31
2.1.3. Hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe người khác........................................................................... 38
2.2.

Thực tiễn xét xử tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe ngƣời khác trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh..................... 42

2.2.1. Khái quát tình hình xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
trong 05 năm từ năm 2014-2018 ........................................................ 42
2.2.2. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt các vụ án cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại
TAND tỉnh Quảng Ninh ..................................................................... 44
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 62



Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BLHS VỀ TỘI CỐ
Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC
KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC .......................................................... 63
3.1.

Phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
BLHS về Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của ngƣời khác ........................................................................ 63

3.2.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
BLHS về tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của ngƣời khác ........................................................................ 66

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .......................................... 66
3.2.2. Các giải pháp về thực tiễn xét xử của tòa án về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .............. 70
Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 74
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:


Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

Tr:

Trang

TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng, biểu đồ

Trang

Bảng 2.1


So sánh tình hình tội phạm về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác với tình
hình tội phạm nói chung trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
giai đoạn từ năm 2014 – 2018

43

Bảng biểu diễn mức hình phạt áp dụng khi xét xử tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác

44

Số liệu thụ lý và giải quyết các vụ án của TAND tỉnh
Quảng Ninh theo từng năm, giai đoạn từ năm 2014 - 2018

45

Số liệu số lượng án bị hủy, bị sửa của TAND tỉnh Quảng
Ninh theo từng năm, giai đoạn từ năm 2014 – 2018

45

Biểu đồ 2.1 Biểu diễn vụ án hình sự và vụ án cố ý gây thương tích tại
TAND tỉnh Quảng Ninh trong 05 năm tằ 2014 - 2018

43

Bảng 2.2


Bảng 2.3

Bảng 2.4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền bất khả xâm phạm thân thể, tính mạng là những quyền nhân
thân, gắn liền với mỗi công dân, được ghi nhận là nguyên tắc hiến định tại
Hiến pháp 2013 khẳng định “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân
thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm, không bị tra
tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm
phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm” [28, Điều 20]. Thể
chế hóa các quy định của Hiến pháp, Bộ luật hình sự là công cụ pháp lý sắc
bén, hữu hiệu trong hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm; góp phần
quan trọng vào công cuộc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh
của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân;
qua các thời kỳ đều dành một chương riêng để quy định về nhóm tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Tại BLHS
năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (gọi là BLHS 2015), tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại
Điều 134, trong Chương XIV các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con người.
Trong những năm qua, mặc dù Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và
tăng cường lãnh đạo đối với các cơ quan tư pháp, kiên quyết đấu tranh phòng
chống các loại tội phạm nói chung và phòng chống tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác nói riêng. Tuy nhiên, cùng với
sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự mở
rộng hợp tác giao lưu quốc tế thì tình hình tội phạm nói chung và tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác nói riêng có nhiều

diễn biến phức tạp, tính chất thủ đoạn ngày càng manh động và liều lĩnh, vì

1


vậy công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này luôn là vấn đề cần thiết
đặt ra trong tiến trình cải cách tư pháp của Nhà nước ta. Trong công tác đấu
tranh phòng, chống các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người thì hoạt
động xét xử của Tòa án nhân dân đối với tội này là vô cùng quan trọng. Xét
xử án hình sự trong đó có xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ của người khác để ra các bản án, các quyết định thể hiện tính
nghiêm minh và sự công bằng của pháp luật. Do vậy, tăng cường công tác áp
dụng pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự nói chung và các vụ
án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
nói riêng vừa là nhiệm vụ, trách nhiệm, vừa là đạo đức của cán bộ, công chức
trong hệ thống Tòa án, có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của hoạt động xét xử.
Tỉnh Quảng Ninh không phải là địa bàn trọng điểm trên cả nước về tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác, nhưng
với đặc điểm là một trọng điểm kinh tế, một đầu tàu của vùng kinh tế trọng
điểm phía Bắc. Điều này, đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế
trên địa bàn tỉnh, tuy nhiên mặt trái của sự phát triển trên chính là tạo điều
kiện cho các loại tội phạm gia tăng, trong đó nổi cộm là tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác. Thực tiễn áp dụng pháp
luật trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác đã giúp phần quan trọng trong đấu
tranh phòng chống tội phạm. Tuy vậy, xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác của Tòa án nhân dân trong tỉnh
Quảng Ninh vẫn còn có những sai sót nhất định, ảnh hưởng đến uy tín của hệ
thống Tòa án, tác động tiêu cực đến lòng tin của nhân dân vào công lý, ảnh

hưởng đến việc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác nói riêng.

2


BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) mới được thông qua và có
hiệu lực từ ngày 01/01/2018, tuy nhiên qua nghiên cứu, nội dung quy định
của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã
phát sinh những điểm còn chưa rõ ràng, cần phải có văn bản hướng dẫn để
việc áp dụng trong thực tiễn được chính xác và thống nhất. Xuất phát từ
những lý do trên, học viên đã chọn đề tài: “Tội cố ý gây thương tích theo
pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” để làm để tài nghiên cứu
cho luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian qua, có nhiều công trình nghiên cứu về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dưới nhiều góc độ khác
nhau. Có thể kể đến như:
* Sách, giáo trình: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình
sự Việt Nam (tập II), Nxb. CAND, Hà Nội, 2014; Khoa luật Đại học quốc gia
Hà Nội, Giáo trình luật hình sự (phần các tội phạm), Nxb. Đại học quốc gia
Hà Nội, 2007; Đinh Văn Quế, Bình luận Bộ luật hình sự năm 2015, Phần thứ
hai Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con
người, Nxb. Thông tin Truyền thông; Cao Thị Oanh (chủ biên), Giáo trình
luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2010;
Cao Thị Oanh - Lê Đăng Doanh (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật hình
sự năm 2015, Nxb. Lao động, Hà Nội tháng 6-2016; Trần Văn Biên và Đinh
Thế Hưng (chủ biên), Bình luận khoa học BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017), Nxb. Thế giới, 2017; Trần Văn Luyện (chủ biên), Bình luận khoa
học bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi Bổ sung 2017) - Phần tội phạm, nxb.

Công an nhân dân, 2017;
* Tạp chí: Nguyễn Ngọc Hoà, “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,

3


nhân phẩm, danh dự của con người - So sánh giữa BLHS năm 1999 và BLHS
năm 1985”, Tạp chí luật học, số 1/2001; Đỗ Đức Hồng Hà, “Phân biệt tội
giết người với tội cố ý gây thương tích”, Tạp chí toà án nhân dân, số 3/2004,
tr. 7 – 11; Phạm Minh Tuyên, Một số ý kiến về tội Cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định tại Điều 134 Bộ luật
hình sự năm 2015, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/2018.
* Luận văn thạc sĩ: Nguyễn Thị Minh Nguyệt, Đấu tranh phòng, chống
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại địa
bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội, năm 2002; Đặng Thị Hương Dung, Tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội, năm 2015; Lê Đình Tĩnh, Các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại đến sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc
sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014; Lương Minh Phương, Áp
dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ con
người của Toà án nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2013.
Các công trình nghiên cứu nói trên mới dừng lại ở việc phân tích một
cách tổng quát về tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác theo quy định của BLHS 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009). Bên
cạnh đó những vấn đề thực tiễn cùng những giải pháp kiến nghị dừng lại ở
mức độ khá chung chung và chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn
diện và có hệ thống về loại tội này đặc biệt trong giai đoạn BLHS 2015 (sửa

đổi, bổ sung 2017) mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 và trên một địa bàn
nhất định là tỉnh Quảng Ninh.

4


3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài là:
- Làm sáng tỏ Những vấn đề lý luận chung về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác theo quy định của pháp luật hình sự
qua các giai đoạn lịch sử nhất định. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với các tội phạm có liên quan khác.
- Phân tích nội dung, điểm mới quy định về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác theo quy định của BLHS 2015 và
thực tiễn xét xử loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh thông qua các
vụ án cụ thể.
- Đề xuất sự cần thiết ban hành văn bản hướng dẫn các quy định của
BLHS 2015 bảo đảm tính khả thi khi áp dụng trong thực tiễn xét xử tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác; các giải pháp nâng
cao chất lượng áp dụng các quy định của BLHS về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người
khách theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.
- Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định của BLHS 2015
và các văn bản pháp luật có liên quan khác.
Về không gian: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi không gian tại tỉnh

Quảng Ninh, cụ thể trong giai đoạn xét xử của TAND tỉnh Quảng Ninh.
Về thời gian: Số liệu nghiên cứu luận văn trong thời gian 05 năm từ
năm 2014-2018.

5


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài là phương pháp luận triết học duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đường lối, chính
sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước và Pháp quyền.
Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới, phát
triển nền kinh tế thị trường và thực tiễn áp dụng.
Bên cạnh đó, học viên còn sử dụng các phương pháp phân tích quy
phạm; tổng hợp, hệ thống, điều tra xã hội học, phương pháp lịch sử, so sánh,
phân tích, đánh giá để giải quyết các vấn đề của đề tài đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở kế thừa các công trình khoa học đã được công bố, học viên
tiếp tục nghiên cứu một cách hệ thống về những vấn đề lý luận và thực tiễn
làm rõ quy định về tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác một cách thống nhất và thực sự khoa học. Luận văn
được trình bày với những nội dung mới như sau:
- Là công trình nghiên cứu về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác theo quy định tại BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) tại một địa bàn nhất định là tỉnh Quảng Ninh dưới hình thức luận
văn Thạc sĩ.
- Bổ sung vào cơ sở dữ liệu nghiên cứu về chế định tội phạm cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
- Làm sáng tỏ vấn đề về lý luận và thực tiễn áp dụng quy định về tội
phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

góp phần giúp các cơ quan áp dụng pháp luật đặc biệt là Tòa án, Viện
Kiểm sát, Công an nhân dân có cái nhìn một cách tổng quát và toàn diện
loại tội phạm này.

6


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe người khác
Chương 2. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
người khác theo quy định của BLHS 2015 và thực tiễn xét xử trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh
Chương 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định của BLHS về tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác.

7


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH
HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE NGƢỜI KHÁC
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thƣơng tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe ngƣời khác trong luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe người khác
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân

thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính
trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác
của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này
phải bị xử lý hình sự [30].
Sức khỏe có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với mỗi con người, quyết
định trực tiếp đến sự tồn vong, chất lượng cuộc sống của họ. Có nhiều cách
hiểu khác nhau về sức khỏe. Theo cách hiểu thông thường, sức khỏe được
hiểu là tình trạng không có bệnh tật hoặc không có thương tật. Quan điểm
khác lại cho rằng:
Sức khỏe của con người là tình trạng sức lực của con người đang
sống trong điều kiện bình thường, cho nên sức khỏe thực ra là trạng
thái tâm lý, sự hoạt động hài hòa trong cơ thể tạo nên khả năng
chống lại bệnh tật [17, tr. 206, 207].

8


Còn theo giải thích của Từ điển Bách khoa Việt Nam:
Sức khỏe của con người là trạng thái đầy đủ về thể chất, tâm
thần mà không chỉ có nghĩa là không có bệnh hay thương tật;
cho phép mỗi người thích ứng nhanh chóng với các biến đổi của
môi trường, giữ được lâu dài khả năng lao động và lao động có
hiệu quả [16, tr.835].
Hành vi xâm phạm sức khỏe con người là hành vi dùng tác động ngoại
lực hoặc bất kỳ hình thức nào làm cho người đó yếu đi hoặc gây ra những tổn
thương ở các bộ phận trong cơ thể, gây bệnh tật, làm ảnh hưởng đến hoạt
động bình thường của người đó. Nó làm tổn hại đến khả năng suy nghĩ, học

tập, lao động, sáng tạo của nạn nhân. Trong các văn bản pháp luật hình sự từ
trước đến nay đều không đưa ra định nghĩa thế nào là tội cố ý gây thương
thích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Trong khoa học luật hình
sự, nội dung này đã được nhiều tác giả, các nhà nghiên cứu khoa học đưa ra
khái niệm khác nhau về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác. Có thể kể đến như:
Tác giả Đinh Văn Quế đưa ra khái niệm:
Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
là hành vi của một người cố ý làm cho người khác bị thương hoặc
tổn hại đến sức khoẻ [24, tr.76].
Tác giả Phạm Văn Beo đưa ra định nghĩa:
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác là hành vi cố ý gây ra thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác dưới dạng thương tích hoặc tỷ lệ tổn hại sức
khỏe cụ thể [37, tr.95].
Đây là những khái niệm, định nghĩa được đưa ra dựa trên khung hình
phạt cơ bản quy định tại khoản 1 Điều 104 BLHS 1999 với nội dung mang

9


tính tổng quát, chưa thể hiện được đầy đủ các bản chất pháp lý của tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Ngoài ra, các
định nghĩa nêu trên đều dựa trên các quy định của BLHS 1999 hiện nay đã hết
hiệu lực thi hành. Trong khi BLHS 2015 đã có hiệu lực thi hành từ
01/01/2018 với những sửa đổi, bổ sung về khái niệm Tội phạm và các dấu
hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác cần có sự nhận định khác. Do đó, cần đưa ra một khái niệm mới
phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành cũng như thể hiện đầy đủ bản
chất pháp lý của các tội phạm này. Việc đưa ra khái niệm về tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cần phải dựa trên
cơ sở khái niệm tội phạm nói chung và các dấu hiệu pháp lý nói riêng thể hiện
đặc trưng của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác theo quy định của BLHS Việt Nam nói riêng nhằm nhận diện, xác
định chính xác tội phạm. Trên cơ sở đó, đưa ra được cái nhìn tổng thể, đầy đủ
nhất về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác. Cũng giống như các loại tội phạm khác, tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mang đầy đủ bản chất pháp lý theo
quy định tại Khoản 1 Điều 8 BLHS 2015, nhưng đồng thời cũng có những
đặc điểm pháp lý riêng biệt quy định tại khoản 1 Điều 134 BLHS 2015. Như
vậy, có thể hiểu “tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác” là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể của
người khác làm cho người đó mất đi một phần hoặc toàn bộ sức lực vốn có
của họ được coi là tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự".
Đây là khái niệm chung cho tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác, tuy nhiên cần lưu ý, Điều 134 BLHS quy
định là 02 tội danh ghép bao gồm 02 tội độc lập là tội Cố ý gây thương tích
cho người khác hoặc tội Cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Do

10


đó, trong thực tiễn áp dụng cần chỉ ra rõ người phạm tội phạm tội cụ thể
nào. Việc phân biệt giữa tội cố ý gây thương tích cho người khác hay tội cố
ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dựa trên hậu quả gây ra cho
người khác là thương tích trên cơ thể, hay tổn hại, suy giảm chức năng của
bộ phận trên cơ thể.
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe người khác trong luật hình sự Việt Nam
Kế thừa quy định từ Điều 104 BLHS 1999, BLHS 2015 vẫn tiếp tục

quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác là tội danh độc lập tại Điều 134 BLHS 2015. Việc quy định tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại Điều 134 thuộc
chương XIV của BLHS 2015 có những ý nghĩa sau đây:
Thứ nhất, Thể hiện quyết tâm bảo vệ sức khỏe của con người một cách
toàn diện, triệt để. Cuộc sống con người có được khỏe mạnh, thành công hay
không phụ thuộc vào chính sức khỏe, do đó, sức khỏe của mỗi con người là
bất khả xâm phạm, không ai có quyền gây tổn hại, gây thương tích cho thân
thể của người khác trái pháp luật. Việc BLHS quy định tội danh về việc cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là cần thiết
góp phần bảo vệ một cách triệt để quyền con người.
Thứ hai, là cơ sở pháp lý quan trọng góp phần đấu tranh phòng, chống
các hành vi xâm phạm đến sức khỏe của người khác. BLHS là văn bản pháp
lý duy nhất quy định hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác là tội phạm và hình phạt có thể áp dụng đối với người đã gây
ra hành vi đó cao nhất có thể lên tới tù chung thân. Việc Nhà nước quy định
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và
hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội xuất phát từ nhu cầu thực tiễn,
góp phần hiện thực hóa các quy phạm hiến pháp ghi nhận về quyền được bảo

11


vệ sức khỏe con người. Quy phạm pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có tính chất bắt buộc
nghiêm cấm người ta không được thực hiện hành vi gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác bằng sự răn đe áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội. Mặt khác, quy phạm pháp luật hình sự này cũng là căn cứ
pháp lý giới hạn trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong phạm vi
quyền hạn của mình khi phát hiện ra hành vi phạm tội về cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cần nhanh chóng tiến hành các
hoạt động tố tụng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi này khi
đầy đủ điều kiện luật định.
Thứ ba, Thể hiện sự chú trọng của Nhà nước trong việc ban hành các
văn bản pháp luật nhằm bảo vệ tối đa quyền con người. Con người luôn giữ vị
trí trung tâm trong các hoạt động, nhân tố con người chiếm vị trí hàng đầu
trong tổng thể các nhân tố tác động đến sự phát triển đất nước cũng như sự
tồn vong của xã hội hội. Việc Nhà nước ghi nhận các quy phạm bảo vệ quyền
con người mà cụ thể là pháp luật hình sự quy định tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là cần thiết góp phần xây dựng
một quốc gia dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
1.2. Khái quát quá trình phát triển của pháp luật về tội cố ý gây thƣơng
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe ngƣời khác trong pháp luật hình sự
1.2.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1985
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công giải phóng miền Bắc, đất
nước ta phải đối mặt với nhiệm vụ lớn là “diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt
giặc ngoại xâm”. Trước tình hình đó, để tạo cơ sở pháp lý cho việc trấn áp tội
phạm, Nhà nước ta đã ban hành các Sắc lệnh trên các lĩnh vực để điều chỉnh
một số mối quan hệ xã hội, nhưng các văn bản pháp luật nói chung và các văn
bản pháp luật hình sự nói riêng không đủ để đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
12


Ngày 19/01/1955, Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tư số 442 quy
định về việc trừng trị một số tội phạm. Đây có thể coi là văn bản pháp luật
đầu tiên chính thức quy định về tội cố ý gây thương tích. Theo đó, tại khoản 3
của Thông tư quy định:
- Đánh bị thương: phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm.
- Đánh bị thương có tổ chức hoặc gây thành cố tật hay chết người có

thể phạt đến 20 năm.
Cụm từ “cố ý gây thương tích” được ghi nhận trong Công văn số
452/HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tối cao về thực tiễn xét xử tội
phạm giết người. Nội dung công văn đã có sự đề cập, phân tích các tiêu chí để
phân biệt giữa tội giết người với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác như sau:
Giữa giết người chưa đạt khi phương pháp giết người là gây thương
tích như bắn, chém, bóp cổ... với cố ý gây thương tích, mặt khách
quan rất giống nhau: cũng đều có những hành vi gây thương tích
cho người khác và không có hậu quả chết người. Nhưng mặt chủ
quan thì khác nhau và do đó, mức độ nguy hiểm cho xã hội thì rất
khác nhau: một bên can phạm mong muốn cho hành vi của mình
gây hậu quả làm chết người nhưng hậu quả đó không xảy ra ngoài ý
muốn của y; một bên can phạm chỉ muốn gây thương tích và cũng
không hề muốn có hậu quả chết người... Nếu xác định được rằng,
can phạm chú ý có những hành vi ít nguy hiểm, ít khả năng gây
chết người, thông thường nên định tội là cố ý gây thương tích [41].
Tại Sắc luật số 03/SL ngày 15/3/1976 quy định tội phạm và hình
phạt của Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam, tại Điều 5. Tội xâm phạm đến nhân thân và nhân phẩm của công
dân đã quy định:

13


Phạm tội cố ý gây thương tích thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm.
Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 10 năm; Phạm tội cố ý
gây thương tích nặng thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm, trường
hợp gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm [15].
Thông tư số 03-BTP/TT ngày 20/4/1976 của Bộ Tư pháp Chính phủ

cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã cụ thể hóa quy định
trên như sau:
Cố ý gây thương tích là hành vi cố ý xâm phạm đến thân thể người
khác với ý định làm cho thân thể người đó bị tổn thương. Trong tội
cố ý gây thương tích, bị cáo chỉ có ý định làm cho người khác bị
thương, mà không hề có ý định cũng như không hề mong muốn làm
cho nạn nhân chết. Có trường hợp tuy bị cáo chỉ cố ý gây thương
tích, nghĩa là chỉ có ý định làm cho người khác bị thương, nhưng do
vết thương quá nặng nên đã làm cho nạn nhân chết. Trường hợp này
không coi là tội cố ý giết người mà vẫn coi là tội cố ý gây thương
tích, nhưng là trường hợp cần xử lý nặng [3].
Nội dung chủ yếu của Thông tư này ghi nhận:
- Đây được coi là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên ghi nhận đề cập
đến khái niệm cố ý gây thương tích cho sức khỏe của người khác.
Quy định tội cố ý gây thương tích với hai khung hình phạt khác nhau:
+ Khung 1: Phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm (Cấu thành cơ bản) được áp
dụng cho trường hợp chỉ gây thương tích mà không có tình tiết tăng nặng định
khung hình phạt.
+ Khung 2: Phạt tù đến 20 năm (Cấu thành định khung tăng nặng) được
áp dụng trong trường hợp có các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt [3].
Từ nội dung những văn bản pháp lý nêu trên, có thể thấy được tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được ghi nhận
trong giai đoạn này thể hiện các nôi dung sau:
14


Một là, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật hình sự quy định tội
cố ý gây thương tích còn nhiều hạn chế, trật tự cũng như nội dung ban hành
văn bản không đúng thẩm quyền (Thông tư của Thủ tướng ban hành có những
nội dung đáng lẽ phải do Quốc hội qui định).

Thứ hai, quy định về tội cố ý gây thương tích trong Thông tư số 442TTg và Sắc luật số 03-SL còn đơn giản, chưa thể hiện sự phân hóa cao trách
nhiệm hình sự, về hình thức chỉ có hai khung hình phạt, các tình tiết định
khung tăng nặng hình phạt còn đơn giản, thiếu nhiều tình tiết như: dùng hung
khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người, có tính chất côn
đồ hoặc tái phạm nguy hiểm...[20].
1.2.2. Giai đoạn hiệu lực của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
Kế thừa và phát triển những thành tựu của pháp luật hình sự Việt Nam
qua nhiều giai đoạn, ngày 27/6/1985 được coi là thời điểm đánh dấu chuyển
biến mang tính lịch sử trong quá trình lập pháp của nước ta. Tại kỳ họp thứ 9,
Quốc hội khóa VII, BLHS đầu tiên của nước ta được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua. Trong đó, các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người được quy định tại
Chương II, Điều 109. Quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác có nội dung như sau:
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm
hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ
hai năm đến bảy năm:
a) Gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe của
người khác;
b) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của
nạn nhân;
15


c) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
d) Gây thương tích cho nhiều người hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ
của nhiều người.
3. Phạm tội gây cố tật nặng hoặc dẫn đến chết người thì bị phạt tù

từ năm năm đến hai mươi năm.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định ở điểm a khoản
2 và ở khoản 3 Điều này do bị kích động mạnh vì hành vi trái pháp
luật nghiêm trọng của nạn nhân hoặc trong trường hợp vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam
giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
Tại BLHS 1985, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác được quy định tại Điều 109 với 04 khung hình phạt.
Trong điều luật này quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác ngoài trường hợp phạm tội thông thường, còn có
các trường hợp có tình tiết định khung tăng nặng (gây thương tích hoặc gây
tổn hại nặng cho sức khỏe của người khác, để cản trở người thi hành công vụ
hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân, có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy
hiểm) và các trường hợp định khung giảm nhẹ (do bị kích động mạnh vì
hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân hoặc trong trường hợp
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng). Việc đưa vào nhiều hành vi với
những tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau vào cùng một điều luật
cũng phần nào giúp cho việc áp dụng dễ hơn khi có sự đối chiếu, So sánh
các hành vi. Tuy nhiên, Điều 109 BLHS 1985 chỉ nêu tên tội danh mà không
mô tả các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm, các điểm khoản quy định
còn chung chung, trừu tượng gây khó khăn cho thực tế áp dụng pháp luật.
Để khắc phục những khó khăn kể trên, TAND tối cao đã ban hành nhiều văn
bản, hướng dẫn thi hành điều luật này, có thể kể đến như Nghị quyết số

16


04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng
dẫn áp dụng một số quy định phần các tội phạm của BLHS; Công văn số 03TATC ngày 22/10/1987 của TAND tối cao hướng dẫn thực hiện Điều 109
BLHS; Công văn số 311/HS ngày 04/4/1989 của TAND tối cao về việc xác

định tỷ lệ thương tật cả người bị thương tích; Nghị quyết số 01HĐTP/NQ
ngày 19/4/1989 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn bổ sung
việc áp dụng một số quy định của BLHS.
Để tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS 1985, ngày 28/12/1989,
Quốc hội đã thông qua Luật số 30-LCT/HĐNN8 sửa đổi, bổ sung một số điều
của BLHS 1985, trong đó có Điều 109. Theo đó, bổ sung thêm điểm d khoản
2 Điều 109 như sau: “Gây thương tích cho nhiều người hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ của nhiều người". Đồng thời cũng đã bổ sung vào khoản 3 như sau:
"Phạm tội gây cố tật nặng, dẫn đến chết người hoặc trong trường hợp đặc
biệt nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ 5 năm đến 20 năm".
Trong ba lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự 1985 tiếp theo vào các
năm 1991, 1992, 1997, nội dung Điều 109 về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác không có gì thay đổi, điều đó minh
chứng quy phạm pháp luật quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác mang tính định hướng cao, phù hợp với thực
tiễn. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 và các văn bản hướng dẫn là
những quy phạm định hướng tạo cơ sở, tiền để quan trọng trong xây dựng
Điều luật hoàn thiện sau này.
1.2.3. Giai đoạn hiệu lực của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
BLHS 1999 đã có sự tiến bộ vượt bậc trong việc phân hóa triệt để
TNHS và hình phạt, nêu cao tinh thần nhân đạo của pháp luật hình sự cũng
như có nhiều điểm mới trong kỹ thuật lập pháp của Nhà nước ta. So với
BLHS 1985 thì BLHS 1999 đã có nhiều thay đổi điều chỉnh đối với các tội

17


×