PHÒNG GD&ĐT TAM DƯƠNG
TRƯỜNG TIỂU HỌC VÂN HỘI
HỒ SƠ ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
CẤP HUYỆN NĂM HỌC 2018-2019
Tên sáng kiến: Phương pháp dạy kĩ năng nói cho học sinh
lớp 4
Tác giả sáng kiến: Nguyễn Thị Thu
Chức vụ: Giáo viên Tiếng Anh
Đơn vị: Trường Tiểu học Vân Hội, huyện Tam Dương, tỉnh
Vĩnh Phúc.
HỒ SƠ GỒM CÓ:
1. Đơn đề nghị công nhận Sáng kiến cấp huyện ;
2. Báo cáo kết quả nghiên cứu, ứng dụng sáng kiến.
3. Giấy chứng nhận Sáng kiến cấp trường;
Tam Dương, năm 2019
1
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------ĐƠN ĐỀ NGHỊ
CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN CẤP HUYỆN
Kính gửi: Hội đồng Sáng kiến huyện Tam Dương
Tên tôi là: Nguyễn Thị Thu
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường Tiểu học Vân Hội- Tam Dương- Vĩnh Phúc
Điện thoại: 0385169277
Tôi làm đơn này trân trọng đề nghị Hội đồng Sáng kiến tỉnh Vĩnh Phúc
xem xét và công nhận sáng kiến cấp tỉnh cho tôi đối với sáng kiến/các sáng kiến
đã được Hội đồng Sáng kiến cơ sở công nhận sau đây:
1. Tên sáng kiến: Phương pháp dạy kĩ năng nói cho học sinh lớp 4
(Có Báo cáo Báo cáo kết quả nghiên cứu, ứng dụng sáng kiến
và Giấy chứng nhận Sáng kiến cấp trường kèm theo)
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật,
không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác và hoàn toàn chịu trách
nhiệm về thông tin đã nêu trong đơn.
Xác nhận của Thủ trưởng đơn vị
Vân Hội, ngày 4 tháng 3 năm 2019
Người nộp đơn
(Ký tên, ghi rõ họ tên)
(hoặc Chính quyền địa phương)
(Ký tên, đóng dấu)
Nguyễn Thị Thu
Phùng Đắc Vinh
2
PHÒNG GD&ĐT TAM DƯƠNG
TRƯỜNG TIẾU HỌC VÂN HỘI
BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
Tên sáng kiến: Phương pháp dạy kĩ năng nói cho học sinh
lớp 4
Tác giả sáng kiến: Nguyễn Thi Thu
BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
Tam Dương, năm 2019
3
BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Như chúng ta đã biết ngoại ngữ rất quan trọng đối với chúng ta trong thời
đại công nghiệp hóa-hiện đại hóa đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập. Nó được ví
như chiếc chìa khóa giúp chúng ta mở mang tầm nhìn và có thể đi khắp mọi nơi
trên thế giới, vươn tới mọi lĩnh vực trong cuộc sống mà ngôn ngữ chung cho
toàn thế giới là tiếng Anh. Đât nước ta ngày càng phát triển đỏi hỏi chúng ta
phải nhanh chóng bắt kịp với những thay đổi những xu hướng chung của thời
đại công nghệ thông tin. Hiện nay, giáo dục tiểu học đang thực hiện mục tiêu
giáo dục toàn diện cho học sinh nhằm phát triển nhân cách của con người đáp
ứng với những yêu cầu của thời đại.
Trong các môn học của chương trình tiểu học nó mang một nội dung cụ thể
nhằm hình thành nhân cách, phát triển trí tuệ của học sinh một cách toàn diện.
Đối với bộ môn Tiếng Anh góp phần không nhỏ phát triển trí tuệ và năng lực tư
duy, sự hiểu biết xã hội của học sinh. Bởi vậy việc đưa chương trình Tiếng Anh
vào dạy trong chương trình tiểu học đã được thực hiện trong nhiều năm qua để
tạo nền tảng cho học sinh nắm bắt với xu thế của thời đại trong thời gian đến và
tạo đà phát triển cho các em sau này. Hầu hết trẻ em trên cả nước từ thành thị
đến nông thôn, phần lớn đều được làm quen với bộ môn Tiếng Anh từ rất sớm
thông qua việc giảng dạy trong các trường phổ thông. Bốn kỹ năng nghe, nói,
đọc, viết được diễn ra một cách đồng thời trong quá trình dạy và học ngoại ngữ.
Đối với học sinh lớp 4 các em mới bước đầu làm quen với chương trình tiếng
Anh nên các em còn hạn chế trong cách giao tiếp dù các em vẫn hiểu bài nắm
được cấu trúc câu nhưng muốn diễn đạt ý còn ngại ngùng, lúng túng khi nói. Để
đáp ứng được yêu cầu học sinh phải sử dụng được ngữ liệu đã học vào hoạt
động giao tiếp một cách hiệu quả. Qua nhiều năm giảng dạy tiếng Anh và trích
lũy kinh nghiệm của bản thân và đồng nghiệp tôi đã vận dụng một số phương
pháp rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 4 nhằm tạo cho các em hứng thú và tự tin
trong giao tiếp.
2. Tên sáng kiến
Phương pháp dạy kỹ năng nói cho học sinh lớp 4.
3. Tác giả sáng kiến
- Họ và tên: Nguyễn Thị Thu
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Tiểu học Vân Hội – Tam Dương Vĩnh Phúc
- Số điện thoại: 0385169277
4
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
Nhà giáo : Nguyễn Thị Thu- Trường Tiểu học Vân hội, xã Vân Hội, huyện Tam
Dương, tỉnh Vĩnh Phúc
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
- Sáng kiến được áp dụng trực tiếp vào các tiết giới thiệu từ vựng, các kỹ
năng nghe, nói, đọc, viết, các trò chơi, bài hát bằng Tiếng Anh.
- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh Trường Tiểu học Vân hội huyện Tam
Dương, tỉnh Vĩnh Phúc trong năm học 2018- 2019
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
Ngày 15 tháng 9 năm 2017
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1. Nội dung của sáng kiến:
Ngày nay việc học ngoại ngữ rất phong phú và đang dạng song bất kỳ
đối tượng và hình thức nào thì việc học tiếng Anh theo 4 kỹ năng : nghe, nói,
đọc, viết. Trong mỗi đơn vị bài học cụ thể thì 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết
đều được rèn luyện phát triển nhằm mục đích giúp học sinh nói tiếng Anh tốt.
Và học sinh có đủ tự tin nói Tiếng Anh trong đời sống hằng ngày không? Câu
hỏi này chắc chắn giáo viên nào cũng luôn đặt trong đầu và tìm tòi nghiên cứu
câu trả lời cho phù hợp và mục đích cuối cùng của người học cũng như người
dạy là tiến tới khả năng giao tiếp tốt.
7.1.1 Tạo môi trường giao tiếp, không khí thoải mái cho các em.
Việc tạo môi trường giao tiếp, không khí thoải mái cho các em là hết sức
cần thiết, là yếu tố rất quan trọng giúp cho hoạt động giao tiếp được tiến hành
thuận lợi và đạt kết quả cao. Học sinh tiểu học còn nhỏ, khả năng giao tiếp còn
hạn chế, các em thường e ngại rụt rè. Mặt khác với vốn tiếng Anh còn ít, các kĩ
năng ngôn ngữ còn hạn chế nên các em càng không tự tin khi nói, các em sợ nói
sai, sợ bị các bạn chê cười đẫn đến việc các em lười nói, không chủ động nói. Vì
thế giáo viên cần tạo môi trường ngoại ngữ cho các em bằng cách khuyến khích
các em dung những lời chào hỏi, những câu đối thoại đơn giản, câu lệnh không
chỉ trong tiết hoc tiếng Anh mà còn ở những thời điểm khác, ở những nơi khác.
Việc làm này giúp các em tự tạo thói quen nói và môi trường nói thật tự nhiên.
Và khi vào các tiết học tiếng Anh các em mới cảm thấy bình thường, thoải mái
và tự tin hơn. Ngoài ra trong khi luyện nói giáo viên cần tạo không khí thật thoải
mái, vui vẻ, không nặng nề, luôn động viên, khuyến khích các em. Giáo viên
cũng nên kiên trì, không quá kì vọng vào việc các em có thể nói tốt như mong
muốn. Các em cần có quá trình rèn luyện, tích lũy kiến thức, củng cố và phát
triển kĩ năng, dần dần các em mới có thể nói tốt và hoàn thành tốt nhiệm vụ của
bài học, và đạt được kì vọng của giáo viên cũng như bản thân các em.
5
7.1.2 Tổ chức, sắp xếp, phân loại các hoạt động nói trong lớp.
Các bài tập rèn luyện nói thường được sắp xếp theo nhiều mức độ: từ
những bài tập được kiểm soát chặt chẽ đến những bài tập ít được kiểm soát hơn
và đến giai đoạn nói tự do.
Các hoạt động nói trong lớp nên được tổ chức và sắp xếp như sau:
- Rèn luyện cấu trúc ngữ pháp.
- Hành động lời nói.
- Tham gia.
- Quan sát.
a) Rèn luyện cấu trúc ngữ pháp.
Mặc dù các kĩ thuật rèn luyện nói qua các cấu trúc ngữ pháp như: “lặp
lại”, “thay thế” hay bị phê phán là máy móc, thiếu tính giao tiếp nhưng theo tôi
chúng ta không thể phủ nhận những giá trị thực tế do các kĩ thuật này đem lại
trong việc giúp học sinh nói chính xác và trôi chảy các cấu trúc ngữ pháp được
rèn luyện khi dạy bài nói.
Để giúp học sinh rèn luyện có hiệu quả, giáo viên không nên xem các kĩ thuật
rèn luyện lặp lại hay thay thế là phần chính của bài tập nói. Tôi cho rằng việc
cho học sinh thực tập lặp lại hay thay thế chỉ được xem như hoạt động ban đầu
nhằm cung cấp ngữ liệu đầu vào giúp học sinh có dữ kiện ngô ngữ chuẩn xác để
có thể tiếp đó tiến hành các hoạt động mang tính giao tiếp. Việc rèn luyện nói
phải được đặt vào tình huống có ý nghĩa thực sự và rất thú vị, có thể đáp ứng
một số yêu cầu của phương pháp giao tiếp.
Bài tập “Structured interview” là một ví dụ của sự điều chỉnh vừa nêu. Trong bài
tập này, học sinh phỏng vấn lẫn nhau, sử dụng các cấu trúc ngữ pháp đã học,
nhưng các em trả lời với những thông tin có thật mà đồng thời vẫn lặp lại và
thay thế các dữ kiện để củng cố cấu trúc ngữ pháp đã học.
Ví dụ: Với chủ đề bài học là “Food and drink”, ngữ liệu cần rèn luyện là
mẫu: “Do you want + N ?”, học sinh ngoài việc thực hành theo tranh trong sách
giáo khoa còn có thể phỏng vấn nhau về đồ ăn hay đồ uống mình muốn.
A: Do you want cake, B?
B: Yes, I do. What about you, C?
C: No, I don’t. I want milk. Do you want chicken, D?
D: Yes, I do.
Một vài trò chơi về ngôn ngữ cũng có thể góp phần tạo nên các bài tập có kiểm
soát. Trong khi hướng dẫn các em chơi các trò chơi ngôn ngữ giáo viên cũng
nên nói để làm mẫu cho học sinh lặp lại hoặc viết mẫu câu lên bảng. Tôi lấy một
vài ví dụ về trò chơi ngôn ngữ.
Ví dụ 1: trò chơi ghép tranh với lời nói.
Để rèn được mẫu câu tả người (Unit 14, Tiếng Anh 4), giáo viên chuẩn bị
tranh và học sinh viết những câu miêu tả người, sau đó lên bảng ghép với tranh
phù hợp. Một học sinh nói và một học sinh khác ghép. Trò chơi này có thể kết
hợp các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết.
Ở trình độ cao hơn, nội dung các bức tranh có thể cosnhieeuf điểm giống nhau
hơn để học sinh phải suy luận nhiều hơn khi ghép tranh và lời
Ví dụ 2: Guessing game
6
Khi rèn các mẫu câu về các hoạt động đang diễn ra (Unit 14, Tiếng Anh
4), học sinh sẽ đặt câu hỏi Yes/ No để đoán người trong tranh đang làm gì.
A: Is he fishing?
B: No.
A: Is he running?
B: No.
A: Is he coloring?
B: Yes. He is running.
Một vài trò chơi ngôn ngữ khác có thể dung để luyện nói như: Beanbag circle,
Find your partner, Walk and talk …….
b) Hành động lời nói.
Trong các hoạt động thể hiện hành động lời nói, học sinh có chuẩn bị
trước và chuyển thông tin đến người khác. Giáo viên và học sinh cả lớp sẽ có
hình thức phản hồi bằng cách hỏi – đáp hoặc đánh giá. Theo tôi việc đánh giá
của các bạn cùng lớp có tác dụng tốt vì:
+ Học sinh cùng lớp có thái đọ tham gia và đóng góp tích cực qua việc đặt
câu hỏi, nhận xét và đánh giá hoạt động nói đã thực hiện chứ không chỉ thụ động
ngồi nghe.
+ Việc đánh giá giúp học sinh tự tin hơn về khả năng đánh giá ngôn ngữ
do người khác sử dụng.
+ Bản thân việc đánh giá là một cơ hội giúp cho việc giao tiếp bằng lời
nói trong lớp trở nên chân thực hơn, cập nhật hơn và có tầm quan trọng đáng kể
đối với người đưa ra nhận xét.
Một trong những kĩ thuật giúp học sinh đánh giá việc nói trước lớp của
bạn là giáo viên có thể chỉ định trước học sinh chịu trách nhiệm về việc đánh
giá. Học sinh sẽ nêu nhận xét để thể hiện khả năng nghe, nói của họ, thậm chí cả
sự tập trung của họ. Những học sinh khác sẽ được đưa ra ý kiến của mính sau
đó.
c) Tham gia.
Các hoạt động này thể hiện sự tham gia của học sinh trong những khung
cảnh hoàn toàn tự nhiên. Học sinh được nói, hỏi, trả lời trong tình huống giao
tiếp có ý nghĩa. Giáo viên có thể sử dụng một số kĩ thuật đánh giá đã nêu ở trên
để vừa đánh giá được kết quả công việc của học sinh vừa tạo cơ hội cho HS rèn
nói.
d) Quan sát.
Trong các hoạt động này, học sinh quan sát hay ghi lại các câu nói hoặc
cử chỉ trong khi giữa hai hay nhiều người nói. Loại bài tập này rất có ích trong
việc xây dựng cho học sinh sự quan tâm thưởng thức ngôn ngữ. Ngoài ra do
không tham gia trực tiếp vào hoạt động hội thoại, học sinh sẽ có cơ hội tập trung
vào bài nói mà không lo sợ là mình sẽ nói sai.
7
7.1.3. Tổ chức, tiến hành tốt các giai đoạn thực hành nói.
Trong thực hành giảng dạy có thể chia việc dạy nói trong lớp thành các giai
đoạn như sau:
- Thiết lập tình huống có ý nghĩa.
- Giới thiệu ngữ liệu.
- Thực hành.
- Củng cố và nâng cao.
Giáo viên giới thiệu đề tài và tổ chức cho học sinh tham gia hoạt động,
gợi ý bằng tranh ảnh hoặc hình vẽ, có thể giới thiệu bằng tiếng Việt vì vốn kiến
thức của các em HS tiểu học chưa nhiều tuy nhiên cũng cần tận dụng những câu
nói đơn giản như các câu mệnh lệnh hoặc những câu hỏi theo bài học kết hợp
với động tác, điệu bộ. Nhìn chung, lúc đầu học sinh còn ngơ ngác nhưng dần
dần qua các tiết các em cũng đều hiểu và làm theo đúng mệnh lệnh của giáo
viên. Sau khi các em đã học được mẫu câu mới thì chúng ta nên sử dụng thường
xuyên trong lớp học để các em có điều kiện phản xạ tốt như những câu hỏi về
bản thân What’s your name ? , How are you ? ; những câu hỏi về đồ vật, sử dụng
các đồ vật thật có trong lớp học (bàn, ghế, thước, vở... ) như các mẫu câu :
What’s this ? , What are these ? ...
-Tập cho học sinh không nên hiểu ngầm Tiếng Việt rồi mới dịch sang
7.1.4. Giới thiệu ngữ liệu.
Trong quá trình giao tiếp bằng tiếng Anh muốn người khác hiểu nội dung
mình nói gì học sinh cần phải phát âm từ và câu một cách rõ ràng. Vì vậy khi
giới thiệu ngữ liệu, mẫu câu giáo viên cần phải đọc chuẩn về cả ngữ âm, ngữ
điệu có trọng âm để các em bắt chước vì đây là yếu tố cơ bản trong việc dạy
nghe-nói. Tất nhiên không thể chuẩn như người bản xứ nói Tiếng Anh nhưng để
có một kết quả phát âm chuẩn xác nhất thi chúng ta nên chịu khó nghe băng đĩa
của người bản địa. Giáo viên nên kiên trì luyện phát âm cho học sinh để tạo cho
các em có thói quen phát âm đúng và phải phát âm đúng. Bởi lẽ, các em mới
bước đầu học Tiếng Anh nhưng phát âm không đúng sẽ thành thói quen ảnh
hưởng không tốt trong quá trình học và giao tiếp sau này.
- Cần chú ý luyện tập cho hs phát âm có các âm cuối như : bag /bæg/,
book /buk/ ....
- Tập cho học sinh có thói quen đọc nối.
Ví dụ : stand-up /’stænd^p/ , look-at /lukæt/
8
It’s a pencil. /itsəpensl/
It is a desk. /itizədesk/
- Đối với hình thức số nhiều cần luyện tập cho học sinh cách phát âm
trong việc nhấn mạnh đuôi số nhiều :
+ Phát âm /s/ đứng sau phụ âm vô thanh /t/, /p/, /k/, /s/, /f/, /θ/
Ví dụ : cassettes, books, ....
+ Phát âm là /z/ khi đứng sau nguyên âm hoặc phụ âm hữu thanh /b/, /d/,
/g/, /v/, /ð/, /m/, /n/, /Ŋ/, /l/, /r/.
Ví dụ : crayons, tables, markers ...
+ Phát âm là /iz/ khi đứng sau những phụ âm rít cụ thể các phụ âm như :
/z/, /s/, /ʤ/, / tʃ /, / ʃ /, /ʓ/
Ví dụ : pencil cases, oranges, nurses...
7.1.5. Rèn cho học sinh sử dụng ngữ điệu :
Ngữ điệu (Intonation) được hiểu đơn giản là sự lên và xuống của giọng
nói. Người nghe có thể hiểu nhầm hoặc hiểu sai hoàn toàn ý của người nói nếu
như người nói sử dụng sai ngữ điệu, bởi ngữ điệu được so sánh như là hồn của
câu.
*Ngữ điệu xuống được thể hiện bằng cách hạ âm điệu giọng nói xuống
thấp ở trong các trường hợp sau:
- Dùng trong câu chào hỏi:
Good morning! ↓
- Dùng trong câu đề nghị:
Come here! ↓
- Dùng trong câu hỏi bắt đầu bằng từ để hỏi (who, whose, whom, which,
what, when, where, why, và how)
What are these? ↓
9
- Dùng trong yêu cầu hoặc mệnh lệnh: Open your book ↓
Ngữ điệu lên được thể hiện bằng cách tăng âm điệu giọng nói lên cao ở
trong các trường hợp sau:
- Dùng trong các câu hỏi nghi vấn “có…không”
Is this a book ?↑
- Dùng trong câu xác định nhưng hàm ý câu hỏi:
You are Mai? ↑
7.1.6. Các loại hình thức luyện tập được sử dụng cho việc phát triển kỹ năng
nói:
a) Yes/No question : Câu hỏi đoán thông tin
+ Giáo viên đưa ra tiêu đề để học sinh luyện tập.
+ Giáo viên cung cấp một số từ gợi ý, kiến thức nền, giáo viên làm mẫu
rồi cho học sinh nói tự do.
Hình thức này áp dụng khi dạy các tiết dạy “Free talk”
Luyện cách hỏi đoán về đồ vật.
b) Ask and answer : đặt câu hỏi và trả lời
+ Học sinh có thể tự thực hành theo cặp.
+ Nếu thực hành theo nhóm thì nhóm trưởng đặt một số câu hỏi, các
thành viên khác của nhóm có nhiệm vụ trả lời.
+ Giáo viên có thể tổ chức như một cuộc thi : Các câu trả lời được tính
điểm dựa trên độ chính xác về ngôn ngữ, cũng như các thông tin.
Bài tập này được áp dụng khi dạy các tiết “Point and say”
Luyện cách và trả lời về đồ vật, hỏi về nghề nghiệp ………
7.1.7. Các bước luyện nói cho học sinh
Tùy theo mỗi bài học mà chúng ta áp dụng phương pháp dạy học khác
nhau. Về cơ bản trong quá trình luyện nói phải tuân thủ theo các qui trình sau :
a) Chuẩn bị nói (Pre-Speaking)
10
-Giáo viên giới thiệu ngữ liệu mới, ngữ pháp mới. Ở hoạt động này học
sinh nghe hoặc viết, giáo viên giới thiệu mẫu câu. Hoạt động nói của học sinh
chủ yếu là trả lời câu hỏi.
b) Luyện nói có kiểm soát (Controled Practice)
Hoạt động này học sinh được luyện nói nhiều hơn giáo viên. Phần này
học sinh luyện tập theo nhóm, cá nhân dưới sự điều khiển của giáo viên và học
sinh thấy tự tin hào hứng khi nói tạo cơ hội cho các em phát triển kỹ năng nói
c) Luyện nói tự do ( Free Practice/ Production)
Giáo viên yêu cầu học sinh luyện nói mẫu câu mới mà các em vừa được
học với những ngôn ngữ riêng của mình không cần sự hỗ trợ của giáo viên.
Những hoạt động của phần này thường là trò chơi, đóng vai. Phần này các em có
thể sử dụng thêm những ngữ pháp hoặc vốn từ vựng mà các em biết nhằm nâng
cao kỹ năng nói cho các em. Giáo viên hỗ trợ khi học sinh cần.
7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến
- Sáng kiến được áp dụng đối với tất cá các khối lớp ở trường Tiểu học
Vân Hội, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Sáng kiến đã khẳng định được tính ưu việt trong việc dạy nói. Học sinh
không còn e ngại, rụt rè trong giao tiếp bằng tiếng Anh nữa. Các em không còn
sợ bộ môn tiếng Anh, ngược lại càng trở nên thích thú, say mê khi tìm hiểu một
ngôn ngữ mới. Các em khá hơn có thể nói trôi chảy và nói một bài dài về giới
thiệu bản thân hay về một chủ đề nào đó, còn những em chưa trôi chảy thì các
em vẫn có thể nói những câu giao tiếp hằng ngày hoặc một bài giới thiệu bản
thân cơ bản, và đầy đủ thông tin cần thiết.
8. Những thông tin cần được bảo mật: Không có
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Để sáng kiến áp dụng được cần phải có các diều kiện sau:
- Người học (học sinh tiểu học),
- Điều kiện về tài liệu: Sách giáo khoa, sách tham khảo.
- Điều kiện về cơ sở vật chất trang thiết bị dạy- học: Phòng học bộ môn,
máy tính, loa, đài, thẻ từ, …
- Điều kiện về môi trường học tập…
11
Bên cạnh những điều kiện kể trên thì những yếu tố rất quan trọng góp
phần không nhỏ vào sự phát triển ngôn ngữ của học sinh đó là:
Các cấp quản lý giáo dục trường tiểu học cần quan tâm hơn nữa về việc tổ
chức các chương trình giao lưu, giải trí sử dụng ngôn ngữ, giao tiếp bằng tiếng
Anh. Luôn tạo điêu kiện để các em được thường xuyên giao tiếp bằng tiếng Anh
với các cụm, các trường khác trong huyện, tỉnh. Đây là nguồn cổ vũ, động viên
và khích lệ vô cùng quan trọng nâng cao khả năng giao tiếp trong tiếng Anh và
sự hiếu học của học sinh đối với bộ môn tiếng Anh trong trường tiểu học nói
chung và trường tiểu học Vân Hội nói riêng. Có như vậy mới thực hiện tốt mục
tiêu giáo dục tiếng Anh trong nhà trường tiểu học trong giai đoạn đổi mới giáo
dục.
Cần có sự kết hợp sâu rộng các đơn vị, các tổ chức, tầng lớp trong công
tác tổ chức hoạt động đối với bộ môn tiếng Anh.
10. Qua quá trình áp dụng tôi thấy đã thu được một số thành quả khi áp
dụng sáng kiến
Tôi lấy đối tượng là học sinh lớp 4 trường Tiểu học Vân Hội, huyện Tam
Dương để nghiên cứu và làm minh chứng. Ban đầu theo dõi tình hình học tập
của lớp tôi thấy phần lớn học sinh còn khó khăn trong việc phát âm và đa số các
em còn chưa có ý thức về việc học từ. Sau khi áp dụng sáng kiến này tôi nhận
thấy việc học của các em đã tăng đáng kể đặc biệt là các em đã mạnh dạn hơn để
mỗi giờ học Tiếng Anh là những trải nghiệm thú vị đối với mỗi học sinh. Phần
lớn các em đều thích học và đọc tiếng Anh điều này tôi nghĩ trong tương lai sẽ
đem lại hiệu quả, lợi ích cao trong việc dạy và học môn Tiếng anh như: Tạo ra
tiền đề căn bản để các em học lên cao hơn và hiện tại cũng như sau này các em
có thể tự tin giao tiếp tiếng anh với người nước ngoài hay áp dụng trong công
việc một cách thuần thục.
Trong những năm qua tôi đã tích cực áp dụng phương pháp dạy nói như
trên, tôi thấy kết quả học tập của học sinh có nhiều tiến bộ, lớp học sôi nổi, các
em thích thú giờ học ngoại ngữ hơn. Giờ nào, tiết nào tôi cũng động viên được
hầu hết các học sinh trong lớp tham gia hoạt động. Những lớp tôi dạy theo
phương pháp này đều có kết quả tương đối tốt. Bản thân tôi cũng nắm chắc được
điểm mạnh, điểm yếu của từng học sinh, rút ra được những vấn đề cân bổ sung
cho các bài sau, bổ sung trong giáo trình giáo án của mình.
Để đạt được những thành tích trên là được sự quan tâm của Chi bộ, Ban
giám hiệu nhà trường, có sự tập trung và đầu tư chiều sâu ở tất cả các kỹ năng
của bộ môn tiếng Anh
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả
12
Có thể thấy việc áp dụng áp đúng đắn và linh hoạt các phương pháp và
kỹ thuật dạy nói như trên cho học sinh tiểu không chỉ mang lại kết quả mỹ mãn
cho người dạy lẫn người học, mà nó còn tác động rất lớn đến môi trường học
tập. Tôi nhận thấy không khí lớp học trở nên sôi động hẳn lên. Các em học sinh
sôi nổi, hăng say hoạt động, làm việc tích cực hơn, đôi khi các em hồi hộp, bồn
chồn khi chờ đợi kiểm nghiệm thành quả, rồi vỡ òa ra trong sự vui sướng khi
thấy những kết quả mình đạt là khả năng nói tiếng Anh lưu loát, tự tin. Hòa
trong không khí đó, giáo viên chúng ta cũng sẽ cảm thấy yêu nghề hơn, tự thấy
mình phải có trách nhiệm hơn, nghiêm túc hơn, nhiệt tình hơn trước ánh mắt
khát khao kiến thức mới của học sinh.
Qua khảo sát chất lượng sau khi áp dụng đề tài này tôi nhận ra rằng học
sinh có chuyển biến rõ rệt. Nhìn chung học sinh rất yêu thích môn học hơn. Hiểu
bài và nắm bài tốt. Việc rèn luyện bốn kỹ năng ở mức độ khá tốt. Khả năng vận
dụng ngôn ngữ khá.
Năm học 2018-2019 tôi được phân công giảng dạy Tiếng Anh khối 4, tôi
đã tích cực áp dụng những phương pháp dạy và học từ mới cho các em học sinh
kết quả đạt được như sau:
Kết quả đạt được ở học kì I:
Môn
Lớp
Số HS
Trên 5,0
Dưới 5,0
Trên 9,0
Tiếng Anh
4D
39
22
1
16
Kết quả đạt được ở học kì II:
Môn
Lớp
Số HS
Trên 5,0
Dưới 5,0
Trên 9,0
Tiếng Anh
4D
39
22
1
16
TS học sinh
39
Chưa hoàn thành
Hoàn thành
1 (2,5 %)
38 (97,5%)
Đặc biệt môi trường giao tiếp bằng tiếng Anh đã trở nên quen thuộc, gần
gũi và thực sự làm cho các em có hứng thú với môn tiếng Anh. Khả năng nói
tiếng Anh của các em được cải thiện rõ rệt, các em đã mạnh dạn tham gia vào
các buổi giao lưu trò chuyện bằng tiếng Anh cũng như tham gia vào các cuộc thi
nói tiếng Anh.
13
10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
Sáng kiến đã được tập thể giáo viên tổ 4,5 và Hội đồng Khoa học trường
Tiểu học Vân Hội đánh giá có hiệu quả cao trong việc nâng cao chất lượng giảng
dạy môn tiếng Anh ở khối 4 cũng như các khối lớp khác trong trường.
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp
dụng sáng kiến lần đầu
Số Tên tổ chức/cá nhân Địa chỉ
TT
1
Nguyễn Thị Thu
Vân Hội, ngày
Phạm vi/Lĩnh vực
áp dụng sáng kiến
Trường
Vân Hội
tháng 3 năm 2019
TH Phương pháp dạy nói cho học
sinh lớp 4 Trường TH Vân Hội
Vân Hội, ngày 04 tháng 3 năm 2019
Thủ trưởng đơn vị
Tác giả sáng kiến
(Ký tên, đóng dấu)
(Ký, ghi rõ họ tên)
Phùng Đắc Vinh
Nguyễn Thị Thu
14
15