Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

báo cáo kết quả nghiên cứu,ứng dụng sáng kiến một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục học sinh trong công tác chủ nhiệm lớp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.49 KB, 13 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Trong Luật Giáo dục nêu rõ mục tiêu Giáo dục tiểu học như sau: “Giáo dục
tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển
đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản
để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở ”. Để đạt được mục tiêu đó thì những
thầy cô giáo làm công tác chủ nhiệm giữ một vai trò vô cùng quan trọng.
Giáo viên chủ nhiệm là người chủ chốt của nhà trường làm công tác giáo
dục đạo đức, lối sống cho học sinh lớp mình chủ nhiệm. Chính vì vậy ngoài việc
trực tiếp giảng dạy ở lớp chủ nhiệm, giáo viên chủ nhiệm trước hết còn là giáo
dục, là người tổ chức các hoạt động giáo dục, quan tâm tới từng học sinh, chăm
lo đến việc rèn luyện đạo đức, hành vi, những biến động tư tưởng, nhu cầu,
nguyện vọng của các em. Đồng thời, người giáo viên chủ nhiệm lớp bằng chính
nhân cách của mình, là tấm gương tác động tích cực đến việc hình thành các
phẩm chất đạo đức, nhân cách của học sinh. Mặt khác, họ còn là cầu nối giữa tập
thể...Vì vậy công việc của một giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học là rất vất vả
và khó khăn.
Ngoài ra, song song với việc “dạy chữ” cho các em, chúng ta cần hết sức
quan tâm đến việc: “dạy người”. Bác Hồ đã từng nói “Vì lợi ích mười năm
trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư
cho tương lai. Vì đây là sự nghiệp giáo dục của toàn Đảng, toàn dân mà trong đó
ngành Sư phạm giữ vai trò then chốt. “Tiên học lễ – hậu học văn” chân lí đó
được tồn tại từ bao đời nay và không bao giờ phai nhạt. Nên vấn đề tu dưỡng
đạo đức cho học sinh trong nhà trường là trách nhiệm của tất cả thầy cô, đặc biệt
là người làm công tác chủ nhiệm.
Trong thực tế vẫn nhiều giáo viên còn gặp khó khăn trong công tác chủ
nhiệm: Thiếu năng lực quản lí, chưa có biện pháp rõ ràng, thiếu kinh nghiệm và
đặc biệt là chưa tâm huyết với nghề. Nhiều giáo viên ngại làm chủ nhiệm vì
công việc này chiếm quá nhiều thời gian. Có không ít giáo viên quá nghiêm
khắc đưa ra yêu cầu cao khi nhận lớp, bắt học sinh phải làm thế này, không được


làm thế kia... Điều đó vô tình tạo nên áp lực đối với học sinh, chỉ khiến các em thấy
sợ mà không tâm phục.
Bản thân tôi đã và đang làm công tác chủ nhiệm lớp. Tôi đã rất vất vả với
công tác chủ nhiệm đầu năm trong việc xây dựng và duy trì mọi nề nếp.Vì vậy,
tôi khẳng định rằng công tác của giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học là cực kì
quan trọng, là nhân tố số một quyết định chất lượng giáo dục toàn diện cho học
sinh.
Thực tiễn là như vậy, cho nên giáo viên chủ nhiệm phải có phương pháp
chủ nhiệm như thế nào để có hiệu quả cao nhất. Công tác chủ nhiệm của một
giáo viên thành công đồng nghĩa với việc giúp các em hoàn thiện mình hơn, xây
dựng được tập thể lớp vững mạnh, đưa nhà trường ngày càng tiến lên. Vì vậy, để
góp phần cùng với nhà trường trong công tác giáo dục nâng cao chất lượng học
sinh qua công tác chủ nhiệm nhiều năm ở trường Tiểu học, tôi xin mạnh dạn
-1-


trình bày: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục học sinh trong
công tác chủ nhiệm lớp”.
2. Tên sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục học
sinh trong công tác chủ nhiệm lớp.
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Nguyễn Thị Nguyệt Nga
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Tiểu học Vân Hội – Tam Dương - Vĩnh
Phúc
- Số điện thoại: 0963047626
- Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Nguyệt Nga
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
- Học sinh lớp 4B trường Tiểu học Vân Hội - Tam Dương - Vĩnh Phúc
6. Ngày sáng kiến được áp dụng thử: Sáng kiến được áp dụng từ tháng

9/2017 đến tháng 5/2018.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1. Cơ sở lý luận:
Giáo viên chủ nhiệm lớp là người tổ chức, quản lý trực tiếp và sâu sát nhất
về mọi mặt đối với học sinh và thực hiện giáo dục đạo đức, lối sống, phát triển
nhân cách, tư vấn hướng nghiệp cho từng học sinh. Vì thế, công tác chủ nhiệm
lớp giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng và duy trì nền nếp, góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh. Làm tốt công tác chủ nhiệm tức là
người giáo viên đã hoàn thành tốt việc giảng dạy các bộ môn và tổ chức giáo
dục, rèn luyện đạo đức cho học sinh. Đồng thời, người giáo viên chủ nhiệm lớp
là “cầu nối” giữa nhà trường và gia đình học sinh, góp phần thực hiện tốt mối
quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, công tác
chủ nhiệm lớp ngày càng đòi hỏi sự dày công của người giáo viên bởi yêu cầu
ngày càng cao của xã hội đang phát triển, bởi tình hình cuộc sống vẫn đang tồn
tại những tác động xấu đến học sinh, bởi sự mưu sinh của gia đình nên không ít
phụ huynh đã giao phó việc giáo dục con cái cho nhà trường. Chính vì vậy,
người giáo viên phải có kiến thức sư phạm cao.
Bên cạnh đó học sinh lớp 4 nhận thức các em còn mau nhớ, nhanh quên nên
việc thực hiện kỉ cương nề nếp cũng hạn chế. Nhiều em còn em còn rụt rè, thiếu
tự tin khi đến lớp. Có những em không chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập khi đến
lớp. Các năng lực như tự phục vụ, tự quản, giao tiếp hợp tác hay tự giải quyết
vấn đề còn hạn chế. Vì vậy, các em rất cần được giáo dục và rèn luyện nhiều kĩ
năng để tự tin trong học tập, trong cuộc sống. Chính vì thế, là một giáo viên chủ
nhiệm công việc không đơn giản chút nào. Chúng ta không đơn thuần chỉ là dạy
học, truyền đạt kiến thức trong sách vở đến học sinh mà chúng ta phải giáo dục,
uốn nắn đạo đức, rèn cho các em từng hành vi đạo đức đơn giản nhất, để từ đó
giúp các em hình thành một nhân cách, phẩm chất tốt đẹp. Điều này quả là
không dễ, bởi lẽ một lớp học mỗi em có tính cách, tâm lí, đạo đức khác nhau. Có
em ngoan ngoãn, vâng lời, có em hiếu động, ngỗ nghịch, có em lại trầm tĩnh, ít
biểu lộ cảm xúc,...Và mỗi em lại sống trong một hoàn cảnh khác nhau, một điều

kiện khác nhau. Thật khó để đưa các em vào một khuôn khổ nhất định. Để làm
-2-


được điều này, đòi hỏi người giáo viên phải có những cách giáo dục khác nhau
phù hợp với từng đối tượng.
7.2. Thực trạng của vấn đề
7.2.1 Học sinh
Học sinh lớp 4 về mặt nhận thức các em mau nhớ, nhanh quên nên việc
thực hiện kỉ cương nề nếp cũng hạn chế. Nhiều em còn em còn rụt rè, thiếu tự
tin khi đến lớp. Có những em không chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập khi đến
lớp. Các năng lực như tự phục vụ, tự quản, giao tiếp, hợp tác hay tự giải quyết
vấn đề còn hạn chế. Bên cạnh về mặt tâm lí học sinh lớp 4 còn chưa ổn định, các
em thường hay quyết định theo cảm tính, mỗi em lại có đặc điểm tính cách khác
nhau nên càng khó khăn hơn trong công tác giảng dạy và chủ nhiệm.
Kết quả chất lượng giáo dục toàn diện của lớp năm học trước như sau:
Tổng số HS: 33 em.
- Về VSCĐ: Đạt 28 em = 84,8%
- Chất lượng giáo dục đại trà:
+ Về học tập: 33/33 em = 100% được đánh giá Hoàn thành chương trình
lớp học. Trong đó: 9/33 em = 27,2% được đánh giá Hoàn thành Tốt
+ Hình thành và phát triển năng lực:
Tự phục vụ, tự quản:10 /33 em = 30,3% được đánh giá “Tốt”,
Hợp tác: 9/33 em = 27,2% được đánh giá “Tốt”
Tự học GQVĐ: 5/33 em = 15,1,% được đánh giá “Tốt”
+ Hình thành và phát triển phẩm chất:
Chăm học, chăm làm: 5/33 em = 15,1% được đánh giá “Tốt”,
Tự tin, trách nhiệm: 8/33 em = 24,2% được đánh giá “Tốt”
Trung thực, kỷ luật: 15/33 em = 45,5% được đánh giá “Tốt”,
Đoàn kết, yêu thương: 18/33 em = 54,5% được đánh giá “Tốt”,

7.2.1. Giáo viên
Nhìn chung đội ngũ giáo viên chủ nhiệm cấp tiểu học hiện nay đều có
chuyên môn vững vàng, nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, thực hiện công tác chủ
nhiệm tương đối tốt. Tuy nhiên một số giáo viên mới ra trường, kinh nghiệm xử
lí các tình huống sư phạm còn chưa tốt, thiếu linh hoạt. Kĩ năng xây dựng kế
hoạch công tác chủ nhiệm theo năm, tháng, tuần còn hạn chế, các giải pháp thực
hiện chưa cụ thể. Một vài giáo viên dù đã dạy lâu năm nhưng vẫn chưa làm tốt
công tác chủ nhiệm lớp, thường hay than phiền về học sinh, về phụ huynh mà
chưa tìm được biện pháp giáo dục học sinh nên nề nếp lớp học và chất lượng
học tập của học sinh chưa cao, làm ảnh hưởng đến chất lượng chung của toàn
trường.
Mỗi giáo viên muốn làm tốt công tác chủ nhiệm thì phải vừa là một giáo
viên giỏi về chuyên môn, vừa phải là một nhà tâm lí giỏi để hiểu học sinh, để xử
lí các tình huống rắc rối sao cho khéo léo, tế nhị và đạt hiệu quả giáo dục cao.
Nếu giáo viên không tâm huyết với nghề, không có tinh thần trách nhiệm cao thì
khó mà hoàn thành nhiệm vụ. Chất lượng học tập của học sinh, nhân cách, đạo
đức, lối sống…của học sinh rồi sẽ ra sao? Chính vì hiểu rõ điều đó nên song
song với việc giảng dạy tốt các môn học theo qui định, tôi luôn cố gắng phấn
đấu làm tốt vai trò, nhiệm vụ của một giáo viên chủ nhiệm lớp.
-3-


Để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục học sinh thông qua công tác chủ
nhiệm thì công việc của giáo viên chủ nhiệm lớp là vô vàn. Tuy nhiên trong sáng
kiến này, tôi chỉ đi sâu vào một số biện pháp cần thiết để thực hiện công tác chủ
nhiệm đạt hiệu quả đó là:
- Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm.
- Xây dựng nề nếp lớp học.
- Xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực.
- Tham gia phong trào và tổ chức các hoạt động ngoại khóa.

- Phối hợp chặt chẽ với gia đình, nhà trường và xã hội.
7.3. Các giải pháp thực hiện:
7.3.1. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm
a) Nắm thông tin về học sinh
Mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình,
muốn đề ra các biện pháp giáo dục học sinh phù hợp, đạt hiệu quả thì trước hết
giáo viên phải hiểu học sinh, phải nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết về
từng học sinh. Do vậy, ngay từ ngày đầu nhận lớp, tôi thực hiện ngay công tác
điều tra thông qua Phiếu điều tra thông tin cá nhân học sinh:
ĐIỀU TRA THÔNG TIN CÁ NHÂN HỌC SINH
1. Họ và tên:…………………………Nam ( Nữ)……..Dân tộc:……
2. Sinh ngày….tháng….năm….Nơi sinh…………………………….
3. Quê quán :.......................................................................................
4. Hộ khẩu thường trú:.........................................................................
5. Tình trạng sức khỏe:........................................................................
6. Có năng khiếu:.................................................................................
7. Họ tên cha:.......................................................................................
8. Nghề nghiệp:....................................................................................
9. Họ và tên mẹ:...................................................................................
10. Nghề nghiệp:...................................................................................
10. Số điện thoại liên hệ:.......................................................................
11. Gia đình có mấy con:......................................................................
Là con thứ mấy:..................................................................................
Qua phiếu điều tra này, tôi nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết về từng
học sinh để ghi vào Sổ theo dõi chất lượng giáo dục học sinh. Và quan trọng hơn
cả là tôi đã hiểu một phần về học sinh của mình, điều đó rất có lợi trong công tác
giảng dạy và giáo dục học sinh.
b) Lập kế hoạch chủ nhiệm
Ngay từ đầu năm học, sau khi điều tra thông tin về học sinh, giáo viên chủ
nhiệm cần lập kế hoạch chủ nhiệm lớp. Nêu ra được những thuận lợi và khó

khăn của lớp. Từ đó đưa ra những chỉ tiêu phấn đấu năm học về chỉ tiêu phổ cập
và duy trì sĩ số, danh hiệu thi đua lớp, chỉ tiêu về học tập, năng lực phẩm chất,
-4-


khen thưởng năm học và các chỉ tiêu về công tác giáo dục toàn diện khác như :
Công tác lao động, nhân đạo từ thiện, hoạt động văn – thể - mĩ. Đưa ra các nội
dung và các biện pháp thực hiện một cách cụ thể. Song song với đó là lên kế
hoạch chủ nhiệm theo từng tháng với từng phần việc chi tiết. Công khai trước
học sinh về kế hoạch này.
c) Tổ chức bầu Hội đồng tự quản.
Hội đồng tự quản là một biện pháp giúp học sinh được phát huy quyền làm
chủ trong quá trình học tập, giáo dục. Học sinh có điều kiện hiểu rõ quyền và
trách nhiệm trong môi trường giáo dục, được rèn các kĩ năng lãnh đạo, kĩ năng
tham gia, hợp tác trong các hoạt động ở lớp, trường.
Bước đầu tiên khi nhận lớp chủ nhiệm, bên cạnh việc nắm sĩ số, lý lịch, kết
quả học tập năm trước của các em, công tác bầu Hội đồng tự quản đóng một vai
trò rất quan trọng. Một vấn đề tôi hết sức quan tâm là xây dựng uy tín cho cán
bộ lớp.
7.3.2)Xây dựng nề nếp lớp học
a) Xây dựng nội quy, ổn định nề nếp
Đây là công tác rất quan trọng và khó khăn. Trong việc này giáo viên chủ
nhiệm không chỉ có nhiệm vụ ổn định lớp trong tiết học của mình mà còn có
nhiệm vụ nhắc nhở các em học sinh trật tự trong tất cả các giờ học và thực hiện
tốt nội quy nhà trường.
Qua tìm hiểu sơ lược, tôi tiến hành sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh hay làm
việc riêng trong giờ học, sau đó chia lớp thành 3 tổ. Lập sơ đồ chỗ ngồi thành 2
bản: 1 bản dán tại lớp học, 1 bản lưu để tiện theo dõi học sinh, thường xuyên cứ
mỗi tháng 1 lần đổi chỗ ngồi cho học sinh vào ngày cuối tháng.
Trong việc ổn định nề nếp, điều quan trọng là việc sắp xếp chỗ ngồi của các

em. Chỗ ngồi có tác động tâm lý rất lớn đến các em. Khi xếp chỗ ngồi cho học
sinh tôi thường tránh:
+ Không để các em học sinh yếu, hay nói chuyện ngồi bên nhau. Những em
này cũng không nên cho ngồi bên cửa lớn hoặc cửa sổ.
+ Xếp các em học chưa tốt, hay nói chuyện ngồi cùng với các bạn học tốt,
đạo đức tốt để có thể giúp đỡ nhau trong học tập.
Trong học tập không những chú trọng rèn luyện cho học sinh bằng nhiều
hình thức khác nhau mà còn chú trọng khâu nề nếp ngay từ đầu năm như truy
bài đầu giờ, trật tự nghe giảng trong giờ học, trong lớp tổ tự quản kiểm tra bài
tập về nhà của các bạn trong tổ,vì nề nếp tốt là cực kì quan trọng, nó góp một
phần lớn quyết định kết quả học tập của học sinh. Chính vì thế ngay từ đầu năm
học tôi quán triệt nề nếp bằng cách: Cho cả lớp học nội quy lớp học, nội quy của
nhà trường đề ra.
Đầu năm tôi và học sinh cùng thống nhất những nội quy sau:
NỘI QUY HỌC SINH
A. Kỉ luật, nề nếp:
1. Đi học đúng giờ, múa hát tập thể nghiêm túc. Nghỉ học phải xin phép
GVCN.
2. Duy trì nếp chào hỏi, lễ phép với người lớn, giáo viên trong nhà trường.
-5-


3. Không mang tiền, đồ chơi, quà vặt trang sức đến trường.
4. Lớp học phải sạch sẽ trong suốt buổi học, bàn ghế phải ngay ngắn,
không có học sinh xả rác bừa bãi.
5. Không đùa nghịch, chạy nhảy đá bóng trong lớp, trên hành lang và trên
cầu thang.
6. Mặc đồng phục theo đúng quy định của nhà trường.
7. Không tự tiện sử dụng đồ của người khác.
8. Thường xuyên cắt móng tay.

9. Giờ ngủ xếp dép gọn gàng trước cửa lớp.
10. Giờ ăn: ngồi ăn đúng quy định, ăn hết suất, không nói chuyện khi ăn.
B. Học tập:
1. Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng, sách vở trước khi đến lớp.
2. Có ý thức tự giác, chăm chỉ, trung thực trong học tập
3. Giữ trật tự trong giờ học, sinh hoạt tập thể.
4. Làm bài đầy đủ theo đúng yêu cầu thầy cô giáo.
C. Lao động, vệ sinh:
1. Lao động vệ sinh tự giác vào các buổi chiều.
2. Giữ vệ sinh chung, vứt rác đúng nơi quy định.
3. Rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh
4. Xếp gọn ngăn bàn, nhặt rác trước khi ra về.
Hằng ngày, tôi nhắc nhở các em thực hiện đúng nội quy của lớp. Nhưng
bên cạnh đó tôi theo dõi quá trình thực hiện nội quy của các em như thế nào.
Nhờ vậy, các em mới tự giác thực hiện, số lượng học sinh vi phạm nội qui của
nhà trường, của lớp ngày càng giảm dần.
b) Vệ sinh trường lớp
Số học sinh của lớp, tôi chia thành 3 tổ, mỗi tổ có một tổ trưởng. Phó chủ
tịch hội đồng tự quản phụ trách lao động phân công theo dõi các tổ làm trực nhật
hàng ngày. Tổ trưởng chịu trách nhiệm phân công, điều khiển các bạn trong tổ
làm trực nhật. Nhưng một tuần đầu, tôi phải đi sớm để hướng dẫn các em làm vệ
sinh lớp như: quét lớp từ trong ra ngoài, từ trên cửa sổ, trên bục giảng xuống
dưới; cách cầm chổi và đưa chổi sao cho nhanh sạch nhưng không bụi; cách trải
khăn bàn, cách lau bảng, cách sắp xếp bàn ghế,... Cứ sau mỗi giờ ra chơi, tổ trực
nhật phải đổ rác. Sang tuần thứ hai, tôi mới giao cho Phó chủ tịch phụ trách lao
động kiểm tra công việc trực nhật hàng ngày. Tổ nào không làm tốt thì tổ đó làm
trực nhật thêm một ngày. Và trong mỗi tiết học, học sinh phải thể hiện tinh thần
“tự quản”, tự theo dõi lẫn nhau, nhắc nhở nhau giữ sạch lớp trong suốt buổi học.
7.3.3. Xây dựng “Lớp học thân thiện, học sinh tích cực”
a. Trang trí lớp học thân thiện.

Việc trang trí lớp học một cách sáng tạo, phù hợp với đặc điểm tâm lý học
sinh sẽ giúp cho các em biết yêu và tạo ra cái đẹp, giúp các em có ý thức gìn giữ
trường lớp của mình. Ngoài những quy định về trang trí lớp học của ngành, giáo
viên chủ nhiệm có thể sáng tạo thêm một số các biểu bảng để trưng bày các sản
phẩm của học sinh như các bài văn, bài thơ hay, bài viết chữ đẹp, những tranh vẽ
của các em hay các sản phẩm học tập khác.
-6-


Trồng cây xanh trong các chậu cảnh. Tôi huy động các em sưu tầm cây ở
nhà rồi mang đến lớp trồng vào chậu cảnh như cây hoa loa kèn, hoa mười
giờ, ... Sau khi trồng xong các cây được đặt lên các ô cửa, mỗi ô một chậu có
gắn thanh lốc giữ để chậu không bị đổ. Trong lớp cũng được đặt chậu cây ở phía
trên lớp học và phía cuối lớp học tạo góc thiên nhiên ngay trong lớp học gần gũi
với các em.
Trong lớp có thể chụp một bức ảnh tập thể lớp cỡ lớn treo ở trung tâm lớp
để hằng ngày các em được nhìn thấy hình ảnh của mình cùng các bạn trong lớp,
các em có cảm giác mình được sống trong một tập thể tràn đầy tình yêu thương.
Qua đó giáo dục các em tinh thần trách nhiệm đối với tập thể lớp cũng như giáo
dục các em tinh thần đoàn kết trong hoạt động tập thể.
Trang trí lớp học là một nhiệm vụ quan trong của mỗi người giáo viên làm
công tác chủ nhiệm lớp. Trang trí thế nào cho đẹp, hài hòa tôi luôn tham khảo ý
kiế động nghiệp cũng như tìm một số cách trang trí lớp học trên mạng Internet
tham khảo để vân dụng vào trang trí lớp mình sao cho phù hợp vừa đẹp mà lại ít
tốn kém kinh phí
b. Thay đổi cách cư xử của giáo viên
Sử dụng lời nói, ánh mắt và cử chỉ thân thiện: Lời nói là phương tiện giao
tiếp quan trọng nhất của người thầy. Bởi vậy, người giáo viên cần phải sử dụng
lời nói sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Khi giao tiếp với học sinh, giáo viên cần
sử dụng ngôn ngữ sao cho các em dễ hiểu nhất, giàu hình ảnh và đạt giá trị biểu

cảm cao. Ngoài giá trị nội dung của ngôn ngữ, giáo viên còn phải diễn đạt nó
bằng âm điệu phù hợp. Chẳng hạn: Khi giáo viên bước vào lớp, học sinh sẽ
đứng dậy chào, câu nói để các em ngồi vào vị trí có thể là “Ngồi xuống!”, cũng
có thể là “Tất cả ngồi xuống” hoặc là “Cô mời các em ngồi xuống” nhưng cách
nói đầy đủ là “ Cô chào các em, mời các em ngồi xuống!”. Câu nói ấy cùng với
làn môi nở nụ cười hiền hậu và ánh mắt thân thiện lướt qua toàn lớp học sẽ tạo
ra những xúc cảm tâm lý, giúp các em thoải mái và tự tin để bắt đầu tiết học.
Thay đổi cách cư xử của giáo viên.
Hãy khen ngợi, đừng chê bai: Khen ngợi là việc làm không thể thiếu trong
giáo dục, đặc biệt là giáo dục tiểu học. Khi học sinh làm được việc tốt thì phải
khen ngợi ngay để khích lệ, động viên. Một lời khen có hiệu quả giáo dục gấp
nhiều lần so với những lời chỉ trích, chê bai. Đặc biệt với học sinh cá biệt thì lời
động viên, khen ngợi như là liều thuốc tinh thần giúp các em thay đổi hành vi
theo hướng tích cực. Khen ngợi kịp thời không những làm thay đổi hành vi của
học sinh theo hướng tích cực mà còn là động cơ thúc đẩy quá trình học tập của
các em. Trong học tập, sự cần cù có phần bù đắp cho sự thiếu thông minh. Nếu
khen ngợi, động viên kịp thời sẽ giúp học sinh ham thích và dẫn tới chăm chỉ
trong học tập. Nếu phải cân nhắc giữa hai điểm số khi cho điểm học sinh thì bạn
hãy chọn điểm cao hơn. Hãy chắp cho đứa trẻ đôi cánh, hãy tin ở các em, cho
các em hy vọng.

-7-


Tạo tiếng cười trong mỗi tiết học: “Tiếng cười là liều thuốc bổ”. Tiếng
cười trong dạy học – giáo dục sẽ làm tan đi không khí căng thẳng của tiết học.
Không những thế, tiếng cười còn tạo ra sự hưng phấn để kích thích suy nghĩ.
Những người thông minh thường có tính hài hước, chính sự hài hước lại tác
động vào não để kích thích tư duy. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy, tôi luôn
vận dụng tính hài hước để thu hút sự chú ý của học sinh, làm tăng tính hấp dẫn

của vấn đề cần truyền đạt, giúp quá trình hình thành kiến thức diễn ra tự nhiên
và nhẹ nhàng, đem lại kết quả cao. Bên cạnh đó, không khí lớp học trở nên thân
thiện hơn, có hứng thú để bắt đầu cho những tiết học khác.
Quan tâm và chia sẻ: Giáo viên cần giáo dục các em có thói quen biết quan
tâm, chia sẻ, động viên, thăm hỏi lẫn nhau trong học tập cũng như trong cuộc
sống. Giáo viên chủ nhiệm cũng cần phải nắm được ngày sinh của các em trong
lớp và thông báo trên bảng tin của lớp để lớp tổ chức sinh nhật cho bạn của
mình. Quà sinh nhật có thể là những lời chúc mừng hay những lời ca tiếng hát
của các bạn trong lớp. Bên cạnh đó giáo viên chủ nhiệm có thể chuẩn bị một
món quà nhỏ có thể là quyển vở, hộp màu,…để tặng các em trong ngày sinh
nhật. Điều này giúp các em thấy được sự quan tâm của cô giáo và các bạn trong
lớp. Từ đó, giúp các em tự tin hơn trong học tập, rèn luyện cũng như việc tham
gia các hoạt động tập thể.
c. Tăng cường sự tham gia của học sinh.
Chia sẻ Hộp thư vui: Mỗi học sinh và giáo viên làm một hộp thư. Hàng
ngày, mỗi học sinh và giáo viên ghi những lời khen ngợi, động viên, những lời
nhắc nhở,…dành cho bạn, cho học sinh và bỏ vào hộp thư mỗi người. Cuối tuần,
vào tiết sinh hoạt tập thể, tất cả mở ra xem và đọc cho cả lớp cùng nghe.
Việc làm này giúp học sinh hướng tới những điều lạc quan tích cực trong
cuộc sống ngay cả khi gặp khó khăn, chán nản. Tạo điều kiện cho những học
sinh ngại giao tiếp trước đám đông cũng có thể bày tỏ ý kiến của mình qua hộp
thư vui. Giúp giáo viên biết được thái độ, tình cảm của học sinh đối với mình.
Nếu sai, giáo viên đừng sợ xin lỗi học trò. Xin lỗi chỉ làm tăng uy tín của giáo
viên trong mắt các em mà thôi.
Xây dựng hòm thư “Điều em muốn nói”: Chúng ta biết rằng, không phải
lúc nào học sinh cũng có thể trực tiếp nói thẳng mong muốn, suy nghĩ của các
em với thầy cô giáo, với nhà trường. Vì vậy, thông qua hòm thư “Điều em muốn
nói” nhằm giúp các em học sinh tự do bày tỏ những khúc mắc, băn khoăn của
bản thân về cuộc sống quanh các em, về trường, lớp, bạn bè và thầy cô.
Làm tốt điều này sẽ giúp giáo viên rút ngắn khoảng cách giữa thầy và trò;

giáo viên được lắng nghe những chia sẻ, mong muốn của các em để từ đó kịp
thời có những điều chỉnh hợp lý, nhằm ngày càng nâng cao chất lượng giáo dục,
tạo môi trường thân thiện trong lớp học.
Tôi khuyến khích học sinh tự viết ra những điều em chưa đồng y về việc
làm, cách cư xử của chủ tịch và phó chủ tịch hội đồng tự quản hoặc của một bạn
-8-


nào đó trong lớp chứ không nói xấu, không xa lánh bạn. Căn cứ vào những điều
các em viết ra, nếu là những điều tốt thì tôi đọc cho cả lớp nghe rồi tuyên dương
ngay trước lớp. Còn những điều các em phê bình thì tôi phải điều tra nắm rõ
đúng hay sai. Sau đó mới góp ý riêng với những học sinh bị bạn phê bình, yêu
cầu các em phải xin lỗi bạn và phải sửa chữa.
“Học mà chơi - chơi mà học”: các em học sinh tiểu học rất thích tham gia
các trò chơi. Chính vì vậy việc tổ chức cho các em tham gia vào các trò chơi là
một việc làm hết sức cần thiết. Tham gia trò chơi giúp các em rèn luyện thể chất,
sự khéo léo, trở nên nhanh nhẹn hoạt bát, tạo sự hoà đồng, thân thiện, đoàn kết...
Những phút vui chơi thoải mái, lành mạnh sẽ giúp các em thêm hào hứng để học
tập và sống hồn nhiên hơn. Hơn nữa, việc vui chơi lành mạnh còn tạo ra nhiều
đức tính tốt đẹp, hạn chế những tật xấu, đồng thời rèn luyện thể chất và tâm hồn
các em theo chiều hướng tốt hơn.
Đôi bạn cùng tiến: trong lớp bao giờ cũng có nhiều đối tượng học sinh,
ngoài những học sinh khá - giỏi còn có những học sinh xếp loại trung bình và
yếu kém, để các em học sinh yếu kém không bị tự ty, mặc cảm và thụ động
trong học tập. Giáo viên nên xây dựng các mô hình học tập như “Đôi bạn điểm
10”, “Đôi bạn cùng tiến”, để cho các em khá - giỏi kèm cặp các em yếu kém.
Để tạo dựng cho các em một tình bạn bền đẹp với những kỉ niệm sâu sắc
của tuổi học trò, tôi tổ chức sinh nhật cho học sinh ngay tại lớp học trong giờ ra
chơi. Những em có tháng sinh cùng nhau thì tổ chức một lần vào ngày cuối
tháng. Hình thức tổ chức do các em trong ban cán sự quyết định. Nhưng chủ yếu

chỉ là múa hát, là những lời chúc mừng và một món quà nhỏ do cả lớp đóng góp.
7.4. Tham gia phong trào và tổ chức các hoạt động ngoại khóa, hoạt
động tập thể.
7.4.1. Tổ chức các hoạt động tập thể và các trò chơi vui tươi lành mạnh
Học sinh lứa tuổi tiểu học có đặc điểm tâm lí đó là thích chơi, thích được
tham gia các hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao, các hoạt động tập thể. Vì vậy,
khi tổ chức cho các em sinh hoạt tập thể và tham gia các trò chơi là giáo viên đã
giúp các em “học mà chơi, chơi mà học”. Qua các hoạt động này các em sẽ hình
thành và phát triển kiến thức và kĩ năng một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, không
gây căng thẳng, gò bó đối với các em. Ngoài ra, tổ chức sinh hoạt tập thể và vui
chơi còn giúp các em phát triển và hoàn thiện nhân cách, bồi dưỡng năng khiếu
và tài năng sáng tạo. Ngoài ra, việc tổ chức các hoạt động tập thể còn là sợi dây
gắn bó, kết nối, đoàn kết các em lại với nhau.
7.4.2. Tổ chức sinh hoạt tập thể và vui chơi trong buổi học chính khóa
Trong các tiết Khoa học, Đạo đức, tôi tổ chức cho các em chơi các trò chơi
như: làm phóng viên; sắm vai xử lí các tình huống phòng tránh bị xâm hại, từ
chối các chất gây nghiện, bày tỏ thái độ đối với người bị nhiễm HIV/AIDS,...và
đóng vai xử lí các tình huống trong môn Đạo đức. Thông qua các hoạt động này,
các em còn được hình thành và rèn luyện nhiều kĩ năng sống cần thiết.
Căn cứ vào phiếu điều tra đầu năm, tôi nắm được khả năng của từng em
nên tôi phân công vai diễn, múa hát hoặc giao việc phù hợp với từng em, khuyến
khích động viên các em tự tin bộc lộ năng khiếu của mình. Nhờ vậy, các tiết học
-9-


chính khóa trở nên sôi nổi, các em rất hào hứng tham gia. Thông qua các hoạt
động vui chơi, các em được “làm”, “được trải nghiệm” như trong cuộc sống
thực, điều đó sẽ giúp các em lĩnh hội kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống một
cách nhẹ nhàng, nhưng lại hiệu quả.
7.4.3. Tổ chức các họat động sinh hoạt tập thể và vui chơi thông qua

hoạt động ngoài giờ lên lớp
Ở lớp tôi, trong những buổi sinh hoạt ngoại khóa tôi thường tổ chức cho
học sinh tham gia các hoạt động như:
- Tổ chức cho học sinh ôn luyện kiến thức bằng các trò chơi như: Rung
chuông vàng, Hái hoa dân chủ,...Nội dung thi được tôi soạn bằng chương trình
PowerPoint nên gây được sự thích thú, hào hứng cho học sinh mỗi lần tham gia.
- Tổ chức các buổi họp lớp, làm đồ dùng học tập vẽ tranh chào mừng các
ngày lễ lớn.
- Hướng dẫn các em cắt gấp hoa để trang trí góc học tập và làm một số đồ
chơi đơn giản để trưng bày hoặc để tặng người thân bạn bè.
Nhờ thường xuyên tổ chức các hoạt động sinh hoạt tập thể và các trò chơi
cho cả lớp nên các em trở nên rất tự tin, rất năng động sáng tạo. Và điều quan
trọng là tôi đã thực sự xây dựng được một môi trường học tập thân thiện, học
sinh tích cực. Sĩ số của lớp tôi luôn đảm bảo, chất lượng học tập của học sinh
ngày càng nâng cao.
7.4.4. Các công tác khác
Bên cạnh các công tác tôi đã nêu, việc nhắc nhở các em học sinh tham gia
tốt các phong trào do Đoàn, Đội đề ra ví dụ như tâp bài múa, bài hát để thi giữa
các lớp vào ngày 20/ 11, các em rất tích cực tham gia .
Mỗi tuần giáo viên chủ nhiệm cần nhờ phó chủ tịch Hội đồng tự quản phụ
trách văn - thể thống kê và báo cáo em học sinh nào tham gia tốt phong trào của
nhà trường sẽ được khen ngợi, em học sinh nào không tham gia sẽ bị phê bình,
nhắc nhở em học sinh không có chiều hướng tiến bộ công tác này.
Qua mỗi đợt phát động phong trào do Đội đề ra như: Giúp đỡ bạn nghèo,
làm báo tường, văn nghệ, mua tăm ủng hộ người mù, kế hoạch nhỏ… Tôi tổng
kết đánh giá rất cụ thể và khen thưởng kịp thời cho những thành tích cao. Đồng
thời nhắc nhở ngay những sai lầm các em mắc phải và hướng sửa chữa. Qua mỗi
đợt như thế tôi thấy các em rất hứng thú và muốn được tham gia.
7.5. Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
- Tổ chức tuyên truyền, nâng cao nhận thức, xác định vai trò nhiệm

vụ nội dung của việc tổ chức phối hợp nhà trường gia đình và xã hội nhằm giáo
dục đạo đức cho học sinh.
- Tổ chức họp phụ huynh đầu năm.
- Thăm hỏi gia đình học sinh, nhất là những gia đình có hoàn cảnh khó khăn,
học sinh cá biệt. Trò chuyện với phụ huynh để tìm hiểu hoàn cảnh, năng khiếu,
sở trường của học sinh để có biện pháp dạy học phù hợp.
- Thống nhất với tới phụ huynh học sinh về mục tiêu, nội dung, phương pháp
để tạo nên một môi trương giáo dục thống nhất.
- Giáo viên chủ nhiệm cần thực hiện tốt việc chủ động trao đổi thông tin về
học sinh với phụ huynh.
- 10 -


- Kết hợp chặt chẽ với Ban đại diện cha mẹ học sinh trong việc trao đổi thông
tin, tổ chức các hoạt động ngoại khóa, hoạt động trải nghiệm cho học sinh.
- Huy động những đóng góp về mặt tinh thần cũng như vật chất của phụ
huynh học sinh, các tổ chức xã hội nhằm phát triển các phong trào, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục.
8. Những thông tin bảo mật: Không
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Giáo viên và học sinh lớp 4B trường Tiểu học Vân Hội.
- Cơ sở vật chất nhà trường.
- Một số tài liệu, số liệu và tổng hợp kinh nghiệm.
- Điều tra thực trạng.
- Thực hành thực tế.
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến:
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
- Kinh phí bỏ ra để thực hiện sáng kiến kinh nghiệm rất ít.

- Kết quả sẽ giúp học sinh hứng thú với việc đến trường.
- Sau khi thực hiện sáng kiến này, lớp tôi đã có nhiều tiến bộ như sau:
* Nề nếp: So với đầu năm các em đều thực hiện tốt các nề nếp như: xếp hàng
ra vào lớp, truy bài đầu giờ, đồng phục, giữ vệ sinh cá nhân, vệ sinh trường
lớp...
* Học tập: Tất cả học sinh đều có nề nếp: học bài, làm bài đầy đủ trước khi
đến lớp; trong lớp chú ý nghe giảng; hăng hái phát biểu xây dựng bài; biết hợp
tác trao đổi cùng bạn, giúp đỡ bạn yếu vươn lên trong học tập.
* Các hoạt động khác: Học sinh tham gia tốt các phong trào, các cuộc vận
động của Đội và nhà trường tổ chức như: hát múa trên sân trường, phong trào
xanh - sạch- đẹp, kế hoạch nhỏ, ủng hộ bạn bị bệnh hiểm nghèo, bạn có hoàn
cảnh khó khăn…
Tóm lại, sau gần một năm học thực hiện tôi nhận thấy lớp có nhiều chuyển
biến tích cực. Các em biết chia sẻ, học tập lẫn nhau, tinh thần tập thể, đoàn kết,
thân thiện được nâng cao. Một số học sinh nhút nhát, chậm tiến đã tiến bộ nhiều,
không còn học sinh mặc cảm tự ti. Học sinh coi tôi như người mẹ, người chị,
gần gũi và chia sẻ niềm vui nỗi buồn ở nhà, ở trường cũng như các vướng mắc
trong học tập.
Kết quả này được thể hiện cụ thể qua chất lượng giáo dục toàn diện học
sinh năm học 2017 - 2018 như sau:
Tổng số HS: 32 em (so với đầu năm giảm 01 HS vì em HS đó chuyển
trường, theo gia đình sinh sống ở phường Khai Quang - thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc).
- Về VSCĐ: Đạt 30 em = 93,7% tăng 02 em so với năm học trước.
- Chất lượng giáo dục đại trà:
+ Về học tập: 32/32 em = 100% được đánh giá Hoàn thành chương trình
lớp học. Trong đó:
- 11 -


15/32 em = 58,5% được đánh giá “Hoàn thành tốt”, tăng 6 học sinh so với

năm học trước.
+ Hình thành và phát triển năng lực:
Tự phục vụ, tự quản: 13/32 em = 40,6% được đánh giá “Tốt”, tăng 3 em so
với năm học trước.
Hợp tác: 13/32 em = 40,6% được đánh giá “Tốt” tăng 4 em so với năm học
trước.
Tự học tự giải quyết vấn đề: 9/32 em = 28,1% được đánh giá “Tốt”, tăng 4
em so với năm học trước.
+ Hình thành và phát triển phẩm chất:
Chăm học, chăm làm: 9/32 em = 28,1% được đánh giá “Tốt ”, tăng 4em so
với năm học trước.
Tự tin, trách nhiệm: 12/32 em = 37,5% được đánh giá “Tốt”, tăng 4 em so
với năm học trước.
Trung thực, kỷ luật: 20/32 em = 62,5% được đánh giá “Tốt” tăng 5 em so
với năm học trước.
Đoàn kết, yêu thương: 24/32 em = 75% được đánh giá “Tốt” tăng 6 em so
với năm học trước.
10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến:
- Nề nếp lớp tốt, học sinh có ý thức tự quản cao.
- Chất lượng kiểm tra theo đề nhà trường được đánh giá vượt trội so với các
lớp cùng khối.
- Học sinh năng động, linh hoạt, tự tin trong giao tiếp.
Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đề tài, bản thân tôi nhận thấy việc đưa
những sáng kiến của mình vào công tác chủ nhiệm đã góp phần đáng kể trong
việc tạo hứng thú học tập, tạo niềm vui, lòng say mê học tập. Từ đó rèn luyện
đức tính chăm chỉ, tự tin, năng động, sáng tạo, góp phần rèn luyện cho học sinh
đức tính, phẩm chất và phong cách làm việc khoa học.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi qua thực tế giảng dạy, chủ nhiệm
lớp. Mặc dù đó cố gắng rất nhiều nhưng sáng kiến của tôi chắc chắn không thể

tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được Hội đồng xét duyệt và các bạn đồng
nghiệp góp ý kiến bổ sung thêm.
11. Danh sách những tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến
ST
T
1

Tên tổ chức/cá nhân

Địa chỉ

Nguyễn Thị Nguyệt Nga

Trường tiểu học
Vân Hội – Tam
Dương -Vĩnh Phúc

- 12 -

Phạm vi/Lĩnh vực áp
dụng sáng kiến
Lớp 4B- Trường tiểu học Vân Hội –
Tam Dương -Vĩnh Phúc


Tam Dương, ngày 05 tháng 3 năm 2019
Thủ trưởng đơn vị

Phùng Đắc Vinh


Tam Dương, ngày 28 tháng 2 năm 2019
Tác giả sáng kiến

Nguyễn Thị Nguyệt Nga

- 13 -



×