Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

phương pháp nâng cao chất lượng giáo dục học sinh trong công tác chủ nhiệm lớp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.54 KB, 27 trang )

Trường em

1

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC HỌC SINH
TRONG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hệ thống tổ chức của các trường phổ thông, đơn vị cơ bản được
thành lập để tổ chức giảng dạy và giáo dục học sinh là lớp học. Để quản lí lớp
học, nhà trường cử ra một trong những giáo viên đang giảng dạy làm chủ
nhiệm lớp. Giáo viên chủ nhiệm được hiệu trưởng lựa chọn từ những giáo
viên có kinh nghiệm giáo dục, có uy tín với học sinh, được Hội đồng giáo dục
nhà trường nhất trí phân công chủ nhiệm lớp học để thực hiện mục tiêu giáo
dục. Như vậy khi nói đến Giáo viên chủ nhiệm là đề cập đến vị trí, vai trò,
chức năng của người làm công tác chủ nhiệm lớp, còn nói đến công tác chủ
nhiệm lớp là đề cập đến những nhiệm vụ, nội dung công việc mà người Giáo
viên chủ nhiệm phải làm, cần làm và nên làm để giáo dục học sinh của lớp.
Đối với giáo dục phổ thông, người giáo viên chủ nhiệm lớp có vai trò
quan trọng trong việc giáo dục học sinh. Ngoài việc trực tiếp giảng dạy ở lớp
chủ nhiệm, Giáo viên chủ nhiệm trước hết phải là nhà giáo dục, là người tổ
chức các hoạt động giáo dục, quan tâm tới từng học sinh, chăm lo đến việc
rèn luyện đạo đức, hành vi, những biến động về tư tưởng, nhu cầu, nguyện
vọng của các em. Giáo viên chủ nhiệm lớp bằng chính nhân cách của mình, là
tấm gương tác động tích cực đến việc hình thành các phẩm chất đạo đức, nhân
cách của học sinh. Mặt khác, Giáo viên chủ nhiệm còn là cầu nối giữa tập thể
học sinh với các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà trường, là người tổ chức
phối hợp các lực lượng giáo dục, Có thể nói vai trò xã hội của người giáo
viên chủ nhiệm trong việc giáo dục học sinh là hết sức quan trọng.
Xuất phát từ nhận thức và suy nghĩ ở trên, qua thực tiễn giảng dạy và


chủ nhiệm lớp tại trường THPT Nguyễn Dục, chúng tôi lựa chọn đề tài theo
Trường em

hướng: Đề ra một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục học sinh trong
công tác chủ nhiệm lớp, với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng và
hiệu quả của hoạt động chủ nhiệm lớp ở trường trung học phổ thông.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu việc nâng cao chất lượng giáo dục học sinh của giáo viên
chủ nhiệm lớp tại trường THPT Nguyễn Dục, tỉnh Quảng Nam.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Học sinh các lớp trường THPT Nguyễn Dục, tỉnh Quảng Nam năm học
2012-2013.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu quá trình chủ nhiệm lớp.
- Thực trạng giáo dục học sinh và một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo
dục học sinh trong công tác chủ nhiệm lớp.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác chủ nhiệm; về vai trò,
nhiệm vụ và quyền hạn của giáo viên chủ nhiệm.
- Đề ra một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng giáo dục học sinh
trong công tác chủ nhiệm lớp ở trong trường THPT.
- Rút ra các bài học kinh nghiệm giáo dục học sinh từ công tác chủ nhiệm lớp.
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu việc nâng cao chất lượng giáo dục học sinh trong
công tác chủ nhiệm ở trường THPT Nguyễn Dục, tỉnh Quảng Nam năm học
2012-2013.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng lý luận dạy học, công tác chủ nhiệm và thực tiễn
chủ nhiệm lớp để đưa ra một số giải pháp giáo dục học sinh trong quá trình

chủ nhiệm lớp, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động chủ
nhiệm lớp ở nhà trường phổ thông.
Trường em

7. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
7.1. Quan điểm nghiên cứu
7.1.1. Quan điểm khách quan: Đánh giá sự vật, hiện tượng luôn dựa trên các
tư liệu, số liệu, bằng chứng cụ thể. Quan điểm này được vận dụng trong nhóm
phương pháp nghiên cứu thực tiễn. Các giải pháp đưa ra phải phù hợp với
thực tiễn của nhà trường.
7.1.2. Quan điểm hệ thống-cấu trúc: Xem xét đối tượng một cách toàn diện,
nhiều mặt, nhiều mối quan hệ khác nhau trong chỉnh thể trọn vẹn, ổn định của
một hệ thống. Quan điểm này được vận dụng trong nhóm phương pháp
nghiên cứu lý luận và nhóm nghiên cứu thực tiễn.
7.1.3. Quan điểm lịch sử-lôgic: Chú ý đến hoàn cảnh cụ thể (không gian, thời
gian) của đối tượng nghiên cứu, giúp người nghiên cứu xác định phạm vi
không gian, thời gian và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể để điều tra, thu thập số
liệu chính xác, phù hợp với mục đích nghiên cứu.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp những tài liệu lý luận, các công trình
nghiên cứu về những nội dung có liên quan đến đề tài.
7.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các giáo viên chủ nhiệm nhiều
kinh nghiệm.
Tham khảo ý kiến, trao đổi với các giáo viên bộ môn, học sinh, đại diện
cha mẹ học sinh.







Trường em

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong trường trung học phổ
thông
Trước hết, ta cần xác định rõ vai trò của GVCN lớp. Nhưng thực tế
nhiều người đã coi nhẹ và lẫn lộn họ với các giáo viên bộ môn(GVBM) khác.
Ví dụ: hàng năm không làm nhiệm vụ bổ nhiệm chức vụ chủ nhiệm lớp,
không công bố quyết định đó trước toàn trường, trước hội phụ huynh của
trường, hiện nay gọi là ban đại diện hội CMHS mà chỉ ghi ở thời khóa biểu
như mọi GV bình thường khác có giờ dạy. Đáng lẽ phải làm đúng quy trình
bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm tuỳ theo thành tích hoặc sai phạm mà họ
mắc phải. Về mặt đánh giá xếp loại GV, nhiều cán bộ quản lý chỉ coi trọng
chuyên môn mà chưa coi trọng hiệu quả công tác quản lý lớp ở GVCN, lại có
biểu hiện lệch lạc khi lớp có khuyết điểm thì quy trách nhiệm cho họ, khi lớp
có thành tích thì lẫn lộn giữa thành tích đoàn thể với thành tích chính quyền,
cụ thể là công của các cán bộ ngành dọc chứ chưa hẳn là của tập thể lớp do
GVCN lãnh đạo. Tuy vậy cũng cần phải thấy trong thực tế có những GVCN
yếu, vai trò của mình mờ nhạt nên dấu ấn của công tác đoàn thể sâu đậm hơn,
vai trò của chính quyền bị lấn át, từ đó càng tạo ra sự nhìn nhận thiên lệch. Có
nhiều GVCN lớp đặc biệt là chủ nhiệm trẻ chưa biết mình có một quyền hạn
nên chưa ai dám làm là đi dự giờ các GVBM trong lớp khi mình thấy cần.
GVCN được xếp loại học sinh, được thi hành kỉ luật học sinh theo quy định,
được hưởng giờ công tác theo định mức quy định, có chăng loại sổ sách làm
việc pháp quy trong hệ thống sổ sách của nhà trường. Từ đó nếu có nhiều chủ
nhiệm lớp trong trường có năng lực và bản lĩnh thì công cuộc giáo dục sẽ đạt

được nhiều thành tựu đáng kể.
1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của giáo viên chủ nhiệm lớp
1.2.1. Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm trong trường trung học phổ
thông
Trường em

Giáo viên chủ nhiệm, ngoài các nhiệm vụ quy định của giáo viên:
a) Dạy học và giáo dục theo chương trình, kế hoạch giáo dục, kế hoạch
dạy học của nhà trường theo chế độ làm việc của giáo viên do Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo quy định; quản lý học sinh trong các hoạt động giáo dục
do nhà trường tổ chức; tham gia các hoạt động của tổ chuyên môn; chịu trách
nhiệm về chất lượng, hiệu quả giáo dục; tham gia nghiên cứu khoa học sư
phạm ứng dụng.
b) Tham gia công tác phổ cập giáo dục ở địa phương.
c) Rèn luyện đạo đức, học tập văn hoá, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ
để nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy và giáo dục; vận dụng các phương
pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo, rèn
luyện phương pháp tự học của học sinh.
d) Thực hiện Điều lệ nhà trường; thực hiện quyết định của Hiệu trưởng,
chịu sự kiểm tra, đánh giá của Hiệu trưởng và các cấp quản lý giáo dục.
đ) Giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo, gương mẫu trước học
sinh, thương yêu, tôn trọng học sinh, đối xử công bằng với học sinh, bảo vệ
các quyền và lợi ích chính đáng của học sinh, đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp,
tạo dựng môi trường học tập và làm việc dân chủ, thân thiện, hợp tác, an toàn
và lành mạnh.
e) Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, các giáo viên khác, gia đình học
sinh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong dạy học và giáo dục học
sinh.
g) Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
còn có những nhiệm vụ sau đây:

- Xây dựng kế hoạch các hoạt động giáo dục thể hiện rõ mục tiêu, nội
dung, phương pháp giáo dục bảo đảm tính khả thi, phù hợp với đặc điểm học
sinh, với hoàn cảnh và điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp
và của từng học sinh.
- Thực hiện các hoạt động giáo dục theo kế hoạch đã xây dựng.
Trường em

- Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các giáo viên bộ môn,
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội có liên quan
trong việc hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện, hướng nghiệp của học sinh
lớp mình chủ nhiệm và góp phần huy động các nguồn lực trong cộng đồng
phát triển nhà trường.
- Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kỳ và cuối năm học; đề
nghị khen thưởng và kỷ luật học sinh; đề nghị danh sách học sinh được lên
lớp thẳng, phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kỳ nghỉ
hè, phải ở lại lớp; hoàn chỉnh việc ghi sổ điểm và học bạ học sinh.
- Báo cáo thường kỳ hoặc đột xuất về tình hình của lớp với Hiệu trưởng.
1.2.2. Quyền của giáo viên chủ nhiệm
Giáo viên chủ nhiệm ngoài các quyền quy định của giáo viên:
a) Được nhà trường tạo điều kiện để thực hiện nhiệm vụ giảng dạy và
giáo dục học sinh.
b) Được hưởng mọi quyền lợi về vật chất, tinh thần và được chăm sóc,
bảo vệ sức khoẻ theo các chế độ, chính sách quy định đối với nhà giáo.
c) Được trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức tham gia quản lý nhà
trường.
d) Được hưởng lương và phụ cấp (nếu có) khi được cử đi học để nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định hiện hành.
đ) Được cử tham gia các lớp bồi dưỡng, hội nghị chuyên đề để nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
e) Được hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học tại các trường và

cơ sở giáo dục khác nếu thực hiện đầy đủ những nhiệm vụ quy định tại Điều
30 của Điều lệ này và được sự đồng ý của Hiệu trưởng.
g) Được bảo vệ nhân phẩm, danh dự, an toàn thân thể.
h) Được hưởng các quyền khác theo quy định của pháp luật.
còn có những quyền sau đây:
- Được dự các giờ học, hoạt động giáo dục khác của học sinh lớp mình.
Trường em

- Được dự các cuộc họp của Hội đồng khen thưởng và Hội đồng kỷ luật
khi giải quyết những vấn đề có liên quan đến học sinh của lớp mình.
- Được dự các lớp bồi dưỡng, hội nghị chuyên đề về công tác chủ nhiệm.
- Được quyền cho phép cá nhân học sinh nghỉ học không quá 3 ngày liên
tục.
- Được giảm giờ lên lớp hàng tuần theo quy định khi làm chủ nhiệm lớp.
1.3. Các yêu cầu đối với người giáo viên chủ nhiệm
Giáo viên chủ nhiệm là cán bộ quản lý lớp cho nên người dạy giỏi và
người chủ nhiệm giỏi không nhất thiết là một. Có đồng thuận, có lệch pha
trong thực tế là bình thường. Tố chất quan trọng của giáo viên chủ nhiệm là tố
chất của một con người hành động. Cũng như hiệu trưởng, chủ nhiệm lớp
phải nghiêm túc và cần một bộ óc kế hoạch hoá. Đối tượng quản lý trường
học, lớp học là con người phải giáo hoá do đó không thể có một chương trình
cài đặt sẵn. Phải lao vào làm. Thấy đúng thì tổng kết và áp dụng tiếp, thấy sai
phải điều chỉnh kế hoạch kịp thời hoặc huỷ bỏ theo quy trình: xây dựng kế
hoạch - thực hiện kế hoạch - kiểm tra kế hoạch - tổng kết và vạch kế hoạch
mới. Rất cần ở chủ nhiệm lớp các phẩm chất nhiệt tình, sâu sát, cần cù trí nhớ
tốt, quan sát tinh, tâm lí giỏi, có khả năng xây dựng đội ngũ cán bộ HS. Giáo
viên chủ nhiệm phải vừa là thầy vừa là bạn của học trò.
Trong lớp học, giáo viên chủ nhiệm là người để học sinh noi theo. Cách
hành động, suy nghĩ, cư xử của giáo viên chủ nhiệm sẽ ảnh hưởng rất nhiều
về quan niệm của học sinh và phụ huynh về người giáo viên chủ nhiệm.

Bên cạnh đó, giáo viên chủ nhiệm biết thông cảm và chia sẻ những khó khăn
của các em. Trả lời những câu hỏi của các em một cách thấu đáo (nếu chưa có
câu trả lời, hứa sẽ tìm câu trả lời chính xác). Cho các em biết là các em có thể
điện thoại cho thầy cô để nói chuyện hay hỏi bài vở (cách làm bài, giải thích
chữ khó, cách trả lời ). Hỏi các em về những khó khăn trong đời sống,
những khó khăn ở trường giúp các em giải quyết những khó khăn này.
Trong lớp học hay ngoài lớp học, thầy cô còn phải đóng vai người anh, người
Trường em

chị mà các em có thể tin tưởng, nhờ cậy được. Qua đó, các em sẽ biết sống
nhẫn nại, kiên trì và giàu lòng nhân ái.
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO
DỤC HỌC SINH TRONG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP
2.1. Thực trạng công tác chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông hiện nay
Trong những năm gần đây, sự phát triển kinh tế - xã hội đã mang lại
không ít những thuận lợi cho công tác chủ nhiệm trong nhà trường. Sự quan
tâm đầu tư của Đảng, nhà nước cùng với sự hỗ trợ tích cực từ phía xã hội. Cơ
sở vật chất, trang thiết bị giáo dục của nhà trường ngày một khang trang, đầy
đủ, đảm bảo cho việc dạy và học. Mô hình ít con, kinh tế ngày càng được cải
thiện đã tạo thuận lợi cho trẻ em được quan tâm và chăm sóc tốt hơn. Bên
cạnh đó, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, đặc biệt là công
nghệ thông tin đã hỗ trợ cho giáo viên và phụ huynh trong việc liên lạc, trao
đổi, nắm bắt nhanh những thông tin cần thiết trong phối hợp giáo dục; đồng
thời hỗ trợ tích cực cho hoạt động dạy của giáo viên trong những giờ lên lớp,
trong những hoạt động tập thể khiến học sinh thấy hứng thú hơn. Sự phối kết
hợp giữa các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường ngày càng trở nên
chặt chẽ.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi kể trên, công tác chủ nhiệm lớp còn
gặp không ít những khó khăn, thách thức. Trong thời đại khoa học công nghệ
và kinh tế thị trường hiện nay, ngoài những tiện ích to lớn mà nó mang đến

cho nhân loại thì kèm theo đó là hàng loạt các tác động tiêu cực đến đối tượng
học sinh: xu hướng đua đòi chưng diện theo trang phục, mái tóc của các ca sĩ,
diễn viên trong phim ảnh không lành mạnh và đặc biệt là game online. Chính
những vấn đề này ảnh hưởng không ít đến việc học tập, việc hình thành nhân
cách, đạo đức của học sinh và gây ra rất nhiều khó khăn cho giáo viên chủ
nhiệm trong công tác giáo dục đạo đức học sinh.
Nguyên nhân chủ yếu là do nhiều công nghệ kinh doanh chỉ chú ý đến
lợi nhuận. Hầu hết các điểm truy cập Internet đều trang bị những trò chơi bạo
Trường em

lực thu hút học sinh. Vì thế, hiện tượng trốn tiết, giấu tiền học phí để chơi
game là điều không tránh khỏi. Không những thế, hậu quả do những tác động
của những trò chơi nguy hiểm này dẫn đến các hành vi bạo lực khôn lường.
Mặt khác, nhiều gia đình do quá bận rộn với công việc nên thời gian
dành cho việc giáo dục con cái không nhiều, gần như phó mặc cho nhà trường
và xã hội, thậm chí cung cấp tiền bạc dư thừa không nghĩ đến hậu quả. Nhiều
phụ huynh chỉ gặp gỡ trao đổi với giáo viên chủ nhiệm trong vài buổi họp phụ
huynh trong một năm học, còn chủ yếu là trao đổi qua điện thoại trong những
trường hợp cần thiết. Trẻ thiếu thốn tình cảm, thiếu sự quan tâm của gia đình,
dễ bị kẻ xấu lôi cuốn sa ngã. Một số em do được chiều chuộng và chăm sóc
quá chu đáo nên nảy sinh tính ích kỉ, ương bướng, khó bảo.
Hơn nữa, công tác chủ nhiệm chủ yếu là kiêm nhiệm, thực tế hiện nay
chưa có một khoá đào tạo chính thức nào cho giáo viên chủ nhiệm. Chính vì
vậy, không nhiều giáo viên chủ nhiệm thực sự có năng lực, làm chủ nhiệm
chủ yếu bằng kinh nghiệm của bản thân, cộng với trao đổi học hỏi trong nhà
trường. Bên cạnh đó, số tiết dành cho giáo viên chủ nhiệm còn quá ít, chỉ 4
tiết trên tuần, chưa tương xứng công sức giáo viên đầu tư vào công tác chủ
nhiệm, dẫn đến nhiều giáo viên chưa hăng say với công tác chủ nhiệm. Nội
dung chương trình giảng dạy còn nặng về kiến thức thuần tuý, số tiết giành
cho giáo dục công dân, giáo dục đạo đức học sinh còn quá ít, trong khi xã hội

ngày càng phát triển. Hơn nữa ở lứa tuổi này, tâm sinh lí của các em đang
phát triển mạnh, các em ngày càng có nhiều nhu cầu hiểu biết, tìm tòi, bắt
chước, thích giao lưu, đua đòi, thích sự khẳng định mình , trong khi kiến
thức về xã hội, gia đình, sự hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, nên chiều
hướng học sinh hư, lười học, hiện tượng bỏ giờ, trốn tiết, vi phạm pháp luật,
vi phạm đạo đức ngày càng nhiều.
Đó là khó khăn về mặt khách quan gây cản trở cho những người làm
công tác chủ nhiệm lớp.
Trường em

Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận những thiếu sót về phía đội ngũ giáo
viên chủ nhiệm. Một bộ phận giáo viên chưa thật nhiệt tình, một phần do
công việc giảng dạy chiếm nhiều thời gian, hiệu quả công tác chủ nhiệm ít
nhiều bị ảnh hưởng. Một thiếu sót khác là nhiều giáo viên chủ nhiệm tiến
hành công việc khá cảm tính, chưa có phương pháp chủ nhiệm sáng tạo thích
hợp. Có người quá nghiêm khắc, có người quá dễ dãi. Người nghiêm khắc gò
ép học sinh theo khuôn khổ một cách máy móc. Và như thế, về mặt tâm lí, cả
giáo viên và học sinh đều như bị áp lực. Người dễ dãi thì lại buông lỏng công
tác quản lí, thiếu quan tâm sâu sát. Thực tế, nhiều khi giữa thầy cô chủ nhiệm
và học sinh không phải bao giờ cũng tìm được tiếng nói chung.
Để khắc phục những khó khăn trên trong công tác chủ nhiệm không phải
là điều dễ dàng và đơn giản. Tuy nhiên, chúng tôi xin được đưa ra một số giải
pháp để các đồng nghiệp cùng chia sẻ.
2.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục học sinh trong công
tác chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông
2.2.1. Giáo viên chủ nhiệm cần phải xây dựng kế hoạch chủ nhiệm lớp
ngay từ đầu năm học
Giáo viên chủ nhiệm có nội dung công tác phong phú, đa dạng, phức tạp,
toàn diện liên quan đến tất cả các mặt hoạt động của học sinh trong lớp. Vì
vậy muốn đạt kết quả cao cần phải có kế hoạch sát đúng, phù hợp.

Trên cơ sở nắm được mục tiêu, nhiệm vụ của nhà trường trong năm học, đặc
điểm tình hình lớp, địa phương, cơ sở vật chất của nhà trường, GVCN tiến
hành xây dựng kế hoạch giáo dục. Trong kế hoạch giáo dục phải xác định rõ
ràng mục đích, chỉ tiêu phấn đấu và các biện pháp chính. Đặc biệt chú trọng
chiến lược phối hợp giữa các lực lượng giáo dục để đạt mục đích đề ra, cần có
phương hướng phát triển lớp, sự thực hiện tuần tự hợp lí nhằm đi đến mục
đích. Kế hoạch phải phát huy được mặt mạnh, khắc phục được hạn chế của
lớp. Biện pháp thực hiện cần thể hiện tính phong phú, đa dạng. Tuy nhiên các
biện pháp đề ra trong kế hoạch chỉ là “phần cứng”. Trong quá trình thực hiện
Trường em

cần phải vận dụng, điều chỉnh một cách linh hoạt các biện pháp giáo dục sao
cho phù hợp với tình hình thực tế để công việc đạt hiệu quả cao.
2.2.2. Tìm hiểu và nắm vững đối tượng giáo dục
Nhà giáo dục Nga K.D Usinski từng nói: “Muốn giáo dục con người về
mọi mặt thì phải hiểu con người về mọi mặt”. Để làm tốt công tác chủ nhiệm
lớp, giáo viên chủ nhiệm phải nắm vững tâm sinh lí, nhu cầu, nguyện vọng,
ước mong, khả năng trình độ của học sinh, nắm vững hoàn cảnh sống, những
tác động của gia đình, mối quan hệ xã hội, bạn bè của học sinh. Tôi đã cố
gắng tìm hiểu học sinh thông qua nhiều biện pháp. Cụ thể như sau:
- Tìm hiểu học sinh qua các tài liệu liên quan: Xem học bạ, sơ yếu lí lịch,
bản tự nhận xét của học sinh, nhận xét của GVCN cấp THCS hoặc của GVCN
cũ. Đây là tài liệu đáng tin cậy ban đầu giúp tôi nhận biết và phân loại học
sinh.
- Tìm hiểu học sinh thông qua quan sát trực tiếp: Quan sát trực tiếp học
sinh hằng ngày trong các hoạt động trên lớp, ngoài lớp để biết hành vi thái độ
học sinh. Đây là tài liệu sống, qua đó tôi cố gắng tìm ra những nét cá tính nhất
của từng em. Tôi quan sát lớp chủ nhiệm cả trong giờ ra chơi xem em nào
nghịch thái quá, em nào từ tốn, hiền lành, có khi trên đường vào dạy lớp khác
tôi cũng ngang qua lớp chủ nhiệm. Nếu thấy những sai phạm của học sinh thì

phải nhắc nhở ngay.
- Có thể tiến hành những thử nghiệm tìm hiểu học sinh. Đây là cách làm
giúp cho người giáo viên chủ nhiệm có thể thu được thông tin về một hay
nhiều vấn đề cần làm sáng tỏ. Những thử nghiệm này là những bài tập tình
huống đã được xây dựng về một vấn đề nào đó để học sinh có dịp bộc lộ
mình. Chẳng hạn có thể đưa ra tình huống: Cô đang rất cần một số em chiều
nay tham gia trang trí lại lớp học cho đẹp mắt hơn; hoặc cho học sinh trả lời
nhanh vào phiếu in sẵn một số câu hỏi về vấn đề định tìm hiểu (ví dụ: tìm
hiểu về thái độ của học sinh đối với cha mẹ và anh chị em trong gia đình bằng
những câu hỏi đơn giản), Những thử nghiệm nhỏ này có thể áp dụng linh
Trường em

hoạt sao cho phù hợp với học sinh ở từng vùng dân cư. Kết quả thử nghiệm sẽ
giúp giáo viên chủ nhiệm lớp có thể nắm bắt được thêm những thông tin mới,
bổ sung cho những nhận định của mình về học sinh.
2.2.3. Giáo dục học sinh tính tự giác, thực hiện nội quy của trường, lớp
Công việc này ban đầu khá vất vả, GVCN có thể phải thường xuyên đến
lớp vào đầu buổi học, giữa các tiết và cuối buổi học.
Để rèn cho học sinh tính tổ chức kỷ luật, phải giúp các em nhận thức
đúng vấn đề, trên cơ sở đó các em sẽ thực hiện một cách tự giác.
Cụ thể: Giờ tập trung đầu tuần của khối lớp học ca chiều là vào tiết 5 -
tiết cuối cùng trong ngày. Học sinh ra tập trung giao ban thường mang theo
cặp để sau buổi giao ban có thể ra về được ngay. Việc này tuy có tiện nhưng
ảnh hưởng đến tác phong của các em. Ngoài ra những công việc nhà trường
triển khai trong giờ giao ban, do tác động của ngoại cảnh, học sinh ngồi nghe
chắc chắn không lĩnh hội được hết mọi vấn đề. Do đó tôi đã quy định học sinh
phải để cặp tại lớp, sau giờ giao ban học sinh mới quay lại lớp lấy cặp và nghe
cô giáo quán triệt lại những công việc nhà trường vừa triển khai. Trong thực
tế các lớp do tôi chủ nhiệm thực hiện rất tự giác nội quy này.
Có những việc tưởng chừng như rất nhỏ nhưng hiệu quả lại lớn. Chẳng

hạn: quy định học sinh thống nhất viết bút mực thay cho bút bi (cùng một loại
mực), thống nhất sử dụng một loại giấy kiểm tra (học sinh nộp tiền và lớp đặt
mua) cũng tạo cho các em tác phong học tập tốt.
2.2.4. Phát huy khả năng tự quản của học sinh
Việc này phải dựa vào ban cán sự lớp và Ban chấp hành chi đoàn. Điều
quan trọng là phải chọn được những học sinh nhiệt tình và có năng lực công
tác. Song dù có năng lực tốt thế nào thì các em vẫn đang ở lứa tuổi học trò, do
đó GVCN phải giáo dục cho học sinh ý thức được đầy đủ vai trò, nhiệm vụ
của người cán bộ lớp để các em thực sự có trách nhiệm, và nâng cao tinh thần
trách nhiệm đối với công tác được giao.
Trường em

Khi xây dựng đội ngũ tự quản cần xuất phát từ đặc điểm, nhiệm vụ từng
năm học và tính chất phát triển của tập thể học sinh. Nhiều GVCN chỉ căn cứ
vào một số tiêu chuẩn cán bộ lớp như học giỏi, đạo đức tốt, rất ít GVCN dựa
vào đặc điểm của quá trình phát triển của tập thể để xây dựng cấu trúc đội ngũ
tự quản. Nên căn cứ vào 3 giai đoạn phát triển của tập thể lớp mà lựa chọn đội
ngũ tự quản. Ví dụ: ở giai đoạn đầu (tập thể mới hình thành) rất cần có một
lớp trưởng, bí thư chi đoàn (thủ lĩnh) biết hi sinh, có uy tín, biết quan tâm đến
người khác, gương mẫu, biết cảm hoá các bạn , không nhất thiết phải là học
sinh học giỏi nhất lớp. Nhưng sang giai đoạn 2 và 3 (khi tập thể đã phát triển)
rất cần có “thủ lĩnh” năng động, sáng tạo, luôn tìm tòi nội dung, phương pháp,
hình thức tổ chức hoạt động mọi mặt để cuốn hút các bạn. Giáo viên chủ
nhiệm nên lấy hoạt động chiều sâu của nội dung học tập, hoạt động ngoại
khoá, văn hoá xã hội làm phương tiện giáo dục tập thể, rèn luyện năng lực tự
quản, thái độ, tình cảm và hành vi của học sinh. Để phát huy vai trò cố vấn,
GVCN cần có năng lực dự báo chính xác khả năng của học sinh trong lớp,
biết khêu gợi tiềm năng sáng tạo của các em trong việc đề xuất các nội dung
hoạt động, xây dựng kế hoạch hoạt động toàn diện phù hợp với nhiệm vụ và
điều kiện của mỗi tháng, mỗi học kì của từng năm học. Giáo viên chủ nhiệm

chỉ là người giúp học sinh tự tổ chức các hoạt động đã được kế hoạch hoá.
Điều đó không có nghĩa là GVCN khoán trắng, đứng ngoài hoạt động của tập
thể lớp học mà nên cùng hoạt động, điều chỉnh hoạt động, kịp thời giúp các
em tháo gỡ những khó khăn trong quá trình hoạt động.
Ngoài ra cần tạo hứng thú trong công việc, tạo sự đoàn kết nhất trí cao
trong ban cán sự để làm sao các em cũng phải biết làm việc “hết mình”, biết
phấn đấu vì tập thể và biết tự giác, chủ động điều hành lớp ngay cả khi không
có giáo viên chủ nhiệm. Sử dụng phiếu giao việc cũng là một hình thức tạo
cho học sinh phát huy tính tự giác, tự quản, tinh thần trách nhiệm trong công
việc. Trên cơ sở được giao việc học sinh phải tự lập kế hoạch và giáo viên
chủ nhiệm hẹn thời gian để duyệt. Nhìn chung được giao việc và nhất là được
Trường em

thầy cô tin tưởng, phát huy tính dân chủ và tự quản các em rất phấn khởi và
tất nhiên phải rút kinh nghiệm, khen chê kịp thời (trong một năm học, ban cán
sự ít nhất được động viên, khen thưởng hai lần vào dịp sơ kết học kỳ I và tổng
kết năm học).
2.2.5. Cụ thể hoá các đợt thi đua do Đoàn thanh niên phát động cũng là
một biện pháp tích cực thúc đẩy phong trào đi lên của tập thể lớp
Phong trào thi đua học tập và các hoạt động khác trong nhà trường được
Đoàn thanh niên phát động và duy trì thường xuyên suốt năm học. Trên cơ sở
đó, lớp lại đề ra các hình thức thi đua giữa các tổ, nhóm và các cá nhân. Kết
thúc mỗi đợt thi đua lại chọn ra những tập thể (tổ, nhóm) và các cá nhân xuất
sắc để biểu dương khen thưởng. Để tạo hứng thú cho học sinh trong việc xây
dựng bài học ở trên lớp, tôi gợi ý các em tính điểm thi đua cho mỗi lượt phát
biểu. Kết quả nhiều giờ học diễn ra sôi nổi và có chất lượng, giáo viên dạy rất
phấn khởi.
2.2.6. Giáo dục học sinh bằng sức mạnh tâm lí
Trong một lớp học bao giờ cũng có học sinh ngoan ngoãn, học sinh
nghịch ngợm, cá biệt. Do đó tìm hiểu nắm vững từng đối tượng học sinh sẽ

giúp GVCN sử dụng vũ khí tâm lí để giáo dục học sinh có hiệu quả.
Đối với những học sinh ngoan, có ý thức thì chỉ cần nhắc nhở chung. Nhưng
đối với những học sinh có cá tính, có hoàn cảnh khó khăn thì lại phải vừa
nghiêm khắc khi xử lý những sai phạm của các em, vừa phải tình cảm, động
viên, thậm chí phải dỗ dành. Giáo dục những học sinh cá biệt điều quan trọng
là phải tạo được mối quan hệ gần gũi, cảm thông giữa thầy và trò. Muốn vậy
GVCN không chỉ đứng ở cương vị người thầy mà phải biết nhập vai, biết lắng
nghe các em nói, tìm hiểu tâm tư của các em, tạo cho các em có cảm giác
mình được chia sẻ, cảm thông, được giúp đỡ thì các em sẽ tự giác sửa chữa
khuyết điểm, tự giác phấn đấu hơn. Có những học sinh khi mắc khuyết điểm
đã nói với bạn bè rằng: không sợ bị kỷ luật, bị phạt mà chỉ sợ làm ảnh hưởng
đến thành tích thi đua của lớp, sợ làm cô giáo buồn…
Trường em

Có em học sinh đầu năm học lớp 10 thường xuyên đi học muộn, nhiều
hôm không vào được trường lại ra quán Internet. Tôi đã sắp xếp thời gian đến
thăm gia đình học sinh này, mới hay em ở với ông bà nội (bố em mất từ khi
em mới được 3 tuổi, mẹ đi lấy chồng khác). Vì ít được quan tâm nên em cũng
sao nhãng chuyện học hành. Được cô giáo đến thăm nhà, động viên nên em
tiến bộ rất nhanh, chấm dứt hiện tượng đi học muộn và tham gia rất tích cực
vào các hoạt động của lớp.
Qua những trường hợp cụ thể vừa nêu, tôi thấy việc sắp xếp thời gian
đến thăm gia đình học sinh (đặc biệt là những học sinh cá biệt) cũng đem lại
nhiều hiệu quả trong công tác chủ nhiệm.
Ngoài ra, để tạo không khí cởi mở trong tập thể lớp và cũng là để giúp
cho mình hiểu học sinh hơn, tôi thường động viên các em ghi nhật ký lớp
hằng ngày. Thi thoảng tôi lại cho học sinh viết cảm nhận về lớp mình. Có
những điều thường ngày có khi khó nói ra được, nhưng khi viết cảm nhận
hoặc ghi nhật kí lớp các em lại có dịp để giãi bày. Qua những bài cảm nhận và
những trang nhật ký lớp, thầy trò, bạn bè hiểu nhiều về nhau hơn và đương

nhiên tập thể lớp ngày càng thêm gắn bó.
2.2.7. Phối hợp các lực lượng giáo dục
- Phối hợp với Ban giám hiệu nhà trường: Giáo viên chủ nhiệm là cầu
nối giữa hiệu trưởng với học sinh, truyền đạt chủ trương chính sách của
ngành, nội quy của nhà trường đến học sinh không phải bằng mệnh lệnh mà
bằng sự thuyết phục cảm hoá, gương mẫu của bản thân mình. Bên cạnh đó
GVCN phát hiện kịp thời các hành vi xấu của học sinh, đề nghị nhà trường
xét kỷ luật nghiêm khắc nhằm ngăn chặn hành vi xấu khác có thể xẩy ra tiếp.
- Phối hợp với giáo viên bộ môn: Biết lắng nghe những nhận xét của
giáo viên bộ môn thậm chí là những phê phán cá nhân, tập thể lớp mình sau
đó chọn lọc, phân tích thông tin để phối hợp tác động giáo dục cùng chiều,
khắc phục khó khăn, vướng mắc của học sinh trong quá trình học tập, đề đạt
Trường em

nguyện vọng của học sinh với giáo viên bộ môn để nâng cao chất lượng giáo
dục.
- Phối hợp với cha mẹ học sinh.
Giáo viên chủ nhiệm và cha mẹ học sinh phải thống nhất được phương hướng
phấn đấu của lớp đặt trong kế hoạch chung của nhà trường, đặc biệt là thống
nhất được các biện pháp thực hiện. Đây là điều kiện đầu tiên để giáo viên chủ
nhiệm có được sự ủng hộ của phụ huynh trong công tác tổ chức lớp học. Đặc
biệt với những học sinh vi phạm nội quy của trường, lớp, tuỳ theo mức độ vi
phạm GVCN thông báo với phụ huynh bằng văn bản (giấy thông báo), bằng
điện thoại hoặc trực tiếp gặp để thống nhất biện pháp giáo dục. Trong thực tế
biện pháp này tôi và nhiều giáo viên đã làm và có hiệu quả: học sinh tiến bộ
và phụ huynh cũng cảm thấy thoải mái mỗi khi được mời đến gặp.
- Nhìn chung nếu biết kết hợp các lực lượng giáo dục, chắc chắn công
tác chủ nhiệm sẽ đạt hiệu quả cao.
2.2.8. Coi trọng việc thực hiện nghiêm túc các giờ sinh hoạt lớp
Tuy nhiên cách thức tổ chức các giờ sinh hoạt trên lớp cũng nên linh

hoạt. Giờ sinh hoạt lớp không nên chỉ kiểm điểm học sinh, hoặc có kiểm điểm
thì cũng không nên máy móc. Đôi khi có thể biến giờ sinh hoạt thành những
hội thảo nhỏ với những chủ đề phù hợp với học đường như: chọn nghề cho
tương lai, sự lạc quan trong cuộc sống, những mơ ước tuổi trẻ, làm thế nào để
sống đẹp mỗi ngày, văn minh trong cách tặng quà, Có thể thay những lời
phê bình gay gắt bằng một câu chuyện nào đó. Chẳng hạn:
- Để nhắc nhở các em việc đi học đầy đủ, nghỉ học phải viết giấy xin
phép tôi kể câu chuyện Bác Hồ khi đã làm Chủ tịch nước, một lần phải đi
công tác nước ngoài, Bác đã viết giấy xin phép nghỉ kỳ họp Quốc hội, hoặc
Bác viết đơn xin ứng cử Đại biểu Quốc hội. Kết quả là những lớp tôi được
phân công chủ nhiệm học sinh rất hạn chế nghỉ học và hầu như không có hiện
tượng học sinh nghỉ học không xin phép.
Trường em

- Lưu ý các em về vấn đề học thêm như thế nào cho phù hợp hoặc giúp
các em lớp 12 trong việc lựa chọn các khối trường để đăng ký dự thi tôi đã
đọc cho các em nghe bài báo đưa tin một học sinh chỉ học ở trường và tự học
ở nhà nhưng thi đỗ thủ khoa Đại học Y Hà nội với 30,5 điểm.
- Trước đây khi chủ nhiệm một lớp Hệ B, có tuần lớp có nhiều cá nhân
vi phạm nội quy, nhiều giờ trung bình, yếu…Giờ sinh hoạt của tuần đó thay
vì kiểm điểm tôi cho các em được phép phát biểu thoải mái. Tôi gợi ý để các
em nói ra những dự định trong tương lai về việc chọn ngành nghề, chọn
trường học. Nhìn chung các em rất cởi mở và tỏ ra hưng phấn với đề tài này.
sau khi nghe các em nói, tôi mới đặt vấn đề: “Mọi dự định, mọi ước mơ của
các em đều đẹp cả, điều quan trọng là cần phải cố gắng thực hiện cho bằng
được. Song nếu các em học hành như thế này thì liệu có đạt được mục đích
của mình không?”.
Như vậy không kiểm điểm mà lại hoá ra kiểm điểm nhưng giờ sinh hoạt
rõ ràng đỡ căng thẳng hơn và lại có hiệu quả.
2.2.9. Chú trọng việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh

- Kĩ năng sống của con người nói chung đó là sự tự ý thức vai trò trách
nhiệm của bản thân mình trong việc ứng xử với mọi người xung quanh và môi
trường tự nhiên trong đó con người đang tồn tại. Từ những ngày học đầu tiên
ở trường phổ thông, học sinh đã được bồi dưỡng cả hai mặt đức và tài. Sự
phát triển của mỗi người nói chung và học sinh nói riêng được hình thành
thông qua việc tiếp thu tri thức hằng ngày trong cuộc sống như kĩ năng làm
việc hợp tác, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng thích nghi, kĩ năng xử lí tình huống, kĩ
năng giữ gìn bảo vệ môi trường… Những kĩ năng này không chỉ đòi hỏi cho
một giai đoạn nào đó mà nó cần thiết cho cả đời người đặc biệt là chuỗi ngày
đi học. Khẩu hiệu “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” xuất hiện ở các
trường cũng vì lẽ đó. Kĩ năng sống được biểu hiện đa dạng tuỳ từng người,
từng sự việc và từng hoàn cảnh cụ thể. Nhưng dù trong trường hợp nào, đối
với ai thì kĩ năng sống nhất thiết phải vươn tới chân lý tốt đẹp: nhân ái, vị tha,
Trường em

bản lĩnh tự tin, khiêm tốn, văn minh lịch sự, dám nghĩ dám làm, hoà đồng và
tôn trọng người khác. Thực tiễn ngày nay cho thấy đôi khi kiến thức uyên
bác, học vị cao lại không làm nên sự thành đạt của con người bằng chính kĩ
năng sống của họ. Cuộc sống ngày càng phát triển, đất nước đang hội nhập
với thế giới, cơ hội có được vị trí trong xã hội và khẳng định bản thân của
người lao động đang rộng mở, nhưng số lượng người thất nghiệp vẫn không
ngừng gia tăng. Một trong những nguyên nhân quan trọng là do họ chưa được
trang bị những kĩ năng sống cơ bản của một người lao động. Chính vì vậy, kĩ
năng sống cần được mỗi người chúng ta rèn luyện ngay từ khi còn ngồi trên
ghế nhà trường. Trong bốn trụ cột của giáo dục được Unesco nêu ra là “học
để biết, học để làm việc, học để làm người (để tồn tại), học để cùng chung
sống” đã có ba nội dung hàm chứa các yêu cầu kĩ năng sống. Điều này càng
khẳng định hơn nữa tầm quan trọng và cần thiết của nhà trường trong việc
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Đành rằng hình thành kĩ năng sống phải
qua cả trường học và trường đời nhưng trường học vẫn giữ vị trí nền móng vì

hầu hết mọi người đều được đi học, và nội dung học ở trường phổ thông gồm
nhiều lĩnh vực tự nhiên, xã hội cùng nhiều bài học về lối sống tốt đẹp của
những bậc tiền nhân mà học sinh cần học tập noi theo.
- Có thể tiến hành giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm
bằng các hình thức như:
+ Tổ chức các hoạt động tập thể, ngoại khoá để các em được tham gia
vào hoạt động thực tiễn của cuộc sống, tạo cơ hội bộc lộ chân thật những suy
nghĩ, tình cảm, hành vi trong công việc, chia sẻ những khó khăn và niềm vui
cũng như hoàn thiện dần dần các kĩ năng thực hành một cách tự nhiên. Từ
đây, tính ích kỷ cá nhân, ngại khó, vụng về, rụt rè sợ sệt sẽ nhường chỗ cho
lòng bao dung, sự tự tin, dũng cảm, tháo vát, nhanh nhẹn, khéo léo, tinh tế,
hoà đồng và thân thiện. Nội dung hoạt động cũng khá đa dạng như: hội trại,
thể thao, văn nghệ, tham quan bảo tàng và danh lam thắng cảnh; chăm sóc di
tích cách mạng, văn hoá lịch sử; trò chơi tập thể, câu lạc bộ xanh; thi phòng
Trường em

tránh tai nạn giao thông, diễn thuyết tranh luận về bảo vệ môi trường, quyền
trẻ em, xử lý tình huống khẩn cấp… Có thể tổ chức theo lớp, khối, toàn
trường hoặc từng nhóm nhỏ từ 10 - 15 em và chú ý xác định rõ kĩ năng sống
cần đạt được cho học sinh sau mỗi hoạt động. Nên để cho học sinh viết lại,
nói lại những điều mà các em cảm thấy thú vị và bổ ích nhất.
+ Một hình thức nữa để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đó là thông
qua hoạt động dạy học trên lớp. Trong mỗi tiết dạy, ngoài yêu cầu về kiến
thức thì yêu cầu về kĩ năng và thái độ luôn được đặt ra và đó cũng chính là
yêu cầu về giáo dục kĩ năng sống. Do vậy, trong các giờ lên lớp tôi đều có sự
liên hệ với thực tế cuộc sống của học sinh ở cả hai mặt tích cực và hạn chế.
Tuỳ theo bài học mà hình thành những kĩ năng tích hợp cho học sinh như kĩ
năng đặt câu hỏi và trả lời, kĩ năng trình bày, kĩ năng phân tích tổng hợp, kĩ
năng ra quyết định, kĩ năng xử lý tình huống, kĩ năng tự học, kĩ năng làm việc
hợp tác (còn gọi là hợp tác nhóm hay hoạt động nhóm)… Trong đó, kĩ năng

làm việc hợp tác cần được đặc biệt quan tâm vì đây là kĩ năng sống mang tính
thời đại, nó thể hiện cách làm việc theo cơ chế phân công hợp tác, tôn trọng
quyền và lợi ích của từng thành viên và cùng nhau phát triển. Qua sự tổ chức
hướng dẫn của giáo viên, học sinh được chia thành các nhóm. Mỗi em được
phân công đảm trách một công việc của nhóm (nhóm trưởng, thư ký, theo dõi
thời gian, động viên phát biểu, trình bày trước lớp). Tất cả thành viên trong
nhóm được trình bày suy nghĩ của cá nhân nhưng cũng phải tôn trọng ý kiến
người khác và chấp nhận sự thống nhất chung của nhóm. Mỗi nhóm sẽ cùng
nhau thảo luận để giải quyết một nội dung khó của bài học mà chỉ với mỗi cá
nhân có thể không tìm được lời giải đáp.
+ Ở tiết sinh hoạt lớp, giáo viên cần tạo điều kiện để các em tự đánh giá
nhận xét về bản thân và lớp của mình. Các em có thể trình bày ý kiến về
những việc làm tốt và chưa tốt; cùng nhau xây dựng nội quy của lớp; thiết kế,
đề xuất các việc làm, hoạt động hằng tháng và cả năm học.
Trường em

+ Chức vụ lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng, tổ phó nên được thay đổi theo
tháng hoặc học kỳ để nhiều em được làm quen với kỹ năng điều hành, quản lý
công việc đồng thời ngăn ngừa cách sống tự kiêu, độc đoán có thể xảy ra ngay
từ tuổi học đường.
+ Xây dựng các quy tắc ứng xử với môi trường như giữ gìn vệ sinh
trường lớp, bảo vệ môi trường sống, rèn luyện và bảo vệ sức khoẻ, tiết kiệm
năng lượng, phòng chống tai nạn thương tích. Bên cạnh đó, cần chú ý xây
dựng cảnh quan trường lớp với những hình ảnh mang tính giáo dục và thẩm
mỹ, những lời hay ý đẹp như “Bảo vệ môi trường là bảo vệ chính cuộc sống
của chúng ta”, “Mỗi lần giao tiếp là mỗi lần bạn thể hiện mình”, “Bạn có thể
vấp ngã, điều quan trọng là bạn phải đứng lên”
+ Ngoài ra, cần tạo cơ hội cho các em được bày tỏ ý kiến của mình đối
với thầy cô giáo và nhà trường qua việc thực hiện “Hộp thư điều em muốn
nói” và tổ chúc tư vấn cho học sinh. Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh phải

thông qua việc làm cụ thể và sự chủ động cao của các em.
- Cách rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh phải từ dễ đến khó. Chẳng
hạn khi học sinh mới vào lớp 10, trong mục cùng góp ý trong giờ sinh hoạt,
tôi yêu cầu học sinh “Em hãy nói vài ý kiến của mình về những vi phạm của
các bạn trong tuần vừa qua”. Ban đầu, các em còn nói năng lí nhí, mắt không
dám nhìn thẳng, gương mặt căng thẳng. Nhưng sau vài lần, các em không còn
những cái nhìn ái ngại, trở nên dạn dĩ hơn, cảm thấy tự tin và câu nói chắc
gọn, cộng thêm một môi trường giáo dục thân thiện hoà đồng, cho phép các
em tiến đến gần và hoà nhập với nhau, sau đó là những điều khác như đóng
góp ý kiến cho tập thể, ý tưởng độc đáo cho các hoạt động của lớp phong phú
hơn, hiệu quả hơn và đặc biệt kỹ năng làm việc nhóm, các em được trang bị lý
thuyết cụ thể, rồi thực hành để hiểu. Với kỹ năng làm việc nhóm, các em
được tập làm việc để biết cách hợp tác và chấp nhận lẫn nhau trong mọi hoàn
cảnh. Mục đích quan trọng nhất là giúp các em tự tin hơn, tự lập hơn trong
cuộc sống, đây là điều rất cần thiết trong cuộc sống của các em sau này.
Trường em

KẾT LUẬN

Nhìn chung giải pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm thì nhiều, tuỳ theo
đặc điểm tình hình của mỗi lớp, giáo viên chủ nhiệm có thể tìm cho mình
những biện pháp thích hợp, không nên áp dụng rập khuôn máy móc bất kỳ
một phương pháp tiên tiến nào bởi lẽ sản phẩm đây chính là con người. Tuy
nhiên điều cơ bản nhất là giáo viên chủ nghiệm phải tạo được uy tín với học
sinh và đồng nghiệp về năng lực chuyên môn và tư cách đạo đức, tác phong
công việc. Chỉ có thể trở thành GVCN tốt khi thực sự là một tấm gương mẫu
mực trong cuộc sống, giải quyết tốt các mối quan hệ không chỉ đối với học
sinh lớp chủ nhiệm mà còn với gia đình, đồng nghiệp, với mọi người ở nơi cư
trú. Có thể thấy mọi cử chỉ, cách ăn mặc, nói năng, đi đứng, thái độ biểu hiện
của GVCN đối với mọi hiện tượng xã hội lúc có mặt học sinh hay không có

mặt học sinh đều có ảnh hưởng đến nhân cách học sinh lớp chủ nhiệm. Chính
vì vậy, để làm tốt công tác chủ nhiệm, GVCN trước hết phải đề ra kế hoạch tự
hoàn thiện bản thân về mọi mặt:
- Bồi đắp lòng yêu nghề, tận tuỵ với công việc.
- Nâng cao không ngừng trình độ học vấn, văn hoá chung, trình độ
chuyên môn, rèn luyện đạo đức tác phong.
- Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm lí luận sư phạm, mẫu mực trong
giao tiếp xã hội, đồng nghiệp, thầy trò, thực sự là Tấm gương sáng cho học
sinh noi theo.
Biện pháp cần, nhưng cái cần hơn cả vẫn là tấm lòng, là sự nhiệt tình,
trách nhiệm và tình thương yêu học trò. Nếu chúng ta làm việc với cái tâm
của người thầy, công tác chủ nhiệm chắc chắn sẽ thu được nhiều thành công.
Công tác chủ nhiệm nhiều vất vả khó khăn nhưng cũng nhiều niềm vui,
ai yêu nghề cũng sẽ thành công trong công tác chủ nhiệm.
Sáng kiến kinh nghiệm này, qua trải nghiệm thực tế, tôi nhận thấy rằng
giáo dục học sinh thành công hay thất bại còn phụ thuộc vào yếu tố khác nữa.
Trường em

Do đó chúng ta không nên áp dụng rập khuôn máy móc bấc kỳ một phương
pháp giáo dục tiên tiến nào bởi lẽ sản phẩm đây chính là “con người”.
Để đạt được mục đích giáo dục, ta cần phải biết chọn điểm xuất phát
thích hợp với đặc điểm riêng của từng trường, từng lớp, từng học sinh,…
Muốn duy trì tốt thành quả giáo dục cần có sự phối hợp chặt chẽ với các
phong trào khác, những hoạt động khác, và đặc biệt cần phối hợp chặt chẽ
giữa nhà trường với Chi Hội CMHS, được sự quan tâm lãnh đạo của cấp uỷ,
chính quyền, các đoàn thể và nhân dân địa phương để tạo sức mạnh đồng bộ,
toàn xã hội cùng giáo dục thế hệ trẻ đồng thời giữ vững được hướng đi đúng .
Muốn làm tốt được những điều trên đòi hỏi người GVCN lớp phải là người có
uy tín, toàn diện, có năng lực thực sự để chỉ đạo, dám nghĩ, dám làm đi trước,
đề xuất được các vấn đề giá trị, tập hợp được sức mạnh tổng hợp, vai trò con

chim đầu đàn là yếu tố có phần lớn lao, tạo nên sự thành công hay thất bại ở
mỗi HS, mỗi lớp học, mỗi trường học…
ĐỀ NGHỊ
I- Đối với giáo viên:
1/ Xây dựng kế hoạch thực hiện công tác chủ nhiệm và giáo dục đạo đức
học sinh theo chương trình công tác Đoàn gắn với chủ đề năm học .
2 / Tăng cường giáo dục thích hợp qua các môn học có liên quan.: Xác
định trách nhiệm dạy bất kỳ môn học nào cũng phải tham gia thực hiện công
tác giáo dục đạo đức học sinh, kết hợp việc giáo dục đạo đức vào những bài
giảng, những tình huống sư phạm có liên quan, khai thác bài tập thực hành,
xử lý tình huống đạo đức. Phải xem nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh
là nền tảng để rèn nền nếp, kỷ cương của trường lớp, góp phần chống lưu ban,
bỏ học.
3/Mỗi giáo viên phát huy tốt vai trò chủ nhiệm .Phối hợp hoạt động giáo
dục theo chủ điểm của chường trình hoạt động, tăng cường giáo dục đạo đức
hàng ngày, nắm bắt đặc điểm học sinh để giáo dục cụ thể.
Trường em

4/ Giáo viên phải nắm vững quy định về đạo đức nhà giáo, làm cơ sở để tự
rèn luyện phẩm chất đạo đức nhà giáo, qui tắc ứng xử sư phạm, có lối sống và
cách ứng xử chuẩn mực để thực sự làm tấm gương đạo đức học sinh noi theo
( lời nói gắn liền hành động thực tiễn), mỗi giáo viên luôn trau dồi chuẩn
mực đạo đức, gương mẫu qua từng hành động, luôn dịu dàng hết lòng thương
yêu học sinh, bằng lương tâm chức nghiệp của mình xây dựng chương trình
hành động riêng trong công tác giáo dục đạo đức học sinh. Các chương trình
hành động của giáo viên được tổng hợp theo các Tổ, Khối để gửi về Ban
Giám hiệu bổ sung vào kế hoạch của trường.
5/ Khuyến khích học sinh tự giác, tự chủ tham gia tích cực các hoạt động
phong trào đoàn, chấp hành nội quy, quy định của nhà trường, luật an toàn
giao thông, thực hiện phong trào 10 không , 10 biết, tăng cường giáo dục đảm

bảo an toàn, phòng chống tai nạn, thương tích cho học sinh. giúp đỡ bạn cùng
tiến bộ trong học tập, hạnh kiểm.
II- Đối với nhà trường, Đoàn TN Hồ Chí Minh:
1/ Tăng cường tủ sách đạo đức và các hoạt động liên quan (giới thiệu
sách, kể chuyện theo sách, kể chuyện đạo đức Bác Hồ,Tiểu phẩm )
2/ Giới thiệu tìm hiểu các di tích văn hóa, di tích lịch sử , tham quan
thăm viếng, học tập.( Đài liệt sĩ, Bảo tàng . . .)
3/ Đoàn trường tham mưu kế hoạch, biện pháp hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp, hướng dẫn giáo viên chủ nhiệm phụ trách chi đoàn, đoàn viên
TNCS hỗ trợ, phối hợp tổ chức hoạt động ,giáo dục đạo đức theo chủ điểm,
phong trào thi đua, phong trào hoạt động khác.
4/ Tăng cường các hình thức tuyên truyền thông tin , giáo dục theo chủ đề,
biểu dương gương tốt, phát động phong trào chia sẽ giúp bạn, giúp người
hoạn nạn.
Trên đây là một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục học sinh
trong công tác chủ nhiệm mà tôi đã suy nghĩ. Tôi tin chắc rằng nếu chúng ta
quan tâm đúng mức và thực hiện tốt các giải pháp trên thì sẽ không còn tình
Trường em

trạng học sinh nghỉ học nhiều. Tuy nhiên không sao tránh khỏi những hạn chế
của nó, rất mong đồng nghiệp cùng đóng góp để hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!



























Trường em


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học
phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học, 2011.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư 58/2011: Ban hành Quy chế đánh giá,
xếp loại học sinh trung học cơ sở và học sinh trung học phổ thông, 2011.
3. Báo GD&TĐ Online, Một số kinh nghiệm trong chủ nhiệm lớp, 2011.
4. Pháp lệnh cán bộ công chức - Bộ GD & ĐT.
5. Hồ Văn Quân (THPT Việt Bắc), Một vài kinh nghieemjtrong công tác chủ
nhiệm lớp ở trường phổ thông, 2011.

6. PGS. Nguyễn Quang Uẩn, Tâm lí học đại cương, Hà Nội (1995)
7. TS. Phạm Viết Vượng, Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục, Hà
Nội (1996).
















×