Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

SKKN một số phương pháp phát triển tư duy phản biện của học sinh trong dạy học chủ đề khuynh hướng dân chủ tư sản trong phong trào cách mạng việt nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1930

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.78 KB, 57 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN TƯ DUY PHẢN BIỆN CỦA HỌC
SINH TRONG DẠY HỌC CHỦ ĐỀ: KHUYNH HƯỚNG DÂN CHỦ TƯ SẢN
TRONG PHONG TRÀO CÁCH MẠNG VIỆT NAM TỪ ĐẦU THẾ KỈ XX
ĐẾN NĂM 1930
1. Lời giới thiệu
Việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ hợp tác với nước ngoài, tiến tới hội nhập nền kinh tế toàn cầu,
chúng ta cần có những con người đủ đức, đủ tài, năng động, sáng tạo để xây dựng
và phát triển đất nước. Đó cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối
với nền giáo dục Việt Nam nói chung và trường phổ thông nói riêng: Phải đào tạo
những con người mới có đủ đức, tài, nắm vững khoa học công nghệ, tiến kịp sự
phát triển như vũ bão của thế giới, có ý thức chủ động, tích cực bày tỏ quan điểm,
lập trường trước những vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội, hướng tới chân lí của
mọi vấn đề. Trong dạy học, tất cả các bộ môn cần rèn luyện cho học sinh biết tranh
luận, phản biện vấn đề, tạo thói quen tốt trong nhìn nhận,đánh giá các vấn đề trong
cuộc sống, góp phần thực hiện mục tiêu kết hợp dạy “người” với dạy “chữ”, lí
thuyết phải gắn với thực hành. Khả năng phản biện của học sinh trong quá trình học
tập sẽ giúp học sinh phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong học tập, rèn luyện
được khả năng làm việc độc lập, làm việc theo nhóm.
Lịch sử là môn học có nhiều ưu thế giúp HS phát triển loại năng lực này.
Bởi, lịch sử là nhận thức của con người về cuộc sống đã diễn ra trong quá khứ với
những nguồn sử liệu phong phú và nhận thức lịch sử đa chiều. Học tập lịch sử
không chỉ để hiểu quá khứ đã diễn ra như thế nào mà còn là cơ sở để nhận thức
thực tiễn, rút ra bài học kinh nghiệm để giải quyết các tình huống trong cuộc sống,
dự đoán các vấn đề sẽ xảy ra trong tương lai với mục tiêu phấn đấu xây dựng một
xã hội tương lai tốt đẹp hơn.

1



Thực tế cho thấy, học sinh tích cực trong học lịch sử, đặc biệt là khả năng
phản biện vấn đề ở học sinh THPT ở nông thôn còn tồn tại dưới dạng tiềm năng,
chưa được khai thác. Nhiều học sinh muốn phản biện, hoặc đã từng phản biện
nhưng chưa được giáo viên tạo điều kiện, chưa được các bạn trong lớp hưởng ứng.
Có nhiều lí do khác nhau khiến cho khả năng này chưa trở thành kỹ năng. Phát huy
được tính tích cực của học sinh, đặc biệt là khả năng phản biện vấn đề của học sinh,
chắc chắn chất lượng dạy và học sẽ được nâng lên một mức đáng kể. Trong môi
trường giáo dục ở nông thôn hiện nay, các trường THPT không ngừng đổi mới
phương pháp để phát huy tính tích cực của học sinh, hình thành năng lực phản biện
cho học sinh, tạo kỹ năng tự chủ cho học sinh. Trên thực tế giảng dạy, học sinh
trường THPT Phạm Công Bình còn yếu về kỹ năng phản biện, thiếu sự chủ động tư
duy trong giờ học. Học còn mang tính thụ động, một chiều.
Trong khi đó, xu hướng chung của những nền giáo dục tiến bộ trên thế giới
là xây dựng một nền giáo dục thực sự dân chủ. Phản biện của học sinh trong quá
trình dạy học là một biểu hiện tích cực của một giờ học dân chủ và một nền giáo
dục dân chủ. Phát huy khả năng phản biện của học sinh là một trong những cách
góp phần xây dựng những giờ học dân chủ và một nền giáo dục dân chủ, tiến bộ
Thực hiện chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc đổi mới cách dạy
học và kiểm tra - đánh giá, thay vì giáo viên truyền đạt tri thức một cách thụ động
cho học sinh, mà cần phải hình thành các năng lực và phẩm chất cho người học.
Đồng thời, với mong muốn “hiện đại hóa” giờ học lịch sử, khiến cho giờ học hấp
dẫn hơn và tạo cơ hội cho học sinh có điều kiện thể hiện bản thân, rèn luyện kĩ
năng thuyết trình, tranh luận, và tự tin bảo vệ chính kiến của mình trên cơ sở những
tài liệu khoa học, tôi lựa chọn chủ đề: Một số phương pháp phát triển tư duy phản
biện của học sinh trong dạy học chủ đề: khuynh hướng dân chủ tư sản trong phong
trào cách mạng Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1930.
2. Tên sáng kiến
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN TƯ DUY PHẢN BIỆN CỦA HỌC
SINH TRONG DẠY HỌC CHỦ ĐỀ: KHUYNH HƯỚNG DÂN CHỦ TƯ SẢN
TRONG PHONG TRÀO CÁCH MẠNG VIỆT NAM TỪ ĐẦU THẾ KỈ XX ĐẾN

NĂM 1930
2


3. Tác giả sáng kiến
- Họ và tên: PHẠM THỊ KIM DUNG
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Phạm Công Bình – Nguyệt Đức – Yên
Lạc – Vĩnh Phúc.
- Số điện thoại: 0973823132

Email:

4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Phạm Thị Kim Dung
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
- Kiến thức lịch sử Việt Nam đầu thế kỉ XX thuộc các bài 22,23 của lịch sử
11 ban cơ bản; một phần kiến thức thuộc các bài 12,13 trong lịch sử 12 ban cơ bản.
Sáng kiến này được áp dụng cho học sinh lớp 12.
- Sáng kiến giải quyết được vấn đề còn yếu hiện nay của học sinh THPT ở
nông thôn, đặc biệt là ở trường THPT Phạm Công Bình, đó là hình thành và phát
triển tư duy phản biện của học sinh trong công tác dạy và học. Từ đó, hình thành kỹ
năng mềm cho học sinh, tạo điều kiện cho các em chủ động trong việc rèn luyện
sau này khi đã ra trường.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
- Ngày áp dụng lần đầu: 6/11/2019, thực hiện tại lớp 12D1.
7. Mô tả bản chất sáng kiến

3


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Mục tiêu giáo dục trong nhà trường phổ thông hiện nay là đào tạo con người
Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, trí thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp,
trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng
nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mục tiêu của bộ môn Lịch sử là sự cụ thể hóa mục tiêu giáo dục, căn cứ vào vị
trí, nội dung, chức năng, nhiệm vụ của bộ môn, chương trình giáo dục phổ thông.
Đồng chí Đỗ Mười - nguyên Tổng bí thư BCH TW Đảng Cộng sản Việt Nam từng
nhấn mạnh: “Phải coi trọng giáo dục lịch sử dân tộc, phải coi lịch sử là tài nguyên
giáo khoa số một trong nhà trường. Nếu không làm tốt giáo dục lịch sử, thanh
thiếu niên sẽ chạy theo đồng tiền, chạy theo lợi ích khác, có hại cho sự nghiệp
chung”.“Bởi vì, tri thức lịch sử là một yếu tố của nền văn hóa chung của loài
người và không thể coi việc giáo dục con người đã hoàn thành đầy đủ nếu không
trang bị cho học sinh những hiểu biết cần thiết về lịch sử…”.Như vậy, môn Lịch sử
ở trường phổ thông có vị trí rất quan trọng, nó giúp cho học sinh có được những kiến
thức cơ bản cần thiết về lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc, góp phần hình thành ở học
sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương đất nước, truyền thống dân
tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy, hành động, thái độ ứng xử đúng đắn
trong đời sống xã hội.
Tuy nhiên, thực tiễn của việc dạy - học của môn Lịch sử ở trường phổ thông
hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ, có
nhiều sự đổi mới. Do đặc trưng của bộ môn, kiến thức lịch sử là những kiến thức của
quá khứ, học sinh khó học, khó nhớ, “khô khan”, học sinh thường nảy sinh tâm lí
“chán”, “sợ” học môn lịch sử. Hàng năm, số thí sinh tham dự các kì thi môn Lịch
sử đạt điểm dưới trung bình rất lớn. Hiện nay, số lượng HS đăng kí môn Sử làm
môn thi tự chọn trong kì thi THPT quốc gia đã tăng hơn trước, nhưng kết quả đạt
được chưa cao. Theo thống kê điểm thi THPT QG năm 2019 thì điểm trung bình
môn Lịch sử rất thấp, chỉ cao hơn so với điểm trung bình của môn Tiếng anh. Điều
đó cho thấy, việc dạy – học lịch sử ở các trường trung học THPT hiện nay cần phải

1


khắc phục, phát huy có hiệu quả hơn nữa các biện pháp đổi mới.
Theo tôi, có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng này, như do quan niệm
của xã hội, tư tưởng học sinh coi Lịch sử là “môn phụ” và “thi gì thì học đấy”,…
Song chủ yếu vẫn là phương pháp tổ chức dạy - học của thầy - trò. Nhiều người cho
rằng giáo viên chậm đổi mới, không tích cực hưởng ứng và vận dụng các phương
pháp đã cải tiến. Trong đó, giáo viên chưa khơi dậy được tư duy phản biện của HS
trong dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử phải mang tính toàn diện, cốt
lõi, phát huy tính tích cực, năng lực sáng tạo trong tư duy và hoạt động của học sinh,
nhất là tư duy phản biện của HS. Tại trường THPT Phạm Công Bình, sức “ỳ tư duy”
của học sinh là rất lớn, các em chưa tương tác tốt trong các giờ học.
Theo ma trận kiến thức môn Lịch sử trong đề thi tham khảo THPT quốc gia
2019:
Chủ đề
Cách mạng tháng Mười Nga năm
1917: Công cuộc xây dựng CNXH ở
Liên Xô (1921- 1941)
Sự hình thành trật tự thế giới mới sau
CTTGII (1945-1949)
Liên Xô và các nước Đông Âu (19451991). Liên bang Nga (1991-2000)
Các nước Á, Phi, Mĩ latinh (19452000)
Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945-2000)
Quan hệ quốc tế (1945-2000)
Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến 1918
Việt Nam từ 1919-1930
Việt Nam từ 1930- 1945
Việt Nam từ 1945- 1954
Việt Nam từ 1954-1975

Việt Nam từ 1975-2000
Tổng

Mức độ nhận thức
Nhận Thôn Vận
biết
g hiểu dụng

Vận
dụng
cao

1

1
1

1

1

1

1

2

1

1


2
2
1
2
1
12

Tổn
g

2
1
2
1
3
13

1
2
1
2
1
1

1
1
1
1
1

2

7

8

4
2
3
4
4
7
4
8
1
40

2


Theo ma trận đề THPT QG, đề thi môn Lịch sử THPT quốc gia 2019 khá an
toàn so với đề thi THPT quốc gia 2018. Điều này thể hiện ở tỉ lệ câu hỏi lớp 11
đưa vào đề thi chỉ chiếm 12,5% (5/40 câu hỏi của đề thi), không có kiến thức lớp
10 như thông tin trước đó. Câu hỏi phần lịch sử Việt Nam đóng vai trò chủ đạo,
trong đó phần lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919- 1930 đóng một vai trò quan trọng.
Trong đề thi chính thức của kì thi THPT QG năm học 2019, các câu hỏi trải đều ở
các chuyên đề lớp 12, ở lớp 11 chủ yếu tập trung vào phần lịch sử Việt Nam; bám
sát theo ma trận của đề thi tham khảo. Với ma trận kiến thức phân bổ như này, học
sinh chỉ cần nắm chắc kiến thức sách giáo khoa là có thể đạt được điểm 7-8. Để
đạt được điểm cao, ngoài kiến thức sách giáo khoa, học sinh còn cần phải có năng

lực phân tích, đánh giá và khái quát kiến thức cao.
Thực tiễn giảng dạy, trong quá trình ôn luyện phục vụ cho kì thi THPT QG,
nhất là đối với nhận thức chưa cao, đầu vào còn thấp, tư duy còn yếu của học sinh
trường THPT Phạm Công Bình, thì việc hệ thống lại kiến thức một cách ngắn gọn,
dễ hiểu, và được nhắc đi nhắc lại, sẽ giúp các em nhớ được các kiến thức cơ bản.
Đồng thời, với sự lồng ghép kiến thức cơ bản với nâng cao sẽ giúp chuyên đề đáp
ứng được nhận thức của từng đối tượng học sinh,từ yếu kém đến khá – giỏi. Với
đối tượng học sinh cụ thể ở trường THPT Phạm Công Bình, việc đổi mới trong
giảng dạy, cũng như xây dựng các chuyên đề phù hợp với nhận thức của các em là
điều cần thiết. Trong quá trình dạy, giáo viên sẽ vận dụng linh hoạt lượng kiến thức
phù hợp với từng lớp. Vừa đảm bảo kiến thức cơ bản, đồng thời giáo viên phải tạo
động lực, khích lệ học sinh tham gia vào hoạt động học.
Với phương pháp cụ thể, chất lượng của môn học cũng như thứ hạng của
trường không ngừng được nâng lên từ năm 2017 đến năm 2019:
Môn
Sử

Các mục
HS dự thi
ĐTB Tỉnh

2017
127
5.47

2018
152
4.45

2019

135
5.20
3


ĐTB trường
4.67
4.39
5.29
Xếp hạng
34
19
13
HS dự thi
224
224
201
5.98
ĐTB Tỉnh
5.48
6.02
Toàn
trường ĐTB trường
5.38
5.32
5.81
Xếp hạng
33
22
17

Về kiến thức ôn luyện, trong phong trào cách mạng ở Việt Nam những năm
1919-1930,hai khuynh hướng cách mạng song song tồn tại: khuynh hướng cách
mạng dân chủ tư sản và khuynh hướng cách mạng vô sản. Hai khuynh hướng đấu
tranh giành quyền lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Đây là đặc điểm nổi
bật nhất của phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam những năm 1919-1930. Vì vậy,
việc lựa chọn nghiên cứu khuynh hướng dân chủ tư sảns ẽ giúp giáo viên, học sinh
hiểu rõ thêm về đặc điểm nổi bật này của phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam
những năm 1919-1930. Thông qua việc tìm hiểu về khuynh hướng cách mạng dân
chủ tư sản trong thời kì lịch sử 1919-1930, ta sẽ có cái nhìn xuyên suốt về khuynh
hướng cách mạng này từ khi nó xuất hiện đến khi nó chấm dứt vai trò lịch sử. Trên
cơ sở đó,ta thấy được những đóng góp của khuynh hướng cách mạng này đối với
phongtrào dân tộc dân chủ ở Việt Nam, thấy được những mặt tích cực và hạn chế,
đánh giá cho khách quan và chính xác.
Với những lý do trên, tôi quyết định chọn chuyên đề “Một số phương pháp
phát triển tư duy phản biện của học sinh trong dạy học chủ đề: Khuynh hướng dân
chủ tư sản trong phong trào cách mạng Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1930.”.
2. Mục đích của đề tài
Tích hợp một phần kiến thức lịch sử lớp 11 (bài 22, 23), vốn là kiến thức
trọng tâm của kiến thức học, củng cố cũng như khắc sâu được kiến thức trọng tâm,
nối liền đến phần kiến thức ở các bài 12, 13 thuộc lịch sử Việt Nam lớp 12. Qua đó,
trên cơ sở các bài học cụ thể đã học, học sinh hệ thống được kiến thức theo chiều
dọc xuyên suốt quá trình hình thành, phát triển và chấm dứt của khuynh hướng dân
4


chủ tư sản trong phong trào cách mạng Việt Nam. Hiểu rõ hơn thông qua những
kiến thức được khái quát hóa, ngắn gọn, đủ ý và dễ nhớ.
Đổi mới phương pháp nhằm tăng sự hứng thú với môn học của học sinh,
thay đổi tư duy của giáo viên và học sinh trong dạy và học. Qua đó, nâng cao chất
lượng nhận thức kiến thức của chủ đề, nâng cao chất lượng ôn thi và kết quả thi

THPT QG.
Đề tài nhằm khai thác rộng và sâu những kiến thức liên quan đến khuynh
hướng dân chủ tư sản trong phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Namnhững năm
1919-1930. Qua đó giúp bản thân giáo viên nâng cao hiểu biết về nộidung kiến
thức này.Trên cơ sở đó, giáo viên chuyển hóa đề tại này thành chuyên đề, có thể
chắt lọc từ trong đề tài một số vấn đề để từ đó nêu lên thành câu hỏi, thành tình
huống có vấn đề để để dạy chohọc sinh phục vụ kì thi THPT QG, cũng như trong
đội tuyển học sinh giỏi dự thi cấp tỉnh.
Chuyên đề được xây dựng nhằm đáp ứng được các mức độ nhận thức của
kiến thức, trong đó chủ yếu ở mức độ nhận biết và thông hiểu, phù hợp với trình độ
nhận thức đại trà của học sinh ở mức 5- 6 điểm; cũng như phù hợp với trình độ
nhận thức khác nhau giữa các lớp (cụ thể đối với 2 lớp tôi dạy là 12D1 có nhận
thức khá hơn, còn lớp 12A5 thì yếu hơn hẳn).
3. Phương pháp để đạt được mục đích của đề tài
- Đề ra kế hoạch học chuyên đề cụ thể, khớp với nội dung học trên lớp.
- Giáo viên xây dựng kiến thức một cách cơ bản, ngắn gọn, dễ nhớ giúp học sinh
nhớ được nét cơ bản nhất của bài.
- Sử dụng các phương pháp cụ thể trong dạy học: trao đổi nhóm, thảo luận, sử
dụng các bảng biểu, sơ đồ hóa kiến thức, tạo trò chơi lịch sử trong dạy học.

5


4. Đối tượng, phạm vi kiến thức
- Đối tượng: Học sinh đại trà lớp 12, có nhận thức từ trung bình yếu đến khá, chủ
yếu là trung bình.
- Phạm vi kiến thức: Kiến thức lịch sử Việt Nam đầu thế kỉ XX thuộc các bài 22,23
của lịch sử 11 ban cơ bản; một phần kiến thức thuộc các bài 12,13 trong lịch sử 12
ban cơ bản.
5. Bố cục của đề tài

- Mở đầu: tác giả đưa ra lý do, mục đích của đề tài, các phương pháp cần để đạt
được mục đích của đề tài.
- Nội dung: gồm cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài, nội dung cơ bản của chủ đề
và các phương pháp áp dụng trong chủ đề nhằm phát huy tính tích cực của học
sinh, đặc biệt là tư duy phản biện.
- Kết quả đạt được của chuyên đề khi thực hiện, những kiến nghị.

6


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận
1.1. Tư duy phản biện là gì?
- Thuật ngữ “Phản biện” (Opponency) mới được xuất hiện không lâu và
nhanh chóng được dùng một cách rộng rãi. “Phản biện” là dùng lý lẽ và dẫn chứng
để lập luận chống lại một ý kiến, quan điểm, cách nhìn nhận, đánh giá, hành động,
việc làm … nhằm thuyết phục người nghe nhìn nhận, đánh giá vấn đề theo cách
khác có sức thuyết phục hơn, đúng hơn. Phản biện khác với chỉ trích: Chỉ trích
nhắm vào người. Phản biện cũng khác với phê bình hay phê phán: Ở cả hai từ này,
đối tượng có thể là người mà cũng có thể là vật thể. Phản biện là chống đối một
luận điểm bằng cách đề xuất một cách nhìn hay một góc nhìn khác để người bị
phản biện phải cố gắng chứng minh quan điểm của mình là đúng đắn nhất và để
mọi người có thể lựa chọn. Phản biện được xây dựng trên tinh thần đối thoại, và do
đó, có tính tích cực và xây dựng. Mục tiêu đầu tiên của phản biện không phải là bác
bỏ (như trong biện bác) hay đả kích (như trong chỉ trích) hay tìm khuyết điểm (như
trong phê phán) hoặc cả khuyết điểm lẫn ưu điểm (như trong phê bình).Mục tiêu
chính của phản biện là thúc đẩy mọi người cân nhắc lựa chọn cái tối ưu. Mục tiêu
thứ hai của phản biện là buộc đối tượng bị phản biện phải tăng cường sự thuyết
phục cho các quan điểm của họ. Họ phải chứng minh là họ đúng hơn. Về phương

diện chính trị và xã hội, với hai mục tiêu ấy (tìm cái tối ưu và thuyết phục), phản
biện rõ ràng là một điều cần thiết không những để tránh những chính sách sai lầm
mà còn để thúc đẩy quá trình dân chủ hóa, quá trình hiện đại hóa của đất nước.
- Tư duy phản biện là một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích và
đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm
làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. Muốn có phản biện trước
hết phải có tư duy phản biện. Tư duy phản biện thể hiện tính tích cực của chủ thể.
- Phản biện xã hội là phản biện về các vấn đề của đời sống xã hội, thường là
những vấn đề mới nảy sinh, còn nóng bỏng, gây chú ý, gây bức xúc trong nhân dân.
Phản biện xã hội thường diễn ra giữa hai hay nhiều người nhưng trước sự theo dõi
7


của đông đảo tầng lớp nhân dân. Phản biện xã hội thường xuất hiện trên các
phương tiện thông tin đại chúng: báo chí (báo in, báo mạng), phát thanh, truyền
hình ; trên các diễn đàn, hội nghị… Phản biện xã hội thể hiện tính dân chủ trong xã
hội văn minh.
- Phản biện khoa học là phản biện trong các ngành khoa học. Đây là phản
biện của những người nghiên cứu khoa học, có trình độ chuyên môn cao. Phản biện
khoa học diễn ra trong các hội nghị khoa học, các buổi bảo vệ luận văn, luận án
khoa học, công bố công trình khoa học… Phản biện khoa học thể hiện những bước
tiến và trí tuệ của con người.
- Phản biện trong dạy học là phản biện diễn ra trong quá trình dạy học, giữa
học sinh với học sinh, học sinh với giáo viên và ngược lại. Phản biện trong dạy học
thể hiện tinh thần chủ động, tích cực, sáng tạo của người học và tính dân chủ của
giờ học.
- Lập luận phản biện là quá trình lập luận để đưa ra phản biện. Nó là sự phối
kết hợp các thao tác lập luận giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận… Lập
luận phản biện phải rõ ràng, lôgíc, đầy đủ bằng chứng, tỉ mỉ và công tâm. Phản biện
có sức thuyết phục hay không là nhờ lập luận.

1.2 Biểu hiện của tư duy phản biện trong học tập lịch sử
Đặc điểm của người có tư duy phản biện là:
- Không có thành kiến: người có tư duy phản biện là người ham tìm hiểu,
biết lắng nghe và có thể chấp nhận ý kiến trái ngược với mình.
- Biết vận dụng các tiêu chuẩn: Một khẳng định bất kỳ phải được dựa trên
những sự thật chính xác có liên quan, từ các nguồn đáng tin cậy, rõ ràng, không
thiên lệch, thoát khỏi logic ngụy biện, hợp logic, lí lẽ vững chắc.
- Có khả năng tranh luận: đưa ra các lí lẽ với các bằng chứng hỗ trợ.
- Có khả năng suy luận: có khả năng rút ra kết luận từ một hoặc nhiều chi tiết.
- Xem xét vấn đề từ nhiều phương diện khác nhau: người có tư duy phản
biện cần phải tiếp cận hiện tượng từ nhiều quan điểm khác nhau.
- Áp dụng các thủ thuật tư duy: Người có tư duy phản biện sử dụng nhiều
thủ thuật tư duy khác nhau, bao gồm đặt câu hỏi, đưa ra các phán đoán, thiết
8


lập các giả định.
Như vậy, biểu hiện của HS có tư duy phản biện là ở bất cứ thời điểm nào,
trong hoàn cảnh, tình huống nào cũng phải sẵn sàng động não, suy luận và đánh
giá; luôn luôn sẵn sàng lắng nghe, nhưng trước khi chấp nhận bất cứ ý kiến nào
phải chủ động phân tích và đánh giá. Trước khi giải quyết một vấn đề, luôn xem xét
kỹ mọi góc độ, mọi khía cạnh, đưa ra nhiều phương án khác nhau và lựa chọn được
phương án tối ưu với những lập luận có cơ sở vững chắc, từ đó tránh được hiện
tượng nhìn nhận xem xét vấn đề một chiều, phiến diện. Ngoài ra, HS có tư duy
phản biện là người có kĩ năng giao tiếp tốt, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của
người khác trong lúc tranh luận, sẵn sàng chấp nhận một kết luận khi có luận điểm,
luận cứ khoa học, logic và hợp lí.
Tham khảo các đặc điểm trên, tư duy phản biện trong học tập Lịch sử được
biểu hiện qua một số dấu hiệu sau:
- Biết đề xuất những câu hỏi thắc mắc về các nhân vật, sự kiện Lịch sử.

Muốn đề xuất thắc mắc hay câu hỏi thì đầu tiên là HS phải biết nhận diện, xác định
được vấn đề đang được nói đến, đó có thể là: các nhân vật, sự kiện, hiện tượng,
quan điểm nhìn nhận trong Lịch sử.
- Biết thu thập và đánh giá thông tin về các sự kiện, nhân vật Lịch sử. Người
có TDPB là người biết xem xét vấn đề ở nhiều phương diện, muốn vậy cần phải hiểu
sâu sắc và cặn kẽ về vấn đề đó. Vì vậy, việc thu thập và đánh giá thông tin về một
vấn đề LS là yêu cầu quan trọng bởi vì Lịch sử chỉ xảy ra duy nhất một lần nhưng
nhận thức về nó có nhiều và không phải nhận thức nào cũng đúng, khách quan. Một
sự kiện Lịch sử càng có nhiều tư liệu, thông tin chứng minh càng chính xác.
- Xem xét một vấn đề Lịch sử từ nhiều khía cạnh khác nhau, biết chấp nhận
tính đa dạng, đa chiều trong nhận thức Lịch sử.
- Có khả năng bình luận, đánh giá quan điểm khác nhau về một vấn đề Lịch
sử. Đồng thời sẵn sàng bảo vệ ý kiến, quan điểm của mình với các luận điểm, luận
cứ lí lẽ chuẩn xác thuyết phục người nghe, người đọc.
- Đưa ra được nhận xét, đánh giá về sự kiện, nhân vật, hiện tượng Lịch sử.
Có khả năng lựa chọn tư liệu, sự kiện cho bài biết của mình.
9


1.3 Vai trò, ý nghĩa của việc phát triển tư duy phản biện cho HS trong dạy học lịch sử
Học tập trong thời đại mới không nhằm vào cung cấp kiến thức vì tham vọng
trang bị đầy đủ tri thức cho HS là không thể thực hiện được. Giáo dục hiện nay cần
tập trung vào trang bị kĩ năng xử lí thông tin, kĩ năng thu nhận những tri thức cần
thiết – tri thức mà người học thấy cần cho họ. Đó chính là lí do việc phát triển
TDPB cho HS được coi trọng. Dạy học Lịch sử cũng không nằm ngoài yêu cầu
chung đó.
Trong dạy học Lịch sử việc rèn luyện cho học sinh TDPB có ý nghĩa quan
trọng, nó góp phần thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của bộ môn Lịch sử ở trường
phổ thông.
Về kiến thức: Tư duy phản biện là thước đo mức độ mức độ tiếp thu kiến

thức của HS bởi vì nó không chỉ giúp HS thu nhập kiến thức Lịch sử một cách có
hệ thống mà còn hiểu Lịch sử một cách chính xác nhất, sâu sắc nhất. Tư duy phản
biện chỉ được hình thành trên cơ sở HS nắm được kiến thức cơ bản của bài, trình
bày được ý kiến, tranh luận với người khác. Muốn vậy, HS phải có sự hiểu biết sâu
sắc vấn đề đang được bàn luận. Không có con đường chiếm lĩnh tri thức nào khác
ngoài con đường tự mình tìm kiếm, đọc hiểu và tiếp thu. Qua quá trình tìm kiếm,
chọn lọc thông tin các em đã có những hiểu biết nhất định về các nhân vật sự kiện
Lịch sử, những hiểu biết ấy sẽ được kiểm chứng, được xem xét đánh giá, được làm
rõ hơn qua quá trình tranh luận, thảo luận với bạn bè, thầy cô.
Tư duy phản biện giúp HS nhìn nhận, đánh giá sự kiện, nhân vật Lịch sử một
cách chính xác, khoa học, ở nhiều khía cạnh khác nhau, với nhiều cách nhìn làm
cho nhận thức Lịch sử của các em mang tính đa chiều, khoa học và khách quan
hơn. Qua những lần lập luận, tranh luận, HS thu được kiến thức phong phú, sâu sắc,
toàn diện về một vấn đề. Đó thực sự là kiến thức do chính các em kiến tạo nên bởi
vì “kiến thức chỉ thực sự là kiến thức khi nó là thành quả của tư duy chứ không
phải của trí nhớ” (Leptonxtoi).
Về kĩ năng: Tư duy phản biện hiện nay đã trở thành một xu hướng trong lĩnh
vực giáo dục. Nói cách khác tư duy phản biện là một loại năng lực tư duy HS cần
phải có. Dạy học Lịch sử nhằm phát triển năng lực sáng tạo sẽ giúp HS rèn luyện
nhiều thao tác tư duy như: phân tích, tổng hợp, phán đoán, suy luận, lập luận…đó
là những thao tác tư duy cần thiết trong học tập nói chung, học tập Lịch sử nói
10


riêng. Đồng thời, khi có được năng lực phản biện, HS có được nhiều kĩ năng cơ bản
cần thiết khác như khả năng giao tiếp tốt, kĩ năng nêu và giải quyết vấn đề, kĩ năng
đặt câu hỏi, kĩ năng phân tích và lập luận...
Tư duy phản biện giúp HS vận dụng linh hoạt kiến thức đã học vào việc tiếp
thu kiến thức mới và thực tiễn cuộc sống, phát triển năng lực thực hành. Học tập
Lịch sử không chỉ là việc thu nhận tri thức mà quan trọng hơn HS phải vận dụng

được những tri thức Lịch sử, những bài học kinh nghiệm từ Lịch sử vào chính cuộc
sống của mình. Vì vậy, khi xem xét, đánh giá sự kiện, nhân vật Lịch sử là cơ sở để
HS có thể vận dụng để đánh giá các vấn đề, hiện tượng xảy ra trong cuộc sống.
Mục đích cuối cùng của học Lịch sử là biết dùng "tư duy sử học" để nhận thức hiện
thực một cách phê phán, khoa học và lô - gic. Từ nhận thức đúng đắn sẽ dẫn tới
hành động nhân văn, hợp với lẽ đời.
Về thái độ: Tư duy phản biện giúp HS lựa chọn niềm tin, tìm ra chân lý từ
đó các em có tình cảm, thái độ đúng đắn với các sự kiện, nhân vật Lịch sử. Những
con người thật, việc thật ấy có tác dụng giáo dục tư tưởng, tình cảm và định hướng
hành động cho HS.
Mục đích cuối cùng của dạy học Lịch sử không phải để giúp HS nhớ rõ năm
tháng, tên nhân vật, tên địa danh… mà qua những sự kiện Lịch sử chân thực, chính
xác HS có hiểu biết về quy luật phát triển của Lịch sử loài người, hiểu hiện thực xã
hội mình sống. Từ đó có thái độ tích cực trong việc góp phần xây dựng một cuộc
sống tương lai tốt đẹp hơn trên cơ sở những kinh nghiệm, bài học từ quá khứ.
Thông qua việc đánh giá sự kiện, nhân vật Lịch sử góp phần hình thành ở các
em những suy nghĩ, tình cảm tốt đẹp, trong sáng như: niềm tin vào chân lý, vào sự
thật; Thái độ mến yêu, khâm phục, biết ơn những con người có đạo đức phẩm chất
tốt, dũng cảm, yêu nước và có đóng góp cho Lịch sử; Học tập theo những tấm
gương anh hùng, những người có ý chí cao cả; cảm thông chia sẻ với những con
người trong quá khứ; xúc động trước những hành động hi sinh vì chính nghĩa, vì
độc lập dân tộc; nuôi khát vọng, mơ ước được đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc.
1.4 Cấu trúc của giờ học lịch sử nhằm phát triển TDPB cho học sinh
Dựa vào đặc trưng của tư duy phản biện, các nguyên tắc của tư duy phản
11


biện và kinh nghiệm của các nhà nghiên cứu, tôi cho rằng cấu trúc một giờ học
Lịch sử nhằm phát triển tư duy phản biện cho HS bao gồm các bước cơ bản sau:

Bước thứ nhất: GV “đề xướng” vấn đề, đưa ra vấn đề cần thảo luận. Đây
là bước quan trọng nhất, quyết định đến sự thành công của giờ học. Vấn đề GV
đưa ra cần đáp ứng các điều kiện sau: Thứ nhất, phải là vấn đề có sức cuốn hút,
hấp dẫn, thu hút sự tò mò và mong muốn tìm hiểu của HS. Thứ hai, đó là vấn đề
có thể có nhiều cách nhìn nhận khác nhau, nhiều ý kiến khác nhau khiến HS tranh
luận sôi nổi. Thứ ba, phải là vấn đề liên quan đến nội dung học tập được quy định
trong chương trình, SGK và khi càng tìm hiểu kĩ về nó HS sẽ có được những hiểu
biết về Lịch sử một cách phong phú, sâu sắc và đúng đắn.
Bước thứ hai: Sau khi đề xướng vấn đề GV tổ chức cho HS thiết lập giả
thiết (đưa ra ý kiến) và tiến hành thảo luận, tranh luận dưới các hình thức khác nhau
như theo nhóm học tập, toàn lớp, giữa các cá nhân.
Cách tiến hành thảo luận là mỗi câu hỏi HS sẽ đưa ra các ý kiến (giả thuyết)
của mình, GV có thể chọn ra các giả thuyết để ghi lên bảng cho cho HS tranh luận.
Mỗi một giả thuyết được nêu ra phải có sự giải thích, chứng minh. Các HS có giả
thuyết được lựa chọn sẽ phải bảo vệ, chứng minh nó. Những HS khác sẽ nhận xét,
đưa ra câu hỏi, phản đối, phê phán, tạo ra cuộc tranh luận giữa các HS. Cuối cùng,
GV sẽ giúp HS đánh giá các giả thuyết bằng việc lấy ý kiến tán thành cho mỗi giả
thuyết (cho HS giơ tay biểu quyết hoặc bỏ phiếu tán thành).
Bước thứ ba: Tổng kết và hướng dẫn HS học tập sau giờ học
Sau khi buổi thảo luận, tranh luận kết thúc GV có thể đưa ra các gợi ý cho
những câu hỏi và vấn đề đã được thảo luận, tranh luận hoặc đưa ra gợi ý về nội
dung kiến thức HS cần nắm trong bài học. Để kiểm tra kết quả nhận thức và tư duy
phản biện (TDPB) của HS, làm sâu sắc thêm nhận thức Lịch sử của HS, GV có thể
đưa ra bài tập, các câu hỏi kiểm tra. Bài tập và câu hỏi kiểm tra tuỳ theo mục tiêu
của bài, mục đích sư phạm của GV nhưng cần hướng vào việc vận dụng tri thức
hoặc thu hoạch kết quả của buổi thảo luận, tranh luận.
Trong giờ học Lịch sử nhằm phát triển TDPB thì GV có vai trò là người
điều khiển, tổ chức giống như các “huấn luyện viên” hay “điều phối viên” đồng
thời GV còn đóng vai trò là người “trọng tài”, “tư vấn” và là trung tâm giải đáp
12



các thắc mắc của HS. Như vậy, GV phải là người không chỉ có kiến thức chuyên
môn sâu mà còn là người có năng lực tổ chức, điều khiển giờ học.
HS là chủ thể nhận thức tích cực, tự chủ, sáng tạo trong việc tìm kiếm thông
tin, đưa ra các câu hỏi, xây dựng các lập luận, lập kế hoạch giải quyết vấn đề, đưa
ra các ý tưởng, ý kiến của mình….
Như vậy, chúng ta có thể thấy đặc điểm của giờ học nhằm phát triển tư duy
phản biện là giờ học HS là chủ thể của quá trình nhận thức, kiến thức bài học, mọi
kết luận, mọi câu trả lời đều do HS tự tìm kiếm và chiếm lĩnh qua quá trình thảo
luận, tranh luận, phản bác nhau. HS trung học phổ thông có đặc điểm tâm lí muốn
khẳng định bản thân mình, luôn cố gắng chứng minh để bảo vệ ý kiến của mình,
thậm chí còn có tâm lí ganh đua, đố kị. Đặc điểm tâm lí này có tác dụng tích cực
trong giờ học phát triển TDPB. Vì vậy, hoạt động thảo luận và không khí tranh
luận, phản bác nhau trong lớp luôn diễn ra sôi nổi. Thông qua việc nêu ý kiến, đưa
ra giả thuyết, chứng minh nó, đặt câu hỏi, trả lời, phản đối, phản bác nhau, tranh
luận với nhau HS sẽ dần có năng lực phản biện, năng lực xử lí thông tin.
Chúng ta có thể thấy rằng bản chất của giờ học nhằm phát triển TDPB cho
HS chính là giờ học theo quan điểm dạy học giải quyết vấn đề. Đó là quá trình HS
nhận biết vấn đề, tìm phương án giải quyết và cuối cùng quyết định cách giải quyết.
Giờ học phát triển TDPB có ưu điểm so với các giờ học thông thường là ở đó
HS chủ động tham gia vào quá trình trao đổi, thảo luận, thu hút được tất cả HS
trong lớp vào quá trình học tập, ai cũng được tự do phát biểu suy nghĩ của mình,
không khí giờ học thoải mái, vui vẻ và HS cảm thấy hứng thú. Quan điểm chỉ đạo
của giờ học là HS không tiếp nhận thụ động, vô điều kiện các tri thức mà GV đưa
ra, coi nó là chân lý tuyệt đối mà dưới sự trợ giúp, hướng dẫn của GV, HS sẽ phải
tìm kiếm các tri thức từ nhiều nguồn khác nhau và biến nó thành tư duy của mình
2. Phản biện trong dạy học ở Việt Nam và quan niệm của giáo viên về TDPB
trong dạy học lịch sử
Ở Việt Nam, các nhà giáo dục cũng đã quan tâm đến phát triển tư duy phản

biện cho học sinh. Đa số giáo viên đều nhận thức được và khẳng định vai trò quan
trọng của việc phát triển TDPB cho HS trong DHLS và môn Lịch sử có khả năng,
ưu thế trong việc phát triển TDPB cho HS. Vì vậy, chú trọng loại tư duy này trong
dạy học là cần thiết.
13


Quan niệm của GV về TDPB: Một số GV quan niệm TDPB là quá trình vận
dụng tích cực trí tuệ vào việc phân tích, tổng hợp, đánh giá sự việc, ý tưởng, giả
thuyết. Một số GV khác đồng ý với quan niệm là một quá trình tư duy nhằm chất
vấn các giả định hay giả thiết để khẳng định một nhận định là đúng hay sai. Nhiều
GV cho rằng TDPB là một quá trình tư duy giúp con người đánh giá, phân tích một
thông tin, một vấn đề đã có ở nhiều khía cạnh hoặc theo các cách nhìn khác nhau
nhằm làm rõ tính chính xác và khẳng định niềm tin của chính mình.
Quan niệm của GV về các phương pháp, kĩ thuật dạy học có ưu thế và tác
dụng phát triển TDPB cho HS trong dạy học Lịch sử. Trong đó, các phương pháp
dạy học được các GV cho là mang lại hiệu quả cao: Thảo luận, tranh luận; làm việc
nhóm; dạy học giải quyết vấn đề và những kĩ thuật dạy học mới. Tuy nhiên, vẫn
còn một số lượng không nhỏ GV còn chậm đổi mới, vẫn quen với mô hình dạy học
“thầy thuyết trình, trò lắng nghe, ghi chép”. Kiểu dạy học “truyền thụ tri thức này”
là rào cản cho việc thực hiện mục tiêu phát triển TDPB cho HS.
3. Thực trạng về nhu cầu và năng lực TDPB của học sinh
Khi được hỏi về phương pháp dạy học LS em được thường xuyên tiếp cận là
gì: Đa số HS trả lời “nghe thầy cô giảng và ghi chép”. Một số HS được học tập theo
phương pháp tổ chức trao đổi thảo luận với bạn bè thầy cô, làm việc nhóm. Nhiều
HS phản ánh chưa bao giờ được trình bày ý kiến, quan điểm riêng của mình về các
nhân vật, sự kiện Lịch sử. Số HS khác tâm sự rằng đã nhiều lần thắc mắc và hoài
nghi về một vấn đề nào đó của Lịch sử nhưng không dám đứng lên hỏi thầy cô và
phát biểu.
HS lười tư duy đặc biệt là chưa có TDPB, điều đó thể hiện qua việc HS lúng

túng, không trả lời được với những câu hỏi như: Làm thế nào để đánh giá đúng một
nhân vật, một sự kiện Lịch sử hay một vấn đề nào đó trong cuộc sống? Khi có nhiều
thông tin khác nhau về một vấn đề, làm thế nào để tìm ra thông tin đáng tin nhất?
Qua thực tế giảng dạy, hiện tượng “ỳ tư duy” trong học sinhg Trường THPT
Phạm Công Bình là đáng báo động. Trong các giờ học, các em ít tương tác, học một
cách thụ động, không hào hứng với tiết dạy. Các câu hỏi cũng như hoạt động do
giáo viên đưa ra chỉ có một bộ phận nhỏ học sinh hưởng ứng.

14


CHƯƠNG II: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP PHÁT HUY TƯ DUY PHẢN BIỆN
CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC CHỦ ĐỀ KHUYNH HƯỚNG DÂN
CHỦ TƯ SẢN TRONG PHONG TRÀO CÁCH MẠNG VIỆT NAM TỪ ĐẦU
THẾ KỈ XX ĐẾN NĂM 1930.
1. Vị trí, mục tiêu của chuyên đề
1.1. Vị trí.
Chuyên đề khuynh hướng dân chủ tư sản trong phong trào cách mạng Việt
Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1930 là một trong những nội dung trọng tâm trong
chương trình ôn luyện THPT QG. Đây là giai đoạn đánh dấu nhiều chuyển biến của
phong trào cách mạng Việt Nam.
1.2. Mục tiêu
1.2.1. Kiến thức
- Nắm được những điều kiện dẫn đến sự ra đời của khuynh hướng dân chủ tư
sản ở Việt Nam, rút ra được điều kiện cơ bản đóng vai trò quyết định cho sự hình
thành đó.
- Nắm được những nét cơ bản của tư tưởng dân chủ tư sản, thông qua đó có
bước so sánh với phong trào đấu tranh theo ý thức hệ phong kiến cuối thế kỉ XIX,
cũng như so sánh với khuynh hướng cách mạng vô sản.
- Những hoạt động tiêu biểu, bước phát triển của khuynh hướng dân chủ tư

sản từ đầu thế kỉ XX đến những năm 1919- 1925. Qua đó, đánh giá được những
đóng góp, vai trò của khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản đối với sự nghiệp
cách mạng Việt Nam.
- Rút ra được nguyên nhân thất bại, cũng như bài học kinh nghiệm để lại của
khuynh hướng dân chủ tư sản đối với cách mạng Việt Nam.
- Nắm được các dạng bài tập của chuyên đề.
15


1.2.2. Tư tưởng, thái độ
- Nhận thức được quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc là một quá trình đấu
tranh gian khổ của dân tộc; sự sàng lọc khắt khe của lịch sử để chọn ra con đường
đúng đắn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam.
- Hiểu được khuynh hướng dân chủ tư sản giống như cây cầu nối, đánh dấu sự
chuyển tiếp phát triển của cách mạng Việt Nam từ cuối thế kỉ XIX đến năm 1930.
- Trân trọng những thành quả cách mạng mà cha ông ta để lại; nhận thức rõ để
có được thắng lợi của cách mạng đã phải đánh đổi rất nhiều sự hi sinh của cha ông.
1.2.3. Kỹ năng
- Biết phân tích, đánh giá, rút ra các đặc điểm của sự kiện lịch sử. Kĩ năng sử
dụng bản đồ lịch sử và sơ đồ để nhận thức lịch sử.
- Biết đối chiếu, so sánh các sự kiện lịch sử. Khả năng đánh giá, nhận định
hành động của các nhận vật lịch sử.
- Rèn luyện kĩ năng phân tích tính chất, vai trò lịch sử của các tổ chức, đảng
phái chính trị, nhận thức đúng tư tưởng theo cách mạng vô sản.
1.2.4. Năng lực hình thành
- Hiểu được tác động của cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đối
với kinh tế, xã hộiViệt Nam,từ đó rút ra được mâu thuẫn cơ bản nhất của xã hội
Việt Nam lúc bấy giờ là gì?
- Tác động của những chuyển biến xã hội đến sự hình thành phong trào
cách mạng Việt Nam theo các khuynh hướng khác nhau, đặt ra yêu cầu cần phải

có một con đường cách mạng đúng đắn để giải phóng dân tộc.
1.2.5. Phương pháp
16


- Thực hiện xây dựng kiến thức theo hướng bổ dọc kiến thức, tạo thành hệ
thống kiến thức xuyên suốt, học sinh dễ hiểu và nắm được kiến thức.
- Thực hiện hoạt động trao đổi nhóm, tham vấn, chơi trò chơi lịch sử kết
hợp với các lược đồ, tranh ảnh, bảng biểu. Việc thực hiện trò chơi lịch sử trong
giờ học sẽ tạo không khí mới, khuyến khích học sinh hoạt động; giờ học bớt căng
thẳng, phù hợp với học sinh trường THPT Phạm Công Bình. Giáo viên chia thành
các nhóm, các nhóm chuẩn bị trước phần câu hỏi hoặc trò chơi để hỏi hoặc tổ
chức cho các nhóm còn lại. Trong quá trình thực hiện chuyên đề, tác giả sử dụng
chủ yếu là bảng biểu và trò chơi lịch sử.
2. Kiến thức cơ bản
2.1 Bảng mô tả nhận thức
Nhận biết
Thông hiểu
Vận dụng
Nắm được điều Phân biệt được

Vận dụng cao
Rút ra được nét

kiện hình thành điều kiện chủ quan

tiến bộ, hạn chế

khuynh


của khuynh hướng

hướng và khách quan.

dân chủ tư sản ở

So

sánh

được dân chủ tư sản.

Việt Nam.

khuynh hướng dân Giải thích được tại

Trình bày được Rút ra được hoạt chủ tư sản với ý sao lại thất bại.
các hoạt động đấu động

tiêu

biểu thức

hệ

phong

tranh của khuynh nhất của khuynh kiến cuối thế kỉ
hướng dân chủ tư hướng dân chủ tư XIX và khuynh
sản từ 1919-1930.


sản.

hướng vô sản từ

Trình bày được Nắm được ý nghĩa chiến

tranh

thế

những nét cơ bản lịch sử, nguyên giới thứ nhất đến
của tổ chức Việt nhân thất bại của năm 1930.
Nam

Quốc

dân khuynh hướng

đảng.
17


2.2 Kiến thức cơ bản
I. Điều kiện hình thành khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam
1. Điều kiện khách quan
- Thế kỉ XX là thời kỳ cáo chung của chế độ phong kiến, sự thắng thế của CNTB
trên quy mô toàn thế giới, nhiều nước châu Á mang nặng tư tưởng phong kiến cũng
đã chuyển biến theo con đường tư sản đã tác động mạnh đến nhận thức của giới sỹ
phu yêu nước tiến bộ Việt Nam.

- Tư tưởng dân chủ tư sản tiến bộ trên thế giới đã được du nhập vào Việt Nam:
+ Tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản tiến bộ ở Pháp
+ Tư tưởng duy tân ở Nhật Bản với cuộc cải cách của Minh Trị, cuộc vận
động duy tân của Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi ở Trung Quốc…
+ Tư tưởng Tam dân của Tôn Trung Sơn với cuộc cách mạng Tân Hợi 1911 ở
Trung Quốc
2. Điều kiện chủ quan
- Phong trào đấu tranh theo ý thức hệ phong kiến cuối thế kỉ XIX, tiêu biểu là
phong trào Cần Vương, thất bại đã đặt ra yêu cầu cần phải tìm ra một con đường
cứu nước mới.
- Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp (1897 – 1914) đã tác
động mạnh mẽ đến nến kinh tế Việt Nam, dẫn đến sự phân hóa xã hội. Đặc biệt, sự
ra đời của các lực lượng xã hội mới (tư sản, công nhân, tiểu tư sản) đã tạo nên cuộc
vận động bên trong của phong trào yêu nước theo khuynh hướng cứu nước mới đầu
thế kỉ XX: khuynh hướng dân chủ tư sản.

18


- Một bộ phận văn thân sĩ phu tiến bộ đã tiếp thu tích cực luồng tư tưởng mới, và
tích cực hoạt động trong những năm đầu thế kỉ XX.
- Đầu thế kỉ XX, khuynh hướng dân chủ tư sản đã ra đời, nhanh chóng được quần
chúng nhân dân hưởng ứng, đặc biệt là các văn thân sĩ phu tiến bộ, tiêu biểu là
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.
II. Khuynh hướng dân chủ tư sản trong những năm đầu thế kỉ XX
1. Hoạt động của Phan Bội Châu
- Mục đích: đánh đuổi giặc Pháp, giải phóng dân tộc, xây dựng nền dân chủ.
- Chủ trương: bạo động
+ Từ 1904 – 1908: dựa vào Nhật, đánh đuổi giặc Pháp, giành độc lập, thành
lập nền quân chủ lập hiến.

+ Từ 1912: Đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục Việt Nam, thành lập Việt Nam
dân quốc.
- Xu hướng: bạo động.
- Hoạt động tiêu biểu:
+ Từ 1904- 1908: thành lập Hội Duy tân, tổ chức phong trào Đông Du nhưng
thất bại.
+ Từ 1912 đến 1914: Thành lập Việt Nam Quang phục hội, tổ chức bạo động
giành chính quyền.
+ Năm 1913: Phan Bội Châu bị bắt.
2. Hoạt động của Phan Châu Trinh
- Mục đích: đánh đuổi giặc Pháp, giải phóng dân tộc, xây dựng nền dân chủ.
19


- Chủ trương: cải cách, nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí, dựa vào Pháp lật đổ
chế độ phong kiến, , coi đó là điều kiện tiên quyết để giải phóng dân tộc.
- Xu hướng: cải cách.
- Hoạt động tiêu biểu:
+ Từ 1906 – 1908: Tổ chức Cuộc vận động Duy tân ở Trung Kì cùng một số
văn thân sĩ phu tiến bộ, tiến hành cải cách trên một số lĩnh vực: kinh tế, văn hóa,
giáo dục.
+ Năm 1908: Phan Châu Trinh bị Pháp bắt và đưa sang Pháp.
* Bảng so sánh hoạt động của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh

Nội dung
Mục đích

Phan Bội Châu
Phan Châu Trinh
Giải phóng dân tộc, thành lập Giải phóng dân tộc, thành lập dân


dân chủ
chủ
Chủ trương Cứu nước rồi cứu dân
Cứu dân rồi cứu nước
Xu hướng
Bạo động
Cải cách
Kết quả
Thất bại
Thất bại
Điểm giống: Đều muốn giải phóng dân tộc, chịu sự chi phối của hệ tư tưởng dân
chủ tư sản; muốn xây dựng xã hội mới dân chủ tiến bộ.
Điểm khác: Phan Bội Châu chủ trương bạo động, Phan Châu Trinh chủ trương cải
cách.
3. Nguyên nhân thất bại
* Khách quan
- Thực dân Pháp còn mạnh, bộ máy cai trị đã ổn định.
* Chủ quan
20


- Chưa có một giai cấp tiên tiến và đường lối cứu nước đúng đắn:
+ Người tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản là các sĩ phu xuất thân từ nho giáo
nên có những hạn chế.
+ Tư tưởng dân chủ tư sản tuy còn mới với người dân Việt Nam nhưng không
đáp ứng được yêu cầu giải phóng dân tộc.
- Xã hội Việt Nam chưa phân hóa thuần thục: giai cấp tư sản và tiểu tư sản chưa ra
đời, giai cấp công nhân còn ít về số lượng và trong tình trạng tự phát; giai cấp nông
dân nặng về ý thức tư hữu và không có hệ tư tưởng riêng.

- Phong trào đấu tranh thiếu sự liên kết, thống nhất.
4. Điểm mới của khuynh hướng dân chủ tư sản đầu thế kỉ XX so với ý thức hệ
phong kiến cuối thế kỉ XIX.
- Xã hội: có sự ra đời của các lực lượng xã hội mới (công nhân, tư sản, tiểu tư sản).
- Tư tưởng: nhận thấy được sự thối nát của chế độ phong kiến, muốn xây dựng một
xã hội dân chủ mới tiến bộ hơn; gắn liền cứu nước với cứu dân.
- Lãnh đạo: Bộ phận văn thân sĩ phu tiến bộ, tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản từ bên
ngoài vào.
- Lực lượng tham gia: đông đảo quần chúng nhân dân.
- Phương pháp đấu tranh: không hạn chế trong khởi nghĩa vũ trang, phương pháp
đấu tranh phong phú (bạo động, cải cách…)
III. Sự phát triển của khuynh hướng dân chủ tư sản từ 1919 đến năm 1930
1. Tình hình xã hội Việt Nam trong những năm sau chiến tranh thế giới thứ nhất
* Trên thế giới
21


- Cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, một trật tự thế giới mới hình thành:
Trật tự Vecxai – Oasinhtơn.
- Cuộc cách mạng tháng Mười Nga giành thắng lợi năm 1917 đã tác động mạnh mẽ
đến phong trào cách mạng thế giới.
- Sự phát triển của phong trào công nhân trên thế giới, với sự ra đời của các đảng
cộng sản (Đảng công sản Pháp…) đã dẫn đến sự ra đời của Quốc tế Cộng sản nhằm
lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới.
- Thực dân Pháp là nước thắng trận nhưng bị tàn phá nặng nề. Để khắc phục hậu
quả chiến tranh và khôi phục vị thế của Pháp trước chiến tranh, một mặt Pháp tăng
cường bóc lột nhân dân lao động trong nước, mặt khác đẩy mạnh khai thác hệ
thống thuộc địa, trong đó có Việt Nam.
* Trong nước
- Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp (1919- 1929) đã tác động

mạnh mẽ đến nền kinh tế và dẫn đến sự chuyển biến sâu sắc của xã hội Việt Nam.
- Về kinh tế: quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa có bước phát triển nhưng chỉ mang
tính chất cục bộ ở một số thành thị; về cơ bản, kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế
lạc hậu với phương thức sản xuất phong kiến là chủ yếu, mất cân đối và phụ thuộc
chặt chẽ vào kinh tế chính quốc.
- Về xã hội: phân hóa sâu sắc
+ Địa chủ phong kiến: phân hóa thành hai bộ phận: đại địa chủ ngày càng
giàu có, trở thành tay sai của thực dân Pháp; trung tiểu địa chủ: ít nhiều có tinh thần
kháng Pháp.
+ Nông dân: tiếp tục bị bần cùng hóa; là lực lượng cách mạng to lớn và chỉ
phát huy được sức mạnh khi đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
22


×