Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu Luận CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VỚI VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.44 KB, 16 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐỊA LÍ KINH TẾ – XÃ HỘI ĐẠI CƯƠNG
Tiểu Luận
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VỚI VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG
I. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa, môi trường
1, Công nghiệp hóa
a, Khái niệm công nghiệp hóa: Là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ
các ngành kinh tế của một vùng kinh tế hay một nền kinh tế. Đó là tỷ trọng về lao động, về giá trị
gia tăng, v.v..
Đây là quá trình chuyển biến kinh tế-xã hội ở một cộng đồng người từ nền kinh tế với mức
độ tập trung tư bản nhỏ bé (xã hội tiền công nghiệp) sang nền kinh tế công nghiệp. Công nghiệp
hóa là một phần của quá trình hiện đại hóa. Sự chuyển biến kinh tế-xã hội này đi đôi với tiến
bộ công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của sản xuất năng lượng và luyện kim quy mô lớn. Công
nghiệp hóa còn gắn liền với thay đổi các hình thái triết học hoặc sự thay đổi thái độ trong nhận
thức tự nhiên. Dầu vậy, những thay đổi về mặt triết học là nguyên nhân của công nghiệp hóa hay
ngược lại thì vẫn còn tranh cãi.
b. Lịch sử công nghiệp hóa
Đa phần các xã hội tiền công nghiệp có mức sống không cao hơn mức tự cung tự cấp là
mấy. Có nghĩa là phần đông dân cư tập trung vào sản xuất những vật phẩm cơ bản nhất để tồn tại.
Ví dụ, ở Châu Âu thời Trung Cổ, 80% lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp tự cung tự
cấp.
Một số nền kinh tế tiền công nghiệp, như Hy Lạp cổ đại, đã có các hoạt động trao đổi,
thương mại phát triển nhờ đó đạt được sự thịnh vượng vượt trên mức sinh hoạt cơ bản nhất. Nạn
đói xảy ra thường xuyên ở các xã hội tiền công nghiệp. Song các nước như Hà Lan và Anh ở thế
kỷ 17, 18, các thành quốc Italia ở thế kỷ 15 và Hy Lạp, La Mã cổ đại đã thoát khỏi quy luật trên
nhờ trao đổi và buôn bán sản phẩm nông nghiệp. Theo ước tính, trong thế kỷ 17, nguồn ngũ cốc
của Hà Lan có tới 70% từ nhập khẩu. Người Hy Lạp cổ đại ở thế kỷ 5 trước Công nguyên nhập
khẩu 75% nguồn lương thực.
Anh là nước tiến hành công nghiệp hóa đầu tiên. Đây cũng là quê hương của Cách mạng
công nghiệp và thành phố công nghiệp đầu tiên trên thế giới là Manchester.
Nhiều nước thuộc Thế giới thứ ba bắt đầu các chương trình công nghiệp hóa dưới sự ảnh
hưởng của Hoa Kỳ hoặc Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh nửa cuối thế kỷ 20. Nỗ lực này ở một số


nước Đông Á thành công hơn ở các nơi khác trên thế giới (ngoại trừ các quốc gia tiến hành công
nghiệp hóa muộn mằn châu Âu, dẫu vậy tiến trình của các nước này đã bắt đầu từ trước Chiến
tranh thế giới thứ hai).
Theo báo cáo của Quỹ tiền tệ quốc tế, Hoa Kỳ là quốc gia có sản lượng công nghiệp đứng
đầu thế giới năm 2005, tiếp sau nó là Nhật Bản và Trung Quốc.


Trường ĐH Sư Phạm Huê

Năm học 2016 - 2017

Cơ chế phát triển chủ đạo hiện nay theo các tổ chức tổ chức phát triển quốc tế (Ngân hàng
thế giới, OECD, các tổ chức của Liên hợp quốc và các tổ chức tương tự quốc tế khác) là giảm
nghèo. Cơ chế này vẫn nhấn mạnh vào sự tăng trưởng kinh tế, nhưng tin rằng các chính sách
công nghiệp hóa truyền thống không mang lại hiệu quả dài hạn. Việc tạo ra và hỗ trợ những
ngành công nghiệp nội địa kém hiệu quả là vô ích trong một thế giới tự do thương mại hiện nay.
2. Hiện đại hóa: Là quá trình ứng dụng các trang bị thành tự khoa học và công nghệ tiên tiến
hiện đại vào quá trình sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội.
3. Môi trường
a. Khái niệm môi trường: Là một tổ hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh bên ngoài của
một hệ thống nào đó. Chúng tác động lên hệ thống này và xác định xu hướng và tình trạng tồn tại
của nó. Môi trường có thể coi là một tập hợp, trong đó hệ thống đang xem xét là một tập hợp con.
Môi trường của một hệ thống đang xem xét cần phải có tính tương tác với hệ thống đó.
Một định nghĩa rõ ràng hơn như: Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội
bao quanh con người, ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con
người như: không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người và các thể chế.
Nói chung, môi trường của một khách thể bao gồm các vật chất, điều kiện hoàn cảnh, các
đối tượng khác hay các điều kiện nào đó mà chúng bao quanh khách thể này hay các hoạt động
của khách thể diễn ra trong chúng.
b. Chức năng của môi trường sống:

Môi trường là không gian sống của con người và sinh vật. Trong quá trình tồn tại và phát
triển con người cần có các nhu cầu tối thiểu về không khí, độ ẩm, nước, nhà ở... cũng như các
hoạt động vui chơi giải trí khác. Tất cả các nhu cầu này đều do môi trường cung cấp. Tuy nhiên
khả năng cung cấp các nhu cầu đó của con người là có giới hạn và phụ thuộc vào trình độ phát
triển của từng quốc gia và ở từng thời kì.
Môi trường là nơi cung cấp các nhu cầu về tài nguyên cho con người như đất, đá, tre, nứa,
tài nguyên sinh vật. Tất cả các tài nguyên này đều do môi trường cung cấp và giá trị của tài
nguyên phụ thuộc vào mức độ khan hiếm của nó trong xã hội. - Môi trường là nơi chứa đựng,
đồng hóa các chất thải của con người trong quá trình sử dụng các tài nguyên thải vào môi trường.
Các tài nguyên sau khi hết hạn sử dụng, chúng bị thải vào môi trường dưới dạng các chất thải.
Các chất thải này bị các quá trình vật lý, hóa học, sinh học phân hủy thành các chất vô cơ, vi sinh
quay trở lại phục vụ con người. Tuy nhiên chức năng là nơi chứa đựng chất thải của môi trường là
có giới hạn. Nếu con người vượt quá giới hạn này thì sẽ gây ra mất cân bằng sinh thái và ô nhiễm
môi trường.
4. Khái niệm công nghiệp hóa hiện đại hóa của đảng Cộng Sản Việt Nam.
Là quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện quá trình sản xuất kinh doanh, các hoạt động
dịch vụ buôn bán, quản lý kinh tế – xã hội, phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển
của khoa học công nghệ và tạo ra sản phẩm năng suất lao động cao.
Khái niệm công nghiệp hoá mang tính lịch sử, nghĩa là nền công nghiệp luôn có sự thay
đổi cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, của khoa học – công nghệ. Do đó, việc nhận
thức đúng đắn khái niệm này trong từng giai đoạn phát triển của nền sản xuất xã hội có ý nghĩa to
lớn cả về lý luận và thực tiễn.

Những vấn đề Địa lý Kinh tê - xã hội đại cương

2

Học viên: Đặng Văn Đồng



Trường ĐH Sư Phạm Huê

Năm học 2016 - 2017

Khái niệm công nghiệp hoá trên đây được Đảng ta xác định rộng hơn những quan niệm
trước đó, bao hàm cả về hoạt động sản xuất, kinh doanh, cả về dịch vụ và quản lý kinh tế – xã
hội, được sử dụng bằng các phương tiện và các phương pháp tiên tiến, hiện đại cùng với kỹ thuật
và công nghệ cao. Như vậy, công nghiệp hoá theo tư tưởng mới là không bó hẹp trong phạm vi
trình độ các lực lượng sản xuất đơn thuần, kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ công thành
lao động cơ khí như quan niệm trước đây.
II. Đặc điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta đã mở ra một
giai đoạn phát triển mới với những bước đột phá, góp phần tạo nên những sắc thái mới trong đời
sống kinh tế - xã hội của khu vực rộng lớn này. Sự tác động tích cực của quá trình đó đã và đang
phá vỡ dần tính chất “thuần nông”, tính chất khép kín, biệt lập - những đặc trưng vốn có của nền
kinh tế nông thôn và mô hình làng xã truyền thống. Trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã
hội, bên cạnh những giá trị truyền thống tốt đẹp, đã có sự hiện diện phổ biến của nhiều yếu tố
hiện đại, biểu hiện một khuynh hướng phát triển tích cực và tiến bộ.
Tuy nhiên, ngoài những thành tựu quan trọng trên đây, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá cũng tạo nên sức ép to lớn đối với môi trường sống ở khu vực này.
Như chúng ta đã biết, tự nhiên vốn là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm nhiều yếu tố có
quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau. Điều đó quy định tính chất phản ứng dây chuyền của môi
trường tự nhiên diễn ra khi sự tác động vào một yếu tố nào đó trong hệ thống lớn hơn giới hạn
chịu đựng tự nhiên của nó. Chính tính chất này khiến cho những vấn đề môi trường sống nảy sinh
do tác động của con người càng trở nên phức tạp hơn và có thể để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng
hơn. Trên thực tế, một vấn đề môi trường sống này có thể là kết quả nảy sinh từ một vấn đề môi
trường liên quan khác; đồng thời, nó cũng là nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của một vấn đề
môi trường mới. Với nhãn quan biện chứng, coi trong giới tự nhiên không có cái gì xảy ra một
cách đơn độc cả, Ph.Ăngghen đã từng cảnh báo rằng, con người không nên quá tự hào về thắng
lợi của mình đối với giới tự nhiên, bởi vì, tới một lúc nào đó, nó có thể gây ra những tác dụng

hoàn toàn khác hẳn, không lường trước được. Tiên đoán khoa học vượt trước thời đại đó của ông
vẫn giữ nguyên giá trị và có ý nghĩa vô cùng to lớn, đặc biệt là trong hoàn cảnh hiện nay, khi mà
con người đang cố gắng sửa chữa những sai lầm do sự thái quá trong hành vi “chinh phục tự
nhiên” của mình.
Có thể khẳng định rằng, những vấn đề về môi trường sống nảy sinh trong quá trình phát
triển nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam hiện nay đang ngày càng trở lên phức tạp, cả về quy mô
và tính chất. Nếu không được giải quyết kịp thời và có hiệu quả, sự tác động của chúng sẽ gây ra
những hậu quả nghiêm trọng, cản trở quá trình phát triển bền vững và trước mắt, có thể ảnh
hưởng trở lại mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn. Những vấn đề về môi trường sống dưới
sức ép của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn có thể được nhận diện
trên một số khía cạnh sau:
Một là, nguy cơ cạn kiệt một số nguồn tài nguyên quan trọng liên quan trực tiếp đến các
hoạt động sản xuất và dân sinh của khu vực này. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng
phát triển thì tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt được càng cao, song lượng tài nguyên được huy động
cũng ngày càng lớn. Thực tế cho thấy, do đẩy mạnh tốc độ khai thác gỗ và mở rộng diện tích đất
nông nghiệp, rừng Việt Nam đã bị tàn phá nặng nề. Có lúc, có nơi, độ che phủ của rừng đã tiệm
cận đến mức báo động. Trong thời gian gần đây, nhờ thực hiện chủ trương trồng rừng, phủ xanh
Những vấn đề Địa lý Kinh tê - xã hội đại cương

3

Học viên: Đặng Văn Đồng


Trường ĐH Sư Phạm Huê

Năm học 2016 - 2017

đất trống đồi trọc..., diện tích đất đai có rừng che phủ được cải thiện và nâng cao (từ 28% năm
1992 lên 35,8% năm 2002). Tuy nhiên, rừng trồng mới ít có giá trị lớn, bởi vì, ngoài việc tốn kém

về vật chất và thời gian, rừng trồng khó có khả năng tái tạo lại một hệ động, thực vật phong phú,
đa dạng như rừng tự nhiên. Theo báo cáo của Chính phủ trình tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá XI,
tình trạng phá rừng khai thác gỗ trái phép đã phần nào được hạn chế, song vẫn chưa được giải
quyết một cách triệt để. Tại nhiều địa phương, hiện tượng phá rừng lấy gỗ, mặt bằng khai thác
khoáng sản, mở rộng diện tích canh tác nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản... vẫn xảy ra liên tục.
Sự cạn kiệt và suy giảm của tài nguyên rừng đã trực tiếp tác động xấu đến các nguồn tài nguyên
quý giá khác, như làm xói mòn, bạc màu đất đai, không có khả năng điều hoà và giữ nước. Đặc
biệt, trong thời gian gần đây, các “tai biến địa chất”, “sự cố môi trường” xảy ra do mất rừng có xu
hướng tái xuất hiện nhiều lần ở những phạm vi nhất định và với tần xuất xấp xỉ 20 lần so với giai
đoạn trước 1970.
Tài nguyên đất đai cũng đang bị sử dụng lãng phí, thu hẹp và giảm sút về mặt chất lượng.
Cho đến nửa cuối thập kỷ 90, hầu hết quỹ đất canh tác ở các vùng lãnh thổ đã được khai thác triệt
để. Trong khi đó, một lượng diện tích đáng kể đất nông nghiệp đã và sẽ tiếp tục được chuyển đổi
mục đích sử dụng do nhu cầu phát triển của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, như xây dựng nhà
máy, khu công nghiệp, hạ tầng cơ sở, nhà ở... Chẳng hạn, theo dự kiến quy hoạch mới, đến năm
2010, diện tích đất nông nghiệp của Thành phố Hà Nội chỉ còn chiếm 36,3% (năm 2000 là 47,4%
và năm 2005 là khoảng 41,7%), đất chuyên dùng sẽ chiếm 32,3% (năm 2000 là 22,3% và năm
2005 khoảng 28, 2%), đất đô thị sẽ chiếm 6,4% (năm 2000 là 3,1% và năm 2005 khoảng 4,3%).
Một kết quả nghiên cứu cho thấy, bình quân hàng năm sẽ tăng thêm cho quỹ đất đô thị của cả
nước khoảng 170.000 ha, trong đó có khoảng 100.000 ha đất nông nghiệp loại tốt (bằng 1,4%
tổng diện tích đất nông nghiệp). Việc chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất đai là một nhu cầu tất yếu do
sự phát triển của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và nó có thể mang lại
những giá trị kinh tế lớn gấp nhiều lần so với lối khai thác truyền thống (canh tác nông nghiệp).
Tuy nhiên, những người nông dân không còn đất đai để canh tác sẽ làm gì để duy trì và ổn định
cuộc sống, trong khi việc chuyển đổi nghề nghiệp, lĩnh vực sản xuất kinh doanh lại đòi hỏi có
thời gian và những tiền đề cần thiết khác ngoài tầm tay của họ? Mặt khác, những vấn đề môi
trường phát sinh trong tương lai do sự thay đổi hệ sinh thái tự nhiên, do chất thải sản xuất và sinh
hoạt của con người... sẽ được giải quyết như thế nào, trong khi việc khắc phục những vấn đề môi
trường hiện tại vẫn chưa triệt để và thật sự có hiệu quả? Đó là những vấn đề kinh tế - xã hội và
môi trường không thể xem nhẹ trong quá trình phát triển.

Những hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng là tác nhân đáng kể làm suy giảm chất lượng
đất đai. Việc sử dụng các phương tiện máy móc trên những vùng đất dốc, canh tác không hợp lý,
xu hướng ứng dụng đại trà các giống mới ngắn ngày, năng suất cao đòi hỏi phải bón nhiều phân
hoá học, chất kích thích tăng trưởng... có thể khiến cho đất đai bị vắt kiệt, nhất là các nguyên tố vi
lượng, làm tăng mức độ suy thoái chất lượng đất, hạn chế khả năng tái sử dụng đất, giảm mức độ
phát triển bền vững của hoạt động kinh tế tương ứng. Hơn 100 năm trước, khi đánh giá về những
mặt trái của nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa, C.Mác cho rằng, mỗi bước tiến của nền nông
nghiệp tư bản chủ nghĩa không những là một bước tiến trong nghệ thuật bóc lột công nhân, mà
còn là một bước tiến trong nghệ thuật bóc lột đất đai.
Theo các tiêu chí về mức đảm bảo nước của thế giới, Việt Nam chưa khi nào nằm trong
danh sách các quốc gia thiếu nước hay hiếm nước. Việc khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên này
Những vấn đề Địa lý Kinh tê - xã hội đại cương

4

Học viên: Đặng Văn Đồng


Trường ĐH Sư Phạm Huê

Năm học 2016 - 2017

còn rất lãng phí. Hệ thống thuỷ lợi đôi lúc không phát huy tác dụng tích cực, thậm chí còn tiềm
ẩn những ảnh hưởng xấu như gây cạn kiệt nguồn nước dự trữ ở các khu vực khô... Chỉ tính riêng
trong sản xuất nông nghiệp, lượng nước mặt khai thác hàng năm dùng để tưới cho mùa màng
không vượt quá 40% tổng lượng, còn lại 60% bị thất thoát trong quá trình vận chuyển.
Trong vài năm gần đây, nước ngọt và sạch đã trở thành một vấn đề cấp thiết ở Việt Nam.
Tại một số địa phương đã có hiện tượng nước ngọt bị ô nhiễm, nguồn nước ngầm tụt thấp hàng
chục mét. Điều đó khiến cho việc cung cấp nước ngọt, nước sạch cho nhân dân ở vùng nông thôn
rất khó khăn. Cho đến nay, tỷ lệ người dân ở nông thôn được sử dụng nước sạch mới chiếm

khoảng 46% (trên phạm vi cả nước là hơn 50%). Trong những năm tới, sự phát triển của các hoạt
động kinh tế và dân sinh ở khu vực nông thôn sẽ làm tăng nhu cầu sử dụng tài nguyên này. Theo
dự báo của Viện Khí tượng - Thuỷ văn, lượng nước cần dùng của cả nước vào năm 2010 sẽ chiếm
tới 16,5% tổng lượng dòng chảy/ năm (so với 12,5% vào năm 2000) và trong tương lai không xa,
ở một số vùng, lượng nước cần dùng sẽ gấp vài lần lượng nước có thể cung cấp. Khi đó, nguy cơ
thiếu nước sẽ trở nên rõ ràng và nghiêm trọng hơn.
Hai là, vấn đề ô nhiễm môi trường do tác động của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp nông thôn. Tính chất cực đoan của các phương tiện, quy trình kỹ thuật vànhững
mặt trái, hạn chê của nền nông nghiệp cơ khí hoá, hoá học hoá là nguyên nhân cơ bản gây nên
tình trạng ô nhiễm môi trường, đất, nước... Trong năm 2001, riêng khối lượng nhậpphân bón hoá
học là 3.189 ngàn tấn, thuốc trừ sâu và nguyên liệu là 27.572 tấn. Điều nguy hiểm hơn là, do
thiếu những tri thức cần thiết về khoa học kỹ thuật, do sự tác động của quy luật lợi nhuận trong
cơ chế thị trường..., người nông dân đã lạm dụng các loại hoá chất độc hại như phân vô cơ, thuốc
trừ sâu và các chất kích thích tăng trưởng trong sản xuất nông nghiệp, thậm chí cả một số loại hoá
chất có độ độc tính cao đã bị cấm nhập. Ở hầu hết các địa phương, nông dân tự mua bán, pha chế,
sử dụng và bảo quản thuốc bảo vệ thực vật mà không có sự quản lý, kiểm soát chặt chẽ và chỉ dẫn
cụ thể của cơ quan chuyên môn. Điều đó dẫn đến hậu quả là đất đai, nguồn nước bị ô nhiễm bởi
sự khuyếch tán và tồn đọng của nhiều hoá chất độc hại gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp và
sinh hoạt của dân cư; tính đa dạng sinh học bị suy giảm, một số quần thể sinh vật đất và thuỷ sinh
có ích bị tiêu diệt, làm xuất hiện các loài sâu hại kháng thuốc và là nguyên nhân bùng phát một số
dịch bệnh trong hệ sinh thái nông nghiệp. Đặc biệt, tình trạng trên đã có những ảnh hưởng đối với
sức khỏe con người do sinh sống, làm việc trong môi trường ô nhiễm, do tiêu dùng các loại nông
sản phẩm có dư lượng hoá chất độc hại vượt giới hạn cho phép...
Sự phục hồi, phát triển của các làng nghề và tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, ngoài mặt
tích cực, cũng đang là một nguồn gây ô nhiễm môi trường. Cho đến nay, việc giám sát, quản lý về
phương diện môi trườngsinh thái đối với hoạt động của các làng nghề, các cơ sở sản xuất tiểu thủ
công nghiệp còn rất lỏng lẻo, nếu không nói là vẫn bỏ ngỏ. Theo đánh giá của Bộ Tài nguyên Môi trường, hiện có tới trên 50% số hộ làm nghề và cơ sở sản xuất ở nông thôn đang gây ô nhiễm
môi trường. Chẳng hạn, ở làng nghề Đông Mai (Hưng Yên), hàng năm, việc tái chế chì đã thải
trực tiếp vào môi trường khoảng 70 tấn lá cách, 20 tấn axít và 40 tấn các loại chất thải độc hại
khác; hàm lượng bụi chì, các chất khí SO3, NO2, Mn, Fe... trong khu vực dân cư cao gấp hàng

chục lần tiêu chuẩn cho phép. Nguồn nước mặt và một phần hệ thống nước ngầm ở đây đã nhiễm
độc trầm trọng, vượt tiêu chuẩn từ 50 - 600 lần. Nhiều người bị nhiễm độc dẫn đến các căn bệnh
nguy hiểm, như thần kinh, viêm phổi, đẻ non, quái thai...

Những vấn đề Địa lý Kinh tê - xã hội đại cương

5

Học viên: Đặng Văn Đồng


Trường ĐH Sư Phạm Huê

Năm học 2016 - 2017

Bên cạnh đó, việc xây dựng các cụm công nghiệp vừa và nhỏ được nhiều địa phương tiếp
tục triển khai trong khi chưa có quy hoạch. Điều này đang có ảnh hưởng không nhỏ đến môi
trường nông thôn và sức khoẻ của con người, do chất thải khuyếch tán trên diện rộng và không
được xử lý bằng các biện pháp an toàn. Nếu không tính toán thận trọng, đặc biệt là có những chế
tài đủ mạnh buộc các đơn vị sản xuất kinh doanh phải thực hiện nghiêm túc những quy định về
môi trường thì có thể những giá trị kinh tế đạt được không đủ bù lấp các thiệt hại về mặt tài
nguyên, môi trường. Khi đó, bài toán phát triển chẳng những chưa được giải, mà còn trở nên nan
giải, phức tạp hơn và thậm chí, rơi vào tình trạng bế tắc.
Ba là, nguy cơ suy giảm tính đa dạng sinh học chủ yếu do các hoạt động sản xuất và dân
sinh. Việc ứng dụng một số tiến bộ khoa học, công nghệ chưa được thẩm định, kiểm nghiệm tác
động môi trường; nhập nội một số loài sinh vật lạ khi chưa có sự đánh giá khoa học về mặt sinh
học, sinh thái của chúng đã gây ra những hậu quả lớn. Thực tế cho thấy, quá trình “xói mòn”
nguồn gen trong nông nghiệp và tình trạng phá huỷ đa dạng hệ sinh thái ... đang xảy ra. Một số
dự báo khoa học cho rằng, với tốc độ suy thoái đa dạng sinh học như hiện nay sẽ có nhiều loài
sinh vật quý, nhiều nguồn gen có tính trạng tốt có khả năng bị tuyệt chủng; nhiều hệ sinh thái

quan trọng đối với môi trường sống sẽ bị phá huỷ.
Sự nảy sinh của các vấn đề về môi trường sống dưới tác động của quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở nước ta hiện nay bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân;
trong đó, chủ yếu là:
Trước hêt, phải nói đến năng lực khoa học, công nghệ trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn còn khá hạn chế. Đặc biệt, phương thức và công cụ sản xuất
của các làng nghề, các cơ sở công nghiệp nông thôn còn lạc hậu, thủ công. Tỷ lệ cơ khí hoá của
ngành công nghiệp chế biến nông sản mới đạt khoảng 40%, thiết bị cũ, lạc hậu từ 3 - 4 thế hệ;
trình độ lao động có chuyên môn kỹ thuật ở các làng nghề nông thôn chỉ bằng 25 - 30% so với
các cơ sở ở thành thị, 63% công việc được thực hiện bằng phương pháp thủ công... Thực tế cho
thấy, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trên cơ sở hạ tầng kỹ thuật thấp kém tất yếu sẽ tạo nên sức ép
lớn đối với tài nguyên, môi trường.
Thứ hai, sự phiến diện, thiếu chặt chẽ và thậm chí sai lầm trong một số chính sách, dự án
phát triển kinh tế của các địa phương là một trong những nguyên nhân dẫn đến những hậu quả về
môi trường. Phương châm tăng trưởng kinh tê gắn liền với bảo vệ môi trường chủ yếu mới được
quán triệt về mặt lý thuyết mà chưa trở thành hành động tự giác, phổ biến. Dường như mục tiêu
tăng trưởng kinh tế, lợi nhuận tối đa trên đầu tư tối thiểu vẫn được các chủ thể đặt vào vị trí ưu
tiên, nếu không nói là duy nhất trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thực tế, nhiều dự án phát
triển kinh tế ở các địa phương, như dự án nuôi tôm công nghiệp trên cát, khai thác tận thu khoáng
sản... được phê duyệt, triển khai mà chưa, hoặc không thực hiện nghiêm túc việc đánh giá và
thẩm định khoa học về những tác động môi trường. Do vậy, các biện pháp giải quyết những vấn
đề môi trường chỉ mang tính khắc phục khi ở vào tình thế sự đã rồi, mà chưa đạt đến cấp độ hành
động có tính chủ động và tự giác. Bên cạnh đó, sự quan tâm của các cấp chính quyền, đoàn thể ở
từng địa phương đối với công tác quản lý môi trường còn rất lỏng lẻo, chưa cụ thể; thiếu những
cơ chế, văn bản hướng dẫn thực hiện các biện pháp ngăn chặn, xử lý những đối tượng vi phạm.
Thứ ba, sự yếu kém trong ý thức về bảo vệ môi trường của con người cũng là một nguyên
nhân cơ bản dẫn đến những vấn đề về môi trường sống của khu vực. Ý thức tôn trọng và thi hành
nghiêm chỉnh pháp luật, chính sách và các quy định về bảo vệ môi trường chưa trở thành một nếp
Những vấn đề Địa lý Kinh tê - xã hội đại cương


6

Học viên: Đặng Văn Đồng


Trường ĐH Sư Phạm Huê

Năm học 2016 - 2017

sống văn hoá trong các cộng đồng dân cư, nhất là nông dân. Bản thân các chủ thể sản xuất, kinh
doanh chưa chủ động và tự giác thực hiện đồng bộ, hiệu quả những giải pháp kỹ thuật nhằm xử lý
chất thải, bảo vệ môi trường sống. Thậm chí, không ít người còn giữ quan niệm sai lầm rằng, chi
phí cho các giải pháp bảo đảm an toàn cho môi trường là chi phí không sinh lợi và không cần
thiết. Nguy hiểm hơn là nếp nghĩ, nếp làm cũ của họ lại được “hỗ trợ”, “tiếp sức” bởi sức mạnh
của những phương tiện máy móc, những tiến bộ khoa học, kỹ thuật. Những điều đó đã tạo nên
một sự tấn công dữ dội vào tự nhiên vì mục đích mưu sinh, lợi nhuận của con người, để lại những
hậu quả khôn lường về môi trường sống.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá được coi là chìa khoá để phát triển nông nghiệp và nông
thôn, song nó cũng có mặt trái nhất định. Trước tình hình như vậy, chúng ta cần có sự lựa chọn
con đường phát triển như thế nào đây? Để tăng trưởng kinh tế thì phải hy sinh môi trường sống,
hoặc là vì mục tiêu bảo vệ môi trường sống mà chấp nhận một sự “phát triển” có hệ số bằng
không chăng? Rõ ràng, những phương án trên đều không thể là đối tượng của sự lựa chọn tối ưu.
Theo chúng tôi, một vấn đề có tính nguyên tắc là, trong khi mưu cầu cho sự tồn tại và phát triển
ngày càng tốt hơn của mình, con người cần phải tính đến cả sự tồn tại và phát triển của giới tự
nhiên, phải thiết lập và củng cố mối quan hệ hài hoà với tự nhiên. Nói cách khác, muốn không tự
huỷ diệt và tiếp tục phát triển, con người phải hướng đến một quan niệm mới về sự phát triển
- phát triển bền vững. Hạt nhân xuyên suốt, nguyên tắc chủ đạo của quan niệm phát triển bền
vững là sự đồng tiên hoá giữa con người và tự nhiên. Theo đó, trong quá trình phát triển nông
nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cần tập trung:
Một là, “tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ

mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học”. Trình độ khoa
học, công nghệ là yếu tố quyết định hiệu quả của việc khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn tài
nguyên cũng như hiệu quả của việc bảo vệ môi trường. Đối với sản xuất nông nghiệp, xu hướng
chung hiện nay là ứng dụng các giải pháp kỹ thuật cao, nhất là những thành tựu của công nghệ
sinh học kết hợp với những kinh nghiệm quý của nông dân được đúc kết từ thực tiễn sản xuất. Đó
là cơ sở quan trọng cho việc phát triển một nền nông nghiệp bền vững.
Hai là, phát triển nguồn nhân lực là biện pháp nền tảng để thực hiện tăng trưởng kinh tế
kết hợp với bảo vệ môi trường sống. Con người không chỉ là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã
hội, mà còn là chủ thể của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì thế, phát triển nguồn nhân
lực của khu vực nông nghiệp, nông thôn không thuần tuý chỉ là phát triển trình độ, năng lực hoạt
động kinh tế... mà còn là xây dựng cho con người ý thức đạo đức sinh thái, lối sống “thân thiện”,
“hoà hợp” với tự nhiên. Kinh nghiệm của các nước đi trước cũng như của chính chúng ta cho
thấy, những tri thức về môi trường chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó được xã hội hoá, được quảng bá
rộng rãi trong nhân dân, bởi chính họ là những người hàng ngày, hàng giờ “giao tiếp”, quan hệ
với tự nhiên. Cho nên, giáo dục môi trường phải được xem là một trong những nội dung cơ bản
của mục tiêu nâng cao dân trí. Cần phải làm cho mọi người, nhất là người nông dân có sự nhận
thức đúng về môi trường thông qua các hình thức, “kênh” truyền tải khác nhau. Một khi ý thức
bảo vệ môi trường của mỗi người, mỗi cộng đồng và toàn xã hội trở thành nguyên tắc sống phổ
biến, hoạt động của con người sẽ được điều chỉnh một cách tự giác theo hướng tránh làm tổn hại
đến môi trường.
Ba là, cần quán triệt mục tiêu bảo vệ môi trường trong xây dựng, triển khai thực hiện các
chính sách, dự án phát triển kinh tế. Chúng ta còn nghèo nên phát triển kinh tế là đặc biệt quan
Những vấn đề Địa lý Kinh tê - xã hội đại cương

7

Học viên: Đặng Văn Đồng


Trường ĐH Sư Phạm Huê


Năm học 2016 - 2017

trọng, song không thể đánh đổi nó bằng những hy sinh, tổn thất về môi trường. Tạo những ưu đãi
để thu hút các nhà đầu tư, các dự án phát triển kinh tế là rất cần thiết, nhưng núp dưới danh nghĩa
đó để buông lỏng quản lý nhà nước (hay chấp nhận những rủi ro), hoặc dễ dãi trong yêu cầu bảo
đảm thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường, coi đó như một “sự ưu đãi”..., lại là một sai
lầm và phải trả giá đắt. Những khó khăn về kinh tế của nhiều địa phương cũng như của một bộ
phận nông dân hiện nay rất đáng được thông cảm, chia xẻ..., nhưng không thể vì thế mà tiếp tục
làm cho chất lượng môi trường thêm xấu đi. Họ cần được Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ, hỗ trợ
bằng những biện pháp tích cực, có tính căn bản hơn.
Sinh thời, V.I.Lênin đã từng nhắc nhở rằng, những dự định của con người, nếu không tính
đến quy luật vĩ đại của tự nhiên, sẽ chỉ mang lại những điều bất hạnh mà thôi. Nhiều nhà khoa
học, nhiều tổ chức quốc tế cũng lên tiếng cảnh báo về những hiểm hoạ môi trường tự nhiên nảy
sinh dưới tác động của con người, đặc biệt là những hành động tự phát, thiếu sự định hướng của
các tri thức khoa học. Xét đến cùng, đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và
nông thôn ở nước ta hiện nay là phương thức để “nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện
đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn”. Vì thế, “sử dụng hợp lý và tiêt kiệm tài nguyên, bảo
vệ và cải thiện môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học” phải là một mục tiêu căn bản,
quan trọng như mục tiêu tăng trưởng kinh tế của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn. Có như vậy, quá trình này mới thực sự chứng tỏ và phát huy ý nghĩa kinh
tê và xã hội nhân văn to lớn của nó.
III. Những thách thức nghiêm trọng về môi trường trong quá trình công nghiệp hóa - hiện
đại hóa.
Sau 25 năm đổi mới, nước ta đã vượt qua ngưỡng nước nghèo vào 2010, bước vào
nhóm nước có thu nhập trung bình. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu vượt bậc ấy, chúng
ta đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về môi trường.
Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, hiện nước ta có gần 4000 cơ sở sản xuất,
hơn 1500 làng nghề gây ô nhiễm, hơn 200 KCN cần được kiểm soát về khả năng gây ô nhiễm.
Thực tế là, ô nhiễm nguồn nước, không khí đang lan rộng không chỉ ở các KCN, khu đô thị, mà ở

cả nhũng vùng nông thôn; đa dạng sinh học tiếp tục bị suy giảm; biến đổi khí hậu và nước biển
dâng gây ra triều cường và những hậu quả khôn lường; thành quả phát triển của nhiều địa phương
trong nhiều năm chỉ sau một đợt thiên tai có thể bị xóa sạch.
Trước tình hình đó, ngày 15-11-2004, Bộ Chính trị có Nghị quyết 41- NQ/TW "Về bảo vệ
môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước” đã khẳng định bảo vệ
môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một nội dung cơ bản của phát triển bền vững trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH-HĐH. Năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật bảo vệ môi trường.
Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, nội dung BVMT được nâng lên một tầm cao mới, gắn chặt với quá
trình CNH-HĐH: ''Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình dự án đầu tư''. Một điểm mới so với Đại hội X là
đưa thêm nội dung ''chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; từng bước phát
triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch”.
Quá trình CNH-HĐH đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết đối với môi trường. Chỉ tiêu tăng GDP
gấp 2,2 lần trong 10 năm tới với mức tăng trưởng công nghiệp hằng năm 13% sẽ làm trầm trọng
hơn tình trạng ô nhiễm ở các KCN và vùng đô thị; việc CNH-HĐH các ngành công nghiệp nặng
gây ra những ảnh hưởng không thể bỏ qua với môi trường.
Những vấn đề Địa lý Kinh tê - xã hội đại cương

8

Học viên: Đặng Văn Đồng


Trường ĐH Sư Phạm Huê

Năm học 2016 - 2017

Số liệu của Ủy ban KH-CN-MT của Quốc hội cho thấy, mới có 60 KCN có trạm xử lý nước thải
tập trung (chiếm 42% số KCN đã vận hành). Mỗi ngày, các KCN thải ra khoảng 30.000 tấn chất
thải độc hại ra môi trường. Hầu hết các cụm, điểm, KCN chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn

môi trường.
Đẩy mạnh tiến trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn là động lực lớn phát triển các làng
nghề. Theo thống kê, cả nước có gần 1500 làng nghề và tạo ra 11 triệu việc làm thường xuyên và
không thường xuyên. Tuy nhiên do sản xuất tự phát, sử dụng công nghệ lạc hậu nên phần lớn các
làng nghề gây ô nhiễm môi trường. Một cuộc khảo sát của Bộ Y tế tại 3 tỉnh Nam Định, Bắc
Ninh, Hưng Yên đã cho kết luận, hầu hết các làng nghề không có hệ thống xử lý nước thải và
kiểm soát chất thải rắn.
CHH-HĐH sẽ kéo theo đô thị hóa. Dân số đô thị năm 1996 là 19%, năm 2010 đạt 30% và
dự kiến tăng lên 45% vào 2020. Đây thực sự là sức ép lớn về môi trường trong quản lý đô thị.
Theo nghiên cứu của Bộ KH-CN, các đô thị Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Việt Trì, Ninh Binh, Quy
Nhơn, Nha Trang, Biên Hòa... là những tụ điểm phát thải các chất độc hại. Riêng Hà Nội, mỗi
năm thải vào môi trường nước khoảng 3.600 tấn chất hữu cơ, 320 tấn dầu mỡ, hàng chục tấn kim
loại nặng...
Song song với quá trình CNH-HĐH, chúng ta đang phải chịu những áp lực về thay đổi cấu
trúc và mô hình phát triển do sự cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trườngngày càng lộ rõ. Do đó,
các mối quan tâm về môi trường cần được lồng ghép ngay từ quá trình ra các quyết định về phát
triến kinh tế và xã hội.
Có nghĩa là, cần cụ thể hóa nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thân thiện với
môi trường, tiếp cận mô hình tăng trưởng xanh đã được đề cập trong văn kiện của Đại hội Đảng
lần thứ XI. Trong đó, Nhà nước cần dành sự quan tâm đặc biệt để xây dựng năng lực nội sinh
nhằm sử dụng và phát triển các công nghệ tiết kiệm tài nguyên, nguyên liệu, năng lượng...; vì đây
là động lực chủ yếu để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng phát
triển bền vững.
Một nghiên cứu của VCCI cho thấy, có khoảng trên 70% máy móc thiết bị ở nước ta sử
dụng công nghệ cũ; 70% đã khấu hao hết và gần 50% là máy móc cũ, hoặc vừa mới tân trang
được nhập vào. Thực tế này là một thách thức đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị lớn nhằm tạo ra
bước đột phá lớn trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Bước đột phá ở đây là chuyển đổi quyết liệt từ cơ chế nặng về ''bao cấp”, ''xin cho” sang
cơ chế kinh tế hóa, tài chính hóa trong quản lý tài nguyên, môi trường. Thực tế hiện nay, nhà
nước bỏ ra rất nhiều kinh phí, trang thiết bị và nguồn nhân lực cho công tác điều tra tài nguyên

khoáng sản, khí tượng, thủy văn... nhưng thường là cung cấp không hoặc với khoản phí không
đáng kể cho các nhà đầu tư. Đó là sự bù đắp không cân xứng dẫn đến không đủ nguồn lực cho
công tác quy hoạch tài nguyên và môi trường.
Nhà nước cũng cần sử dụng công cụ tài chính nhằm khuyến khích đầu tư vào các ngành
sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, sử dụng công nghệ sạch; sản xuất và sử dụng năng
lượng sạch, năng lượng tái tạo, các sản phẩm và bao bì không gây hại hoặc ít gây hại đến môi
trường; tái chế và sử dụng các sản phẩm tái chê.
Thực tiễn phát triển nước ta trong những năm gần đây khẳng định, chúng ta có đủ năng
lực, điều kiện để chuyên đổi thành công sang mô hình phát triển bền vững. Kinh nghiệm phát
triển lĩnh vực công nghệ thông tin, viễn thông, cơ khí tự động hóa, công nghệ vật liệu cũng như
Những vấn đề Địa lý Kinh tê - xã hội đại cương

9

Học viên: Đặng Văn Đồng


Trường ĐH Sư Phạm Huê

Năm học 2016 - 2017

việc chế tạo thành công các sản phẩm nano, những thành tựu trong công nghệ sinh học, cùng với
năng lực sáng tạo trong toán học, vật lý học, hóa học... cho thấy nếu có đủ quyết tâm và cách
sáng tạo, phù hợp, chúng ta sẽ nhanh chóng bước vào quỹ đạo phát triển hiện đại mà 21 quốc gia
thành viên APEC, trong đó có Việt Nam đã cam kết tại Hội nghị Thượng đỉnh tại Tokyo tháng 112010, về thực hiện một mô hình tăng trưởng mới, đảm bảo 5 yêu cầu: i) Tăng trưởng cân bằng; ii)
Tăng trưởng an toàn; iii) Tăng trưởng bền vững; iv) Tăng trưởng dựa vào trí tuệ; v) Tăng trưởng
với lợi ích được chia sẻ công bằng cho tất cả mọi người. Đây phải trở thành điểm xuyên suốt quá
trình CNH-HĐH nước ta.
Chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng bền vững là biện pháp hữu hiệu nhất có khả năng
phòng ngừa và hạn chế tối đa các tác động xấu đối với môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNHHĐH. Những yếu kém, khuyết điểm trong công tác bảo vệ môi trường trong thời gian qua chủ

yếu là do các cấp các ngành thường nặng về quan tâm tới các chi tiêu tăng trưởng kinh tế, chưa
đảm bảo hài hòa, cân bằng trong phát triển kinh tê với bảo vệ môi trường.
Do đó, cần có sự chuyển biến mạnh mẽ trong toàn Đảng và toàn xã hội về nhận thức và
hành động, trong chỉ đạo điều hành và đặc biệt trong tổ chức triển khai cáchoạt động bảo vệ môi
trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, gắn với phát triển KTTT.
Trước hết, tất cả các dự án đầu tư phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường, được Bộ
hoặc Sở Tài nguyên - Môi trường thẩm định trước khi được phê duyệt. Đồng thời, tăng cường
việc kiểm soát ô nhiễm tại nguồn; chú trọng quản lý chất thải, nhất là các chất thải trong sản xuất
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ y tế.
Khắc phục các khu vực môi trường đã bị ô nhiễm, suy thoái; nâng cao khả năng và nguồn
lực điều tra nắm chắc các nguồn tài nguyên để có kế hoạch bảo vệ, khai thác hợp lý, bảo vệ đa
dạng sinh học. Nói cách khác, bảo vệ môi trường phải vừa là mục tiêu, vừa là nội dung của quá
trình phát triển bền vững.
IV. Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ để giải quyết các
vấn đề môi trường trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, cần phải có sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và
hành động, đổi mới trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và đặc biệt trong tổ chức, triển khai
thực hiện công tác bảo vệ môi trường trong toàn Đảng và toàn xã hội. Qua 10 năm thực hiện
Chương trình hành động số 437-Ctr/TU của BCH Đảng bộ tỉnh về thực hiện Nghị quyết số
41-NQ/TW, công tác bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh đã đạt được một số kết quả tích cực.
Công tác phòng ngừa, khắc phục ô nhiễm môi trường được quan tâm thực hiện, lồng ghép
vào nội dung nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội, chương trình, kế hoạch công tác hàng năm của
địa phương, đơn vị. Việc chấp hành Luật Bảo vệ môi trường của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
kinh doanh có chuyển biến về cả nhận thức và hành động, quan tâm đầu tư nâng cấp các công
trình thu gom, xử lý rác thải và thực hiện an toàn lao động, vệ sinh môi trường đối với người lao
động. Các chỉ số về môi trường của tỉnh vẫn nằm trong giới hạn cho phép, cơ bản thực hiện được
mục tiêu đảm bảo sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường để phát triển bền
vững. Thực hiện chủ trương xã hội hóa, MTTQ, các ban, ngành đoàn thể, các tổ chức chính trị xã
hội, các tổ chức quần chúng và cộng đồng dân cư chủ động tham gia bảo vệ môi trường, theo đó

công tác phối hợp liên ngành giải quyết các vấn đề bức xúc ở các địa phương ngày càng tốt hơn.

Những vấn đề Địa lý Kinh tê - xã hội đại cương

10

Học viên: Đặng Văn Đồng


Trường ĐH Sư Phạm Huê

Năm học 2016 - 2017

Hàng năm, UBND tỉnh và các ngành chức năng bố trí kinh phí chi cho sự nghiệp môi
trường không dưới 1% tổng chi cân đối ngân sách để thực hiện công tác bảo vệ môi trường. Kết
quả trong 10 năm, đã phê duyệt 223 báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án trên địa
bàn, xác nhận hơn 700 bản cam kết của các tổ chức cá nhân. Nâng độ che phủ rừng lên 49%, có
04/06 cơ sở gây ô nhiễm môi trường đã hoàn thành và được chứng nhận đã xử lý triệt để ô nhiễm.
Công tác giữ gìn vệ sinh, bảo vệ và tôn tạo cảnh quan môi trường đáp ứng yêu cầu về môi trường
đô thị hội nhập kinh tế quốc tế.
Tại các khu đô thị và vùng ven đô thị, các địa phương đã chủ động xây dựng các tổ, đội vệ sinh
thu gom vận chuyển rác thải sinh hoạt. Một số nơi xây dựng bãi chôn lấp rác thải sinh ở khu tập
trung dân cư. 100% chất thải rắn y tế được thu gom và phân loại, 10/14 bệnh viện xây dựng hoàn
thiện công trình xử lý nước thải. Tuy nhiên còn nhiều địa phương chưa quan tâm đầu tư cơ sở vật
chất, trang thiết bị cho các tổ chức dịch vụ vệ sinh môi trường theo quy định kỹ thuật, tình trạng
chôn lấp không hợp vệ sinh chưa được khắc phục triệt để. Đặc biệt, thành phố Hòa Bình là trung
tâm văn hóa - chính trị - xã hội của tỉnh chưa xây dựng được khu chôn lấp, xử lý rác thải; các
hoạt động xây dựng cơ bản cũng gây ảnh hưởng rất lớn đến môi trường và đời sống của nhân dân.
Khu vực nông nghiệp, nông thôn chiếm trên 90% diện tích tự nhiên và 80% dân số toàn
tỉnh. Đây là khu vực có tốc độ phát triển kinh tế thấp, hạ tầng giao thông, văn hóa, giáo dục, y tế,

vệ sinh môi trường...còn nhiều hạn chế. Tại vùng nông thôn, về cơ bản đã dần hình thành nếp
sống văn hóa, hợp vệ sinh, nhiều tập tục lạc hậu được xóa bỏ như: Bố trí chuồng trại gia súc xa
khu vực nhà ở, xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh, không xả rác bừa bãi...Môi trường vùng nông thôn
đã có nhiều cải thiện, ý thức bảo vệ môi trường của người dân được nâng cao. Trong đó, tiêu chí
môi trường là một trong 19 tiêu chí để đánh giá xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, tình trạng sử
dụng tràn lan phân bón, hóa chất bảo vệ thực vật vẫn còn phổ biến, khó kiểm soát, nhất là những
vùng chuyên canh cây đặc sản có giá trị kinh tế cao. Bên cạnh đó, mô hình phát triển kinh tế trang
trại chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi lợn có xu hướng làm tăng thách thức, khó khăn trong bảo vệ
môi trường.
Để tiếp tục thực hiện tốt Chương trình hành động số 437-Ctr/TU, tỉnh ta đề ra nhiều giải
pháp trọng tâm nhằm đạt được một số mục tiêu về an sinh xã hội như: 86% dân số vùng nông
thôn được cung cấp nước sạch phục vụ sinh hoạt; 57% hộ gia đình có nhà tiêu hợp vệ sinh; tỷ lệ
che phủ rừng đạt 49%; 100% rác thải được thu gom, xử lý; 100% các cơ sở gây ô nhiễm môi
trường được xử lý...Với nhiệm vụ chung là nâng cao vai trò QLNN, sự phối hợp về bảo vệ môi
trường. Tăng cường hiệu quả quản lý, khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, chủ
động thích ứng với biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh xã hội hóa bảo vệ môi trường, đảm bảo phát triển
kinh tế xã hội theo hướng phát triển bền vững, phát triển gắn liền với bảo vệ môi trường.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường. Song song với qua
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa chúng ta đang phải chịu những áp lựcvề thay đổicấu trúc và
mô hình phát triểndo sự cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường ngàycàng lộ rõ, thể hiện qua quá
trình đô thị hóa với tốc độ ngày càng cao.Do đó, các mối quan tâmvề vấn đề môi trường cần được
lồng ghép ngay từ quá trình ra các quyết định về phát triển kinhtế và xã hội. Có nghĩa là, cầncụ
thể hóa nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tếtheo hướng thânthiện với môi trường tiếp cận với mô
hình tăng trưởng xanh đã được đề cập trong văn kiện Đạihội Đảng lần thứ XI.Tại sao ta lại phải
gắn với quá trình bảo vệ tài nguyên môi trường ?:-Công nghiệp hóa sẽ kéo theo đô thị hóa. Dân
số đô thị năm 1996 là 19% , năm 2010 đạt 30%và dự kiến sẽ tăng lên 45% trong năm 2020. Đây
Những vấn đề Địa lý Kinh tê - xã hội đại cương

11


Học viên: Đặng Văn Đồng


Trường ĐH Sư Phạm Huê

Năm học 2016 - 2017

thực sự là sức ép lớn về môi trường trongquản lý đô thị, theo nghiên cứu của Bộ KH-CN, các đô
thị như TP.HCM, Hà Nội, Nha Trang,Biên Hòa,…là những tụ điểm phát thải các chất độc hại
.Riêng Hà Nội mỗi năm thải vào môitrường nước khoảng 3600 tấn chất hữu cơ, 320 tấn dầu mỡ
và hàng chục tấn kim loại nặng,…
Ta cần hiểu rằng tài nguyên là ‘’ hữu hạn’’ nó chỉ có thể phục vụ ta khi ta biết trân trọng
nó.Điều này ta cũng dễ dàng hiểu rằng quá trình đi đến xã hội chủ nghĩa đối với một nước như
nướcta ( đã bỏ qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản ) là một giai đoạn lâu dài, cần thực hiện
một
V. Đảng nhân dân chung tay bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Theo tạp chí Cộng Sản nếu Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X đã 10 lần nhắc đến vấn
đề môi trường và bảo vệ môi trường, thì Văn kiện Đại hội XI của Đảng có tới hơn 20 lần nhắc
đến vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường. Điều này cho thấy, quan điểm của Đảng ta về
vấn đề môi trường đã có sự đổi mới và mở rộng hơn trước.
Trong vài thập niên gần đây, ở khắp nơi trên thế giới, tình trạng ô nhiễm môi trường, suy
thoái môi trường, sự cố môi trường và những biến đổi bất lợi của thiên nhiên đang hằng ngày,
hằng giờ ảnh hưởng tới chất lượng sống của con người. Việt Nam là quốc gia đang phát triển
cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề môi trường, như: cạn kiệt tài nguyên, mất cân bằng sinh thái,
biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường sống. Đại hội XI của Đảng đã nhận định:
“Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt, khai
thác và sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa phù hợp”. Vì vậy, bảo vệ môi
trường (BVMT) ngày càng trở thành một trong những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà
nước.

Quan điểm chỉ đạo của Đại hội XI là: “Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính
trị, toàn xã hội và của mọi công dân. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô
nhiễm với khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch,
tiêu dùng sạch. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo và ứng phó với sự biến đổi khí hậu, các
thảm họa thiên nhiên. Tăng cường quản lý, bảo vệ và sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài nguyên
quốc gia”
Từ quan điểm trên, trong những năm tới, để BVMT chúng ta cần khẳng định rõ và phải làm tốt
những nội dung chính và mới được thể hiện trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng
như sau:
Một là, “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo
vệ tài nguyên, môi trường”. Nếu Đại hội X xác định đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH, HĐH) gắn với kinh tế tri thức, chúng ta tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế
tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta, để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức thì đến Đại hội XI, quan niệm về đẩy
mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức đã có thêm bước phát triển mới, đó là phải
trên cơ sở bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức ở nước ta, thực chất là công nghiệp hóa rút
ngắn, bằng cách kết hợp nguồn vốn tri thức tiên tiến của nhân loại với nguồn vốn tri thức của dân
Những vấn đề Địa lý Kinh tê - xã hội đại cương

12

Học viên: Đặng Văn Đồng


Trường ĐH Sư Phạm Huê

Năm học 2016 - 2017

tộc. Trên cơ sở đó, một mặt, sử dụng tri thức để đổi mới, nâng cao hiệu quả các ngành truyền

thống; mặt khác, tập trung phát triển mạnh các ngành nghề, tạo ra sản phẩm kinh tế có giá trị gia
tăng cao, dựa nhiều vào tri thức, tạo ra những bước đột phá mới, những mức tăng trưởng cao.
Như vậy, CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức là bước đi đúng, phù hợp với thực tiễn nước ta và
phù hợp với xu thế phát triển của thế giới trong giai đoạn hiện nay. CNH, HĐH sẽ không thể thực
hiện được, nếu như không dựa vào môi trường, vào tài nguyên thiên nhiên. Bất kể giai đoạn nào
cũng vậy, dù trình độ phát triển của con người có cao đến mức nào, khoa học công nghệ có phát
triển vượt bậc đến đâu, con người cũng không thể tồn tại được nếu không có mối quan hệ ràng
buộc với điều kiện tự nhiên, với môi trường, mà thậm chí, con người càng cần phải thắt chặt hơn
sự liên hệ của mình với môi trường. Tùy theo mức độ, trình độ, ý thức của con người, những tác
động của CNH, HĐH đến môi trường sẽ khác nhau. Trong những năm tới tiến hành đẩy mạnh
CNH, HĐH phải gắn với phát triển kinh tế tri thức, sử dụng tiết kiệm nhiên liệu nhằm bảo vệ tài
nguyên, môi trường.
Hai là, “gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với… bảo vệ môi trường”. Phát triển kinh tế là điều
kiện cốt yếu để con người thoát khỏi đói nghèo, nhằm phát triển con người toàn diện và là cơ sở
để xây dựng xã hội văn minh, hiện đại. Hiện đang có một nghịch lý là phát triển kinh tế thường đi
kèm với việc khai thác (thậm chí là khai thác quá mức) tài nguyên thiên nhiên và thải vào môi
trường một lượng lớn chất thải độc hại khiến cho nó không còn khả năng tự phục hồi, gây ô
nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu. Điều đó ảnh hưởng đến chất lượng sống của con người, mục
tiêu xóa đói, giảm nghèo, phát triển con người toàn diện sẽ không đạt được. Trước tình hình đó,
chúng ta cần tỉnh táo khi ra những quyết sách cho phát triển kinh tế cũng như cho việc BVMT.
Bởi vì, một chính sách về môi trường, nếu chỉ tập trung vào việc bảo vệ tài nguyên mà không chú
ý giải quyết thỏa đáng những vấn đề nhằm phát triển kinh tế thì vừa không giảm được nghèo đói,
vừa không thể bảo vệ được môi trường. Ngược lại, một chính sách phát triển chỉ tập trung vào
tăng trưởng kinh tế, không quan tâm đến môi trường thì sớm hay muộn cũng lâm vào cảnh phải
bỏ tiền ra để khôi phục môi trường và lại dẫn đến đói nghèo. Việt Nam là một nước còn nghèo,
tiềm lực kinh tế còn nhỏ bé, vì vậy, tài nguyên thiên nhiên càng đóng vai trò đặc biệt trong quá
trình phát triển kinh tế. Do đó, Đại hội XI của Đảng khẳng định, chúng ta phải có chính sách phù
hợp để phát triển kinh tế gắn liền với BVMT, cần có sự kết hợp cân đối, hài hòa giữa ba nội dung
là: phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội và BVMT, phải xem BVMT là một
nội dung quan trọng, không thể tách rời trong quá trình phát triển kinh tế và không thể phát triển

kinh tế bằng mọi giá mà coi nhẹ công tác BVMT. Việc lồng ghép yếu tố môi trường trong các
chiến lược, kế hoạch và dự án phát triển kinh tế của các cấp, các ngành phải được quan tâm đúng
mức và thực hiện một cách nghiêm túc. Để thực hiện tốt nhiệm vụ gắn kết chặt chẽ phát triển
kinh tế với BVMT trong những năm tới, Đại hội XI của Đảng yêu cầu, cần: “Phát triển năng
lượng sạch, sản xuất sạch và tiêu dùng sạch”; đẩy mạnh hơn nữa công tác BVMT thông qua đẩy
mạnh hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn về môi trường, triển khai mạnh mẽ hơn nữa các
nhiệm vụ BVMT ở lưu vực sông, các khu kinh tế, khu công nghiệp, làng nghề.
Ba là, “Coi trọng nghiên cứu, dự báo và thực hiện các giải pháp ứng phó với quá trình biến đổi
khí hậu và thảm họa thiên nhiên”. Những năm gần đây, các nước trên thế giới và Việt Nam đang
chứng kiến những biến đổi khí hậu, những thảm họa môi trường xuất hiện ngày càng nhiều với
mức độ ảnh hưởng ngày càng lớn. Trên thế giới, điển hình là cơn địa chấn ở Thái Bình Dương
gây sóng thần ở Đông Nam Á và Đông Á ngày 26-12-2004, làm 200.000 người chết và mất tích.
Những vấn đề Địa lý Kinh tê - xã hội đại cương

13

Học viên: Đặng Văn Đồng


Trường ĐH Sư Phạm Huê

Năm học 2016 - 2017

Trận động đất ở Tứ Xuyên (Trung Quốc) ngày 12-5-2008 đã làm trên 80.000 người chết. Gần đây
nhất là thiệt hại do sóng thần, động đất ở Nhật Bản ngày 11-3-2011. Hãng tin AFP (dẫn theo báo
cáo của Ngân hàng Thế giới) cho biết sáng ngày 21-3-2011, số người thiệt mạng đã lên đến 8.450
người, 12.931 người khác mất tích, tổng thiệt hại lên đến 300 tỉ USD, tương đương 4% GDP của
Nhật Bản. Nhưng thiệt hại lớn nhất chưa thể thống kê hết được là ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng. Còn ở nước ta, các hiện tượng khí hậu cực đoan như bão, lũ lụt, nắng nóng, mưa lớn, nước
biển dâng cao… đang ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân. Chúng ta chưa bao giờ thấy

hiện tượng mưa lớn ngập lụt trái mùa như ở Hà Nội tháng 11-2008 hay hiện tượng mưa kéo dài 3
- 4 ngày gần bằng lượng mưa của cả năm như ở miền Trung trong năm 2010 vừa qua. Hằng năm,
nước ta phải hứng chịu hàng chục cơn bão, mưa lũ bất thường làm thiệt hại hàng ngàn tỉ đồng.
Với mực nước biển dự báo sẽ dâng cao gần 1m vào cuối thế kỷ này, 40% diện tích đồng bằng
sông Cửu Long bị ngập, 30% diện tích đồng bằng sông Hồng nằm dưới mực nước biển; 10% 12% dân số nước ta bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất khoảng 10% GDP. Vì vậy, trong những
năm tới, Nhà nước ta cần đẩy nhanh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến
đổi khí hậu, nước biển dâng phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, theo hướng giảm
ô nhiễm môi trường và thích ứng để sống chung với biến đổi khí hậu, bảo đảm phát triển kinh tế xã hội và cuộc sống, an sinh của con người. Trước mắt cần tập trung triển khai thực hiện tốt
“Chiến lược phát triển ngành khí tượng thủy văn” và “Đề án hiện đại hóa ngành khí tượng thủy
văn”, phục vụ công tác dự báo, cảnh báo thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Bốn là, xử lý triệt để những cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đẩy mạnh cải tạo môi
trường. Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành và thực hiện nhiều biện pháp nhằm khắc phục tình
trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Trong các văn bản pháp luật về khắc phục ô nhiễm, suy
thoái môi trường, chúng ta đặc biệt chú ý tới Quyêt định số 64/2003/
QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ban hành ngày 22-4-2003 Về việc phê duyệt kê hoạch xử lý
triệt để cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Nội dung của Quyết định chỉ rõ: đến năm
2005 phải xử lý triệt để 51 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; đến năm 2007 tiếp tục xử
lý xong 388 cơ sở; đến năm 2012 tiếp tục xử lý xong đối với 3.856 cơ sở gây ô nhiễm môi trường
khác và các cơ sở mới phát sinh. Tuy nhiên, tính đến tháng 3-2010 (quá thời hạn gần 3 năm) kết
quả đạt được vẫn rất thấp. Trong số 439 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải xử lý
dứt điểm trong giai đoạn 2003 - 2007, mới có 87 cơ sở (chiếm 19,85%) đã được cấp chứng nhận
hoàn thành việc xử lý ô nhiễm môi trường triệt để; có 27 cơ sở đã giải thể, phá sản, không còn
gây ô nhiễm môi trường; 106 cơ sở cơ bản đã hoàn thành, nhưng chưa được cấp quyết định chứng
nhận đã hoàn thành; 194 cơ sở đang triển khai xử lý ô nhiễm môi trường triệt để và 25 cơ sở chưa
triển khai. Như vậy, tính đến tháng 3-2010 vẫn còn 49,88% số cơ sở gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng, chưa hoàn thành việc xử lý ô nhiễm môi trường triệt để. Nguyên nhân chính là do
mức độ chấp hành các văn bản pháp luật về khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường của các cơ
sở sản xuất kinh doanh thời gian qua rất thấp. Hoạt động kiểm tra, thanh tra quá trình triển khai
công tác BVMT chưa thường xuyên; các vi phạm pháp luật về BVMT chưa được xử lý kịp thời
và việc cưỡng chế thi hành còn nhiều bất cập. Do vậy, tình trạng suy thoái môi trường, ô nhiễm

môi trường ở cả thành thị và nông thôn nước ta đang có chiều hướng gia tăng trong thời gian gần
đây. Trong những năm tiếp theo, để bảo vệ và cải thiện môi trường sống của người dân thì “Thực
hiện nghiêm ngặt lộ trình xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường” là việc làm cần thiết và quan

Những vấn đề Địa lý Kinh tê - xã hội đại cương

14

Học viên: Đặng Văn Đồng


Trường ĐH Sư Phạm Huê

Năm học 2016 - 2017

trọng của công tác quản lý nhà nước về BVMT. Nếu không làm tốt công việc này thì tình trạng vi
phạm pháp luật BVMT sẽ vẫn diễn ra và đó là nguyên nhân dẫn đến môi trường sống bị hủy hoại.
Năm là, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về BVMT, đặc biệt là “Quản lý, khai thác và sử
dụng có hiệu quả tài nguyên đất, nước, khoáng sản và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác” (9).
Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến môi trường nước ta trong những năm qua xuống
cấp là do công tác quản lý nhà nước về BVMT còn nhiều yếu kém và bất cập như hệ thống luật
pháp, chính sách về BVMT còn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, chồng chéo và mâu thuẫn nhau;
các văn bản hướng dẫn thi hành một số nội dung của Luật Bảo vệ môi trường chưa đầy đủ, thiếu
cụ thể; một số hành vi vi phạm pháp luật chưa được quy định chi tiết, cụ thể, thậm chí có nhiều
hành vi vi phạm còn chưa có chế tài xử phạt; hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước còn
nhiều bất cập, như cơ cấu tổ chức bộ máy chưa tương xứng với nhiệm vụ; chức năng, thẩm quyền
của các bộ phận trong hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về môi trường chưa rõ ràng; đội
ngũ cán bộ quản lý nhà nước về môi trường thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn nghiệp vụ... Vì
vậy, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách BVMT là giải pháp hàng đầu để nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước về BVMT. Trước mắt, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về

đất đai, trọng tâm là tổ chức tổng kết quá trình thực hiện Luật Đất đai 2003 và xây dựng dự thảo
Luật Đất đai (sửa đổi); tăng cường khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên nước, bảo đảm an ninh
nguồn nước; đưa Luật Khoáng sản (sửa đổi) đi vào cuộc sống, tăng cường đổi mới công tác quản
lý khai thác, sử dụng tài nguyên, khoáng sản.
Sáu là, bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và của mọi
công dân. Ở nước ta, nhận thức về BVMT của cộng đồng, doanh nghiệp, thậm chí cả của đội ngũ
các nhà lãnh đạo, quản lý còn chưa đầy đủ. Vấn đề BVMT mới chỉ dừng lại ở chủ trương, chính
sách, định hướng, mà chưa tạo ra sự quan tâm thực sự từ phía các nhà hoạch định chính sách. Các
doanh nghiệp thường né tránh vấn đề BVMT. Thực tế cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp trong
nước vẫn cho rằng BVMT là công việc của Nhà nước và không ít doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam để trốn tránh trách nhiệm BVMT.Người dân
chưa thi hành tốt pháp luật về BVMT do nhận thức sai lệch về vấn đề môi trường. Theo kết quả
khảo sát của Bộ Tài nguyên và Môi trường, có tới 33,9% số người được hỏi cho rằng tài nguyên
của Việt Nam là vô tận; 36,9% cho rằng tài nguyên rừng của Việt Nam là vô tận; 27,55% cho
rằng chỉ nước mặt mới bị ô nhiễm, còn nước ngầm thì không; 29,2% cho rằng môi trường ở thành
phố bị ô nhiễm, còn ở nông thôn thì không. Nhận thức sai lệch trên là một trong những nguyên
nhân khiến cho con người có những hành vi không thân thiện với môi trường, vi phạm pháp luật
BVMT; hiểu biết của người dân về pháp luật, chính sách BVMT hạn chế, có nhiều quy định về
BVMT mà người dân không biết và cán bộ cũng không biết. Điều này tạo ra một khoảng cách xa
giữa việc ban hành luật và thực thi luật, hình thành nên tâm lý coi thường luật ở người dân. Việc
xóa bỏ tâm lý này không phải là công việc dễ dàng. Theo kết quả khảo sát ở phạm vi hẹp tại Hà
Nội về thái độ ứng xử của người dân đối với hành vi thải rác không đúng nơi quy định của người
khác, chỉ có 12,2% số người được hỏi tỏ thái độ nhắc nhở, có tới 55,1% không tỏ thái độ gì và
11,25% không chú ý đến hành vi vi phạm đó. Họ cho rằng, đây là trách nhiệm của các cơ quan
quản lý nhà nước về môi trường, không phải của họ; cộng đồng tham gia hoạt động BVMT một
cách thụ động. Trong khi đó, nhiều cơ quan quản lý nhà nước về môi trường chưa thật sự mạnh
dạn trao quyền cho cộng đồng. Kiểu quản lý này làm cho sự tham gia của cộng đồng vào hoạt
động BVMT trở nên bị động, họ chủ yếu chỉ là lực lượng thực hiện các quyết định quản lý được
Những vấn đề Địa lý Kinh tê - xã hội đại cương


15

Học viên: Đặng Văn Đồng


Trường ĐH Sư Phạm Huê

Năm học 2016 - 2017

đưa từ trên xuống. Điều này dẫn đến hệ quả là, các quyết định quản lý không sát thực tiễn cuộc
sống, còn người dân trở nên thờ ơ và thiếu trách nhiệm giám sát việc thực thi pháp luật BVMT;
công tác truyên truyền, giáo dục về môi trường và BVMT chưa tốt. Việc vận động nhân dân tích
cực tham gia BVMT, vận động họ tự nguyện thay đổi những thói quen lạc hậu và hình thành
những thói quen, nếp sống thân thiện với môi trường chưa được quan tâm đầy đủ. Các hoạt động
BVMT do nhà trường tiến hành còn mang nặng tính phong trào, hình thức, không thường xuyên.
Tình trạng nhận thức và ý thức BVMT chưa trở thành trách nhiệm của nhiều người đã góp phần
làm cho môi trường nước ta ngày càng ô nhiễm nghiêm trọng. Nhận rõ những bất cập nêu trên,
Đại hội XI của Đảng khẳng định: Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị,
toàn xã hội và của mọi công dân. Điều này cần sớm được thể chế hóa trong hệ thống pháp luật
BVMT của nước ta.
Thực hiện tốt những nội dung trên trong những năm tới, chúng ta sẽ đạt được mục tiêu của Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 là: “Cải thiện chất lượng môi trường. Đến năm 2020,
tỷ lệ che phủ rừng đạt 45%. Hầu hết dân cư thành thị và nông thôn được sử dụng nước sạch và
hợp vệ sinh. Các cơ sở sản xuất kinh doanh mới thành lập phải áp dụng công nghệ sạch hoặc
trang bị các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải; trên 80% các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện
có đạt tiêu chuẩn về môi trường. Các đô thị loại 4 trở lên và tất cả các cụm, khu công nghiệp, khu
chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung. 95% chất thải rắn thông thường, 85% chất thải
nguy hại và 100% chất thải y tế được xử lý đạt tiêu chuẩn. Cải thiện và phục hồi môi trường các
khu vực bị ô nhiễm nặng. Hạn chế tác hại của thiên tai; chủ động ứng phó có hiệu quả với biến
đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng”


Những vấn đề Địa lý Kinh tê - xã hội đại cương

16

Học viên: Đặng Văn Đồng



×