Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Đặc điểm sinh học và sinh thái của loài thảo quả làm cơ sở cho việc nghiên cứu bảo tồn và phát triển nguồn gen thảo quả (amomum aromaticum roxb) có giá trị kinh tế cao tại tỉnh hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.1 MB, 57 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
----------------------

NGÔ QUỐC HƯNG
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, SINH THÁI CỦA
LOÀI THẢO QUẢ (Amomum aromaticum Roxb)
TẠI HUYỆN VỊ XUYÊN, TỈNH HÀ GIANG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo

:Chính quy

Chuyên nghành : Lâm Nghiệp
Lớp

: K47LN

Khoa

: Lâm NgHiệp

Khóa học

: 2015 – 2019

Thái Nguyên, năm 2019



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
----------------------

NGÔ QUỐC HƯNG
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC,
SINH THÁI CỦA LOÀI THẢO QUẢ (Amomum aromaticum Roxb)
TẠI HUYỆN VỊ XUYÊN, TỈNH HÀ GIANG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo

: Chính quy

Chuyên nghành

: Lâm Nghiệp

Lớp

: K47LN

Khoa

: Lâm NgHiệp

Khóa học

: 2015 – 2019


Giảng viên hướng dẫn : TS.Lê Văn Phúc

Thái Nguyên, năm 2019


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của riêng tôi, những số liệu và
kết quả trong khóa luận tốt nghiệp này là hoàn toàn trung thực, chưa hề được
sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn. Các
thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn này đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Thái nguyên, ngày 25 tháng 05 năm 2019

Xác nhận của GVHD

Người viết cam đoan

Đồng ý cho bảo vệ kết quả
trước hội đồng khoa học
Ngô Quốc Hưng

XÁC NHẬN CỦA GIÁO VIÊN CHẤM PHẢN BIỆN
Giáo viên chấm phản biện xác nhận sinh viên
đã sửa chữa sai sót sau khi hội đồng chấm yêu cầu!
(Ký và ghi rõ họ tên)



ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận này trước tiên tôi xin chân thành cảm ơn Ban
giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Lâm nghiệp, cảm ơn các thầy cô
giáo đã truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu trong suốt quá trình học
tập và rèn luyện tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
Tôi đặc biệt xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình, sự quan tâm
sâu sắc của cô giáo TS. Lê Văn Phúc đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực
tập để tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ sự biết ơn tới gia đình, bạn bè và những người
thân đã quan tâm giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập.
Trong quá trình nghiên cứu do có những chủ quan và khách quan nên
khóa luận không tránh khỏi những thiếu xót và hạn chế. Tôi rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các sinh viên để tôi hoàn
thành khóa luận được tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, Ngày 25 tháng 05 năm 2019
Sinh viên

Ngô Quốc Hưng


iii

DANH MỤC HÌNH ẢNH

Hình 4.1. Hình thái lá cây Thảo quả ................................................................ 33

Hình 4.2. Hình thái thân cây Thảo quả ............................................................ 33
Hình 4.3. Hình thái hoa Thảo quả .................................................................... 34
Hình 4.4. Hình thái quả Thảo quả .................................................................... 34
Hình 4.5. Hình thái thân, quả Thảo quả ........................................................... 35
Hình 4.6. Biểu đồ thể hiện tần suất gặp cây thảo quả ...................................... 36
của các tuyến điều tra ....................................................................................... 36
Hình 4.7. Biểu đồ thể hiện tỷ lệ phân bố cây Thảo quả theo đai cao .............. 37
Hình 4.8. Biểu đồ thể hiện tỷ lệ phân bố cây Thảo quả theo vị trí .................. 38


iv

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 4.1. Phân bố Thảo quả trên các tuyến điều tra........................................ 35
Bảng 4.2. Đặc điểm phân bố cây Thảo quả theo đai cao ................................. 36
Bảng 4.3. Đặc điểm phân bố cây Thảo quả theo vị trí chân, sườn, đỉnh ......... 37
Bảng 4.4. Các chỉ tiêu khí hậu cơ bản tại Huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang .. 38
Bảng 4.5. Đặc điểm phẩu diện đất ................................................................... 40


v

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. ii
DANH MỤC HÌNH ẢNH .............................................................................. iii
DANH MỤC BẢNG BIỂU ............................................................................ iv
MỤC LỤC ........................................................................................................ v
Phần 1. MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
1.1. Tính cấp thiết của vấn đề ........................................................................... 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu................................................................................... 2
1.3. Ý nghĩa của đề tài ....................................................................................... 2
Phần 2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ......................................... 3
2.1. Những nghiên cứu về dược liệu trên thế giới ............................................ 3
2.1.1. Những nghiên cứu về phát triển cây dược diệu ...................................... 3
2.1.2. Những nghiên cứu về bảo tồn cây dược liệu .......................................... 5
2.2. Những nghiên cứu về dược liệu ở Việt Nam ............................................. 6
2.2.1. Những nghiên cứu về phát triển cây dược diệu ...................................... 6
2.2.2. Những nghiên cứu về bảo tồn cây dược liệu ........................................ 11
2.3. Những nghiên cứu về loài Thảo quả ........................................................ 14
2.3.1. Những nghiên cứu về thảo quả trên thế giới ......................................... 14
2.3.2. Những nghiên cứu về thảo quả ở Việt Nam ......................................... 17
2.3.3. Những nghiên cứu về cây dược liệu và thảo quả ở Hà Giang .............. 20
2.4. Khái quát đặc điểm tự nhiên khu vực nghiên cứu ................................... 25
Phần 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ............................................................................................... 27
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................ 27
3.2. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 27
3.3. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................... 27


vi

3.3.1. Phương pháp tiếp cận ............................................................................ 27
3.3.2. Phương pháp luận.................................................................................. 29
3.3.3. Phương pháp điều tra thực địa .............................................................. 29
3.3.4. Phương pháp xử lý số liệu..................................................................... 31
Phần 4. KẾT QUẢ THẢO LUẬN ............................................................... 32
4.1. Đặc điểm sinh học cây Thảo quả ............................................................. 32
4.1.1. Đặc điểm hình thái loài thảo quả .......................................................... 32

4.2. Đặc điểm sinh thái của cây Thảo quả tại huyện Vị Xuyên, Hà giang ..... 35
4.2.1. Đặc điểm phân bố theo tuyến ................................................................ 35
4.2.2. Đặc điểm phân bố theo đai cao ............................................................. 36
4.2.3. Đặc điểm phân bố theo vị trí ................................................................. 37
4.2.4. Đặc điểm khí hậu nơi cây Thảo quả sinh sống ..................................... 38
4.2.5. Các dạng sinh cảnh nơi cây Thảo quả phân bố .................................... 39
4.2.6. Đặc điểm phẫu diện đất dưới tán rừng nơi có cây Thảo quả phân bố .. 39
4.3. Đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát triển cây Thảo quả tại địa
phương ............................................................................................................. 41
Phần 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ........................................................ 42
5.1. Kết luận .................................................................................................... 42
5.2. Kiến nghị .................................................................................................. 43
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 44


1

Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của vấn đề
Hà Giang là tỉnh miền núi biên giới phía Bắc của Tổ quốc, với tổng diện
tích tự nhiên là 7.914,8 km2, trong đó đất lâm nghiệp có rừng là 437.217,9 ha,
chủ yếu là rừng tự nhiên. Do đặc thù về điều kiện địa hình với dải núi cao Tây
Côn Lĩnh và Cao nguyên Đồng Văn đã tạo nên địa hình cao dần về phía Tây
Bắc, thấp dần về phía Đông Nam và chia thành 3 tiểu vùng mang đặc điểm
khác nhau. Vùng núi đất phía Tây gồm 2 huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần và
vùng núi cao phía bắc gồm 4 huyện: Đồng Văn, Quản Bạ, Yên Minh, Mèo
Vạc với kiểu thời tiết á nhiệt đới và ôn đới, rất phù hợp cho đầu tư phát triển
cây dược liệu mang lại giá trị kinh tế cao. Tiểu vùng thấp bao gồm thành phố
Hà Giang và các huyện còn lại có thể phát triển cây dược liệu ngắn ngày và

cây thân gỗ đa tác dụng (Quế, Hồi...) làm sản phẩm hàng hóa.
Đồng thời, Hà Giang có vị trí địa lý thuận lợi; tiếp giáp với tỉnh Vân
Nam là nơi nuôi, trồng và chế biến dược liệu hàng đầu của Trung Quốc nên
rất thuận tiện trong việc giao lưu trao đổi hàng hóa và kinh nghiệm sản xuất
với nước bạn. Nhờ hệ thống giao thông tương đối phát triển đã tạo điều kiện
thuận lợi cho thu hút khách du lịch đến các địa điểm nổi tiếng như vùng cao
nguyên đá Đồng Văn, vùng du lịch sinh thái Hoàng Su Phì, Xín Mần..vv; kết
hợp với giao lưu văn hóa chăm sóc sức khỏe và tiêu thụ sản phẩm dược liệu.
Ngoài ra, tỉnh Hà Giang đã có chủ trương về việc xây dựng phát triển sản
xuất dược liệu trở thành ngành sản xuất hàng hóa mũi nhọn; là trung tâm cây
dược liệu của cả nước; là cây trồng không những xóa đói giảm nghèo mà tiến tới
làm giàu cho người dân địa phương. Cùng với sự hỗ trợ của nhà nước, bước đầu
tỉnh đã có những chính sách thu hút đầu tư, hỗ trợ cho cải tạo, trồng mới và phát
triển cây Thảo quả trên địa bàn.
Thảo quả loài dược liệu bản địa có giá trị kinh tế cao của tỉnh Hà Giang.


2

Thảo quả đang được nuôi trồng quy mô hàng chục nghìn ha, góp phần phát
triển kinh tế cải thiện đời sống đồng bào của tỉnh Hà Giang. Tuy nhiên cho
đến nay chưa có nhiều nghiên cứu về bảo tồn, phát triển nguồn gen của loài
này. Nguồn giống chưa được tuyển chọn, chủ yếu nguồn giống tạp cho nên
năng suất, chất lượng còn chưa cao. Hiện nay, ở nước ta các loài cây dược
liệu chủ yếu được nhân giống bằng hom, hoặc hạt theo kỹ thuật nhân giống
truyền thống. Nhân giống cây trồng bằng nuôi cấy mô chưa triển khai rộng rãi
do đòi hỏi công nghệ cao, chi phí lớn. Trong khi nhân giống bằng phương
pháp nuôi cấy mô có ưu điểm vượt trội hơn hẳn phương pháp truyền thống.
Với nhu cầu về nguồn dược liệu lớn như hiện nay thì các phương pháp nhân
giống thủ công khó có thể đáp ứng được nguồn giống để cung cấp cho sản

xuất thương mại theo chuỗi hàng hóa.
Xuất phát từ những thực tiễn trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Đặc
điểm sinh học và sinh thái của loài Thảo quả làm cơ sở cho việc nghiên
cứu bảo tồn và phát triển nguồn gen Thảo quả (Amomum aromaticum
Roxb) có giá trị kinh tế cao tại tỉnh Hà Giang.”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định được các đặc điểm sinh học loài Thảo quả tại huyện Vị
Xuyên, tỉnh Hà Giang.
- Xác định được các đặc điểm sinh thái loài Thảo quả tại huyện Vị
Xuyên, tỉnh Hà Giang.
- Đề xuất giải pháp bảo tồn và phát triển bền vững loài Thảo quả
1.3. Ý nghĩa của đề tài
- Củng cố kiến thức đã học, hệ thống lại kiến thức đã học, bổ sung kiến
thức chuyên môn và vận dụng vào thực tế sản xuất.
- Cung cấp thông tin về các đặc điểm sinh học, sinh thái của cây Thảo quả


3

Phần 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Những nghiên cứu về dược liệu trên thế giới
2.1.1. Những nghiên cứu về phát triển cây dược diệu
Cây cỏ trong thiên nhiên có rất nhiều tác dụng tốt cho sức khoẻ của con
người. Để có cơ sở khoa học cho việc thu hái và sử dụng các loài cây thuốc
này, các nhà khoa hoc trên Thế giới dã có những công trình nghiên cứu về cây
thuốc vô cùng to lớn và hữu ích.
Ngay từ những năm 1950 các nhà khoa học nghiên cứu về cây thuốc
của Liên Xô (cũ) đã có các nghiên cứu về cây thuốc trên quy mô rộng lớn.
Năm 1952 các tác giả A.I.Ermakov, V.V.Arasimovich, M.I.SmirnovaIconikova… đã nghiên cứu thành công công trình “Phương pháp nghiên cứu

hoá sinh – sinh lý cây thuốc“. Công trình này là cơ sở cho việc sử dụng và chế
biến cây thuốc đạt hiệu quả tối ưu nhất, tận dụng tối đa công dụng của các
loài cây thuốc. Các tác giả A.F.Hammerman, M.D.Choupinxkaia và
A.A.Yatsenko đã đưa ra được giá trị của từng loài cây thuốc (cả về giá trị
dược liệu và giá trị kinh tế) trong tập sách “Giá trị cây thuốc”. Năm 1972 tác
giả N.G.Kovalena đã công bố rộng rãi trên cả nước Liên Xô (cũ) việc sử dụng
cây thuốc vừa mang lại lợi ích cao vừa không gây hại cho sức khoẻ của con
người. Qua cuốn sách "Chữa bệnh bằng cây thuốc" tác giả Kovalena đã giúp
người đọc tìm được loài cây thuốc và chữa đúng bệnh với liều lượng đã được
định sẵn.
James A.Dule- nhà dược lý học người Mỹ- đã có nhiều đóng góp cho tổ
chức Y tế Thế giới (WHO) trong việc xây dựng danh mục các loài cây thuốc,
cách thu hái, sử dụng, chế biến và một số thận trọng khi sử dụng các loài cây thuốc.
Trên thế giới, nghiên cứu về cây thuốc có nhiều thành công và quy mô
rộng lớn phải kể đến Trung Quốc. Có thể khẳng định Trung Quốc là quốc gia
đi dầu trong việc sử dụng cây thuốc để chữa bệnh. Vào thế kỷ 16 Lý Thời


4

Trân đã đưa ra "Bản thảo cương mục" sau đó đến năm 1955 cuốn bản thảo
này đã được in ấn lại. Nội dung cuốn sách đã đưa tới cho người cách sử dụng
các loài cây cỏ để chữa bệnh. Năm 1954 tác giả Từ Quốc Hân đã nghiên cứu
thành công công trình "Dược dụng thực vật cập sinh lý học". Cuốn sách này
giới thiệu tới người đọc cách sử dụng từng loài cây thuốc, tác dụng sinh lý
sinh hoá của chúng, công dụng cách phối hợp các loài cây thuốc để có một
thang thuốc chữa bệnh. Ngoài ra còn có tuyển tập các loài cây thuốc theo từng
địa phương như "Giang Tô tỉnh thực vật dược tài chí", "Giang Tô trung dược
danh thực đồ khảo", "Quảng Tây trung dược trí"…
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), khoảng 80% dân số tại các quốc

gia đang phát triển chăm sóc sức khỏe bằng các thuốc y học cổ truyền. Ở
Trung Quốc doanh số thị trường thuốc từ dược liệu đạt 26 tỷ USD (2008, tăng
trưởng hàng năm đạt trên 20%), Mỹ đạt 17 tỷ USD (2004), Nhật Bản đạt 1,1
tỷ USD (2006), Hàn Quốc 250 triệu USD (2007), châu Âu đạt 4,55 tỷ Euro
(2004)... Tính trên toàn thế giới, hàng năm, doanh thu thuốc từ dược liệu ước
đạt khoảng trên 80 tỷ USD.
Dược liệu có giá trị kinh tế to lớn hơn bất kỳ cây lương thực, thực
phẩm nào. Theo thống kê của WHO, những năm gần đây, nhiều công ty, nhà
sản xuất đã có hướng đi mới là sản xuất các thuốc bổ trợ, các thực phẩm chức
năng, mỹ phẩm, hương liệu… từ dược liệu. Chính vì vậy, dược liệu đã và
đang mang lại nguồn lợi lớn cho nền kinh tế ngoài việc cung cấp nguyên liệu
cho sản xuất thuốc.
Dự báo nhu cầu dược liệu để sản xuất thuốc trong các năm tới sẽ tiếp
tục tăng, phù hợp với xu hướng sử dụng thuốc và thực phẩm chức năng có
nguồn gốc thiên nhiên trong việc phòng và chữa bệnh ở nhiều nước như
Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Mỹ, các nước EU, … Sử dụng nguồn dược
liệu để chiết xuất các hoạt chất mới tạo ra những thuốc mới với chi phí nghiên


5

cứu phát triển kinh tế hơn rất nhiều so với việc nghiên cứu bào chế thành
công một thuốc hóa dược mới (WHO, 2010).
Nhận thức được tầm quan trọng của dược liệu, Hội nghị môi trường và
phát triển của Liên hợp quốc (UNCED) năm 1992 đã thông qua Chương trình
nghị sự 21 đã xác định vài trò quan trọng của cây dược liệu, góp phần bảo vệ
môi trường sinh thái và là nguồn nuôi sống người dân miền núi. Do đó các tổ
chức thế giới như FAO, UNCED, WB, … đã xây dựng nhiều chương trình,
giúp các nước bảo tồn, nuôi trồng và khai thác cây dược liệu theo hướng phát
triển bền vững, tạo nguồn thu nhập, nâng cao đời sống kinh tế, đảm bảo an

ninh lương thực, ổn định xã hội cho người dân miền núi.
Từ những nhận thức về tầm quan trọng của dược liệu, Chiến lược bảo
tồn, khai thác và phát triển cây cây dược liệu đã được thực hiện ở nhiều Quốc
gia (FAO, 2000). Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vần để cần giải quyết như nguồn
gen chưa được đánh giá, tuyển chọn, thiếu quy trình công nghệ nhân giống
hiệu quả; quy trình nhân giống còn ở quy mô nhỏ; thiếu quy trình nuôi trồng
hoặc quy trình công nghệ sản xuất ở quy mô nhỏ, thiếu nguồn cây giống, hạt
giống tốt.
2.1.2. Những nghiên cứu về bảo tồn cây dược liệu
Để phục vụ cho mục đích chăm sóc bảo vệ sức khỏe con người, cho sự
phát triển của xã hội và để chống lại các bệnh nan y thì sự cần thiết phải kết
hợp giữa Đông - Tây y, giữa y học hiện đại với y học cổ truyền của các dân
tộc là một vấn đề cấp thiết. Chính từ những kinh nghiệm của y học cổ truyền
đã giúp cho nhân loại khám phá ra những loại thuốc có ích trong tương lai.
Cho nên, việc khai thác kết hợp với bảo tồn các loài cây thuốc là điều hết sức
quan trọng. Các nước trên thế giới đang hướng về thực hiện chương trình
Quốc gia kết hợp sử dụng, bảo tồn và phát triển bền vững cây thuốc.
Trên thế giới, nghiên cứu về cây thuốc có nhiều thành công và quy mô
rộng phải kể đến Trung Quốc. Có thể khẳng định Trung Quốc là quốc gia đi


6

đầu trong việc sử dụng cây thuốc để chữa bệnh. Vào thế kỷ 16 Lý Thời Trân
đưa ra “Bản thảo cương mục” sau đó năm 1955 cuốn bản thảo này đã được in
ấn lại. Nội dung cuốn sách đã đưa tới cho người cách sử dụng các loại cây cỏ
để chữa bệnh. Năm 1954 tác giả Từ Quốc Hân đã nghiên cứu thành công
công trình “Dược dụng thực vật cấp sinh lý học”. Cuốn sách này giới thiệu tới
người đọc cách sử dụng từng loại cây thuốc, tác dụng sinh lý, sinh hoá của
chúng, công dụng, cách phối hợp các loài cây thuốc theo từng địa phương như

“Giang Tô tỉnh thực vật dược tài chí”, “Giang Tô trung dược danh thực đồ
khảo”, “Quảng Tây trung dược trí”...(Dẫn theo Trần Hồng Hạnh, 1996).
Theo ước tính của Quỹ thiên nhiên thế giới (WWF) có khoảng 35.00070.000 loài trong số 250.000 loài cây được sử dụng vào mục đích chữa bệnh
trên toàn thế giới. Nguồn tài nguyên cây thuốc này là kho tàng vô cùng quý
giá của các dân tộc hiện đang khai thác và sử dụng để chăm sóc sức khoẻ,
phát triển kinh tế, giữ gìn bản sắc của các nền văn hoá. Theo báo cáo của Tổ
chức Y tế Thế giới (WHO) ngày nay có khoảng 80% dân số các nước đang
phát triển có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ban đầu phụ thuộc vào nguồn dược
liệu hoặc qua các chất chiết xuất từ dược liệu (Nguyễn Văn Tập, 2006).
2.2. Những nghiên cứu về dược liệu ở Việt Nam
2.2.1. Những nghiên cứu về phát triển cây dược diệu
Theo kết quả điều tra đánh giá tại một số vùng trong cả nước, nuôi
trồng sản xuất dược liệu nói chung, cây thuốc nói riêng có thể thu nhận trên
100 triệu đồng/ha. Phát triển trồng cây thuốc đã giúp cho nhiều vùng nông
thôn, miền núi xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội
và bảo vệ môi trường. Cây thuốc tồn tại cùng với thế hệ sinh thái rừng, nông
nghiệp và nông thôn, lại có mối tương quan chặt chẽ giữa đa dạng sinh học
cây thuốc và đa dạng văn hóa, y học cổ truyền, là nét văn hóa đặc sắc của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam.


7

Vai trò của cây thuốc trong việc chăm sóc sức khoẻ cộng đồng và đem
lại lợi ích kinh tế to lớn cho người dân là điều không thể phủ nhận, nhưng
việc sử dụng nguồn nguyên liệu này hiện nay có rất nhiều vấn đề báo động.
Theo ước tính, nguyên liệu làm thuốc có nguồn gốc thảo mộc được sử dụng
hàng năm tại cộng đồng, tại các cơ sở y tế, phòng khám đông y, sản xuất và
kinh doanh ...khoảng 50.000 tấn/năm thì 1/3 nguyên liệu do thu hái và khai
thác tự nhiên, 1/3 do trồng trọt và còn lại do nhập khẩu chủ yếu từ Trung

Quốc , Đài Loan , Hồng Công. Thực trạng của nguyên liệu này hiện nay : (i)
Đối với nguyên liệu tự nhiên, mọc hoang dại vấn đề khai thác quá mức,
không có sự kiểm soát của các cấp các ngành đã làm cho không phát triển và
bảo tồn bền vững được. (ii) Đối với nguồn nguyên liệu được trồng trọt tại các
khu vực, làng nghề truyền thống như Thanh Trì, Ninh Hiệp (Gia Lâm), Nghĩa
Trai (Hưng Yên), Lục Yên (Yên Bái), Trà My (Quảng Nam), Núi Mẫu Sơn
(Lạng Sơn), Sa Pa (Lào Cai) , Sìn Hồ (Lai Châu) , Đà Lạt (Lâm Đồng)... do
không có kế hoạch điều tiết nên việc trồng trọt biến thiên tăng, giảm thất thường theo cơ chế thị trường, có khi đột biến về giá cả tăng gấp hai, ba chục
lần vì trồng ít mà nhu cầu sử dụng và xuất khẩu tăng dẫn đến việc tư thương
làm hàng giả để chạy theo lợi nhuận, dẫn đến chất lượng dược liệu giảm và
không an toàn cho người sử dụng, hay có khi bị mất mối nhập khẩu nguyên
liệu (ví dụ như: Quế, Sả) thì người dân lại phá đi một diện tích lớn cây thuốc
đã đựơc trồng lâu đời vì ế không có ai mua. (iii) Đối với dược liệu nhập từ
Trung Quốc hay còn gọi là thuốc bắc thì tình hình còn tồi tệ hơn. Dường như
việc nhập các vị thuốc bắc qua biên giới Trung Quốc và Việt Nam, Nhà nước
chỉ coi là một loại hàng hóa bình thường như đồ gia dụng, chứ không tính đến
đó là một sản phẩm đặc biệt, đó là thuốc ảnh hưởng đến tính mệnh của con
người. Theo đánh giá của các nhà kiểm nghiệm dược liệu thì trên thị trường
thuốc đông dược (nguyên liệu thô) hiện nay có rất nhiều vị dược liệu chỉ là
hàng trung phẩm hay thứ phẩm của Trung Quốc được bán sang Việt Nam và


8

do thiếu nguyên liệu nên rất nhiều dược liệu bị dùng thay thế bởi các nguyên
liệu rẻ tiền hơn, chất lượng kém hơn. Ví dụ như vị Hoài sơn, dược liệu là rễ
của cây củ mài nhưng hiện nay trên thị trường chỉ có củ cọc, củ mỡ được bán
dưới tên là Hoài sơn. Hay vị thuốc Đan sâm, nếu mua ở phố Lãn Ông các thời
kỳ khác nhau thì nguyên liệu hoàn toàn khác nhau, có những đợt nguyên liệu
được nhuộm màu đỏ để có màu nâu đỏ tự nhiên của vị Đan sâm, nhưng khi

dùng rửa nước thì màu đỏ này thôi ra và dược liệu không có vỏ màu đỏ nữa.
Một số đề tài dự án các cấp nhân giống và nuôi trồng thử nghiệm một
số cây dược liệu đã được tiến hành ở nước ta, như dự án: “Hoàn thiện quy
trình nhân giống và trồng thử nghiệm cây dược liệu Hà thủ ô đỏ (Polygonum
multiflorum), cây Thảo quả(Anoetochilus) tại Phú Yên” giai đoạn 2014-2016.
Dự án: “Nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện quy trình nhân giống một số loài
dược liệu và xây dựng mô hình sản xuất giống để xây dựng vùng trồng dược
liệu trên địa bàn tỉnh Phú Thọ” giai đoạn 2015-2017.Dự án: “Xây dựng mô
hình ứng dụng công nghệ nuôi cấy mô tế bào thực vật nhân giống Thảo
quả(Anoectochilus setaceus) và Lan Thạch hộc tía (Dendrobium officinale
Kimura et Migo) tại Hải Phòng” giai đoạn 2016-2018. Một số nhiệm vụ khai
thác phát triển nguồn gen cây Khôi tía, Hà thủ ô đỏ, Đẳng sâm, Đinh lăng,
Hoàng tinh hoa đỏ, Hoàng tinh hoa trắng, v.v. Các Nhiệm vụ này tập trung
vào xây dựng được quy trình nhân giống bằng giâm hom hoặc sản xuất cây
giống từ hạt, xây dựng mô hình trồng, thu hái và sơ chế, chế biến. Nhìn
chung, các Nhiệm vụ đã được thực hiện chưa quan tâm đến tuyển chọn, chọn
lọc nguồn gen tốt có năng suất, chất lượng cao, xây dựng vườn giống gốc tại
vùng sinh thái bản địa để cung cấp nguồn giống chất lượng cao cho sản xuất
tại vùng miền núi nước ta. Vì vậy, các Nhiệm vụ sau khi kết thúc, nguồn gen
đã bị thất thoát, chết dần do không được bảo tồn trong vườn giống, phát triển
nhân giống và mở rộng vùng sản xuất sau đó. Đồng thời các Nhiệm vụ chưa
đầu tư cho xây dựng quy trình nhân giống ở quy mô công nghiệp, sử dụng giá


9

thể siêu nhẹ, giúp cho cây giống có tỷ lệ sống cao. Nguồn giống cung cấp cho
sản xuất còn hạn chế, chưa ban hành được tiêu chuẩn cây giống và giống gốc
cho các loài cây dược liệu.
Hiện nay trên địa bàn các tỉnh miền núi có các Trung tâm nhân giống

và nuôi trồng một số cây dược liệu. Để phát triển cây dược liệu có giá trị kinh
tế cao với quy mô lớn, không chỉ cần nguồn giống chất lượng cao, mà cả số
lượng lớn cho nuôi trồng. Nhu cầu về giống cây dược liệu trên địa bàn các
tỉnh là rất lớn, trong khi khả năng sản xuất và cung ứng cây giống còn rất hạn
chế, chủ yếu là sản xuất theo phương pháp truyền thống và nhập khẩu giống.
Quy trình trồng trọt và thu hái chưa hoàn chỉnh.
Việc dùng thuốc trong nhân dân ta đã có từ rất lâu đời. Từ thời nguyên
thuỷ, tổ tiên chúng ta trong lúc kiếm tìm thức ăn có khi ăn phải chất độc phát
sinh nôn mửa hoặc đi ỉa lỏng có khi dẫn đến chết người. Do đó dần dần có
kinh nghiệm phân biệt cây nào sử dụng được cây nào không sử dụng được.
Từ đó con người đã biết lợi dụng cây cỏ để làm thuốc chữa bệnh. Nên có thể
khẳng định việc phát hiện ra cây thuốc có từ rất lâu đời, qua thời gian con
người mới biết tổng kết và đặt ra nguyên tắc sử dụng.
Đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về cây thuốc như công
trình nghiên cứu thu thập các loài cây thuốc của G.S Đỗ Tất Lợi. Công trình
này đã nghiên cứu tỷ mỉ về từng loại cây thuốc vai trò, tác dụng, dạng sống...
Cuốn sách này đã giúp cho nhiều người quan tâm tới cây thuốc có thể tra,
xem một cách dễ dàng.
Nghiên cứu của tác giả Trần Khắc Bảo (2002) đã đưa ra một số nguyên
nhân làm cạn kiệt nguồn tài nguyên cây thuốc như diện tích rừng bị thu hẹp
chất lượng rừng suy thoái. Hay quản lý rừng còn nhiều bất cập chồng chéo,
kém hiệu quả. Theo đó tác giả cho rằng chiến lược bảo tồn tài nguyên cây
thuốc là bảo tồn các hệ sinh thái. Sự đa dạng các loài (trước hết là các loài có
giá trị y học và kinh tế, quý hiếm, đặc hữu, có nguy cơ tuỵêt chủng) và sự đa


10

dạng di truyền. Bảo tồn cây thuốc phải gắn liền với bảo tồn và phát huy trí
thức y học cổ truyền và y học dân giã gắn với sử dụng bền vững và phát triển

cây thuốc.
Khi nghiên cứu các biện pháp phát triển bền vững nguồn tài nguyên
thực vật phi gỗ tại Vườn quốc gia Hoàng Liên tác giả Ninh Khắc Bản (2003)
đã thống kế được 29 loài cây dùng làm thuốc và cây lấy tinh dầu. Trong đó
tác giả đã lựa chọn được một số loài có triển vọng để đưa vào phát triển như:
Thảo quả, Thiên niên kiện, Xuyên khung...
Theo Ninh Khắc Bản (2003) khi điều tra về nguồn thực vật phi gỗ tại
Hương Sơn- Hà Tĩnh bước đầu đã xây dựng được khoảng 300 loài cây có thể
sử dụng để làm thuốc. Tuy nhiên trong quá trình điều tra thấy có khoảng 25
loài cây được sử dụng làm thuốc chữa bệnh như: Hà thủ ô, Thiên niên kiện,
Thạch xương bồ, Ngũ gia bì, Sa nhân....
Năm 2006, Lê Thị Diên và nghiên cứu kỹ thuật gây trồng một số loài
cây thuốc nam dưới tán rừng tự nhiên trong bối cảnh nguồn tài nguyên dược
liệu thiên nhiên đang bị khai thác cạn kiệt cần thiết phải có các hoạt động bảo
tồn và phát triển nguồn tài nguyên cây dược liệu do chính người dân sống gần
rừng thực hiện nhằm sử dụng bền vững nguồn tài nguyên này trong tương lai.
Kỹ thuật tạo cây con và gây trồng các loài cây Bách bệnh, Bình vôi, Bồng
Bồng, Lá khôi, Vàng đắng đã được người dân tại thôn Hà An áp dụng rộng
rãi. Các cây thuốc nam được gây trồng có tỷ lệ sống cao, sức sinh trưởng tốt,
hứa hẹn sẽ đóng góp đáng kể vào nguồn thu nhập cho các hộ gia đình tham
gia gây trồng. Công trình nghiên cứu này nhằm cung cấp kỹ thuật gây trồng
một số loài cây thuốc nam được người dân sử dụng nhiều dựa trên kinh
nghiệm của họ kết hợp với những thử nghiệm từ đề tài để phát triển cây thuốc
nam tại thôn Hà An (Lê Thị Diên, 2006).
Khi nghiên cứu về trồng cây nông nghiệp, dược liệu và đặc sản dưới tán
rừng, Nguyễn Ngọc Bình và cs đã tìm hiểu kỹ thuật gây trồng các loài cây dưới


11


tán rừng để tạo ra sản phẩm, tăng thu nhập cho các hộ gia đình nhận khoán, bảo
vệ, khoanh nuôi rừng. Tác giả chỉ ra giá trị kinh tế, đặc điểm hình thái, sinh
thái, phân bố, kỹ thuật gây trồng 28 loài lâm sản ngoài gỗ như: Ba kích, Sa
nhân, Thảo quả, Trám trắng, Mây nếp,… (Nguyễn Ngọc Bình, 2000).
2.2.2. Những nghiên cứu về bảo tồn cây dược liệu
Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tiềm năng lớn về cây dược liệu
trong khu vực Đông Nam Á. Điều này thể hiện ở sự đa dạng về chủng loại
cây dược liệu (trong số hơn 12.000 loài thực vật Việt Nam thì có gần 4.000
loài cho công dụng làm thuốc), vùng phân bố rộng khắp cả nước, có nhiều
loài dược liệu được xếp vào loài quý và hiếm trên thế giới. Mặc dù có tiềm
năng to lớn, song công cuộc bảo tồn và phát triển các cây dược liệu cũng đang
gặp phải một số hạn chế, khó khăn. Hà Giang có trên 1.100 loài cây dược
liệu quý hiếm khác nhau. Các loài dược liệu sống chủ yếu ở độ cao từ 1.000 1.600m so với mực nước biển. Các loài cây dược liệu đang có thị trường tiêu
thụ lớn song chưa đáp ứng đủ. Nguồn nguyên liệu hiện nay chủ yếu khai thác
từ tự nhiên. Hầu hết các loài cần được bảo tồn, nuôi trồng, song gặp nhiều
khó khăn về nguồn giống, công nghệ nuôi trồng. Do đó, công tác phát triển
nguồn gen gặp nhiều khó khăn.
Cũng như nhiều nước trên thế giới, ở Việt Nam rừng nhiệt đới ở địa
hình thấp không còn nguyên vẹn nữa vì phần lớn các khu rừng thấp này đã bị
biến đổi do các hoạt động nông nghiệp, công nghiệp và định cư, làm cho sự
giàu có vốn có về tài nguyên sinh học ở đây đã bị suy thoái nghiêm trọng.
Cũng vì thế mà các khu rừng nguyên sinh phần lớn chỉ còn sót lại ở các vùng
núi cao, những nơi hiểm trở. Đó là những nơi cư trú cuối cùng của các loài
đặc hữu và các loài có nguy cơ bị tiêu diệt.
Nguyên nhân gây nên sự suy giảm tài nguyên rừng, nhất là các loài
dược liệu ở Việt Nam cũng đúng như hầu hết các nước khác trên thế giới: đó
là sự mâu thuẫn giữa cung và cầu. Tài nguyên thiên nhiên thì có hạn mà nhu


12


cầu của nhân dân thì ngày càng tăng, một mặt là để đáp ứng cuộc sống cho sô
dân tăng thêm một cách nhanh chóng, mặt khác là mức độ tiêu dùng của
người dân cũng tăng thêm không ngừng.
Việc nối lại thông thương qua biên giới với Trung Quốc đã gây những
sức ép mới về khai thác tài nguyên thiên nhiên. Giá của nhiều thú hoang đã
tăng lên 5 đến 10 lần. Vì nhu cầu của Trung Quốc về các tài nguyên rừng, đặc
biệt là thú rừng và cây thuốc là rất lớn và hầu như không bao giờ được thoả
mãn, nên các loài đang bị khai thác một cách không bền vững và triến vọng
bảo vệ tính đa dạng sinh học về lâu dài là không thuận lợi. Về mặt tích cực,
các cơ hội để xuất khẩu hoa quả, sản phẩm gỗ và gia súc vùng cao sang Trung
Quốc có thể rất lớn. Nếu điều kiện chuyên trở được cải thiện và sự kiểm soát
hành chính bị nơi lỏng, việc buôn bán qua biên giới có thể trở thành nguồn
ảnh hưởng chính đến tài nguyên trong vùng.
Theo “Nghiên cứu bảo tồn cây thuốc ở vườn quốc gia Bạch Mã, do tác
giả Trần Thiện An (Vườn quốc gia Bạch Mã) Trần Khắc Bảo (Viện dược
liệu) đã cho chúng ta có thêm một số kết quả về nguồn tự nhiên cây thuốc như
sau: Qua nghiên cứu ở cộng đồng dân cư sống trong vùng đệm vườn quốc gia
Bạch Mã đã thống kê được 520 loài cây cỏ sử dụng làm thuốc (thuộc 127 họ).
Có 26 loài được đưa vào sách đỏ Việt Nam như các loài quý hiếm bị đe doạ
tuyệt chủng. Trong đó có tới 13 loài có giá trị sử dụng lớn và thường bị người
dân khai thác vì lợi ích kinh tế.
Đề tài nghiên cứu bảo tồn cây thuốc dân tộc khu vực Sapa- Lào Cai do
hai tác giả Lưu Đàm Cư (Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật) và Trần Khắc
Bảo (Viện dược liệu) tiến hành đã thu được một số kết quả. Qua điều tra cho
thấy cây thuốc xuất hiện ở các dạng mô hình bảo tồn như sau: Mô hình bảo
tồn vườn rừng trong nguyên sinh núi cao; Mô hình bảo tồn tại núi Hàm Rồng;
Mô hình vườn rừng ở độ cao >1500m; Khu bảo tồn tại sườn núi đá nơi tại xã
xã Sa Pa... [18]. Qua việc phân khu đối với việc bảo tồn cây thuốc là cơ sở



13

cho việc bảo vệ và trồng mới các loại cây thuốc cho phù hợp với điều kiện
của từng khu vực.
Nguyễn Tập và cs đã tiến hành khảo sát, thu thập các loài cần được ưu
tiên bảo tồn, dựa trên các tiêu chí: loài có ranh giới, phạm vi phân bố hẹp và
số lượng cá thể ít hoặc loài tiêu biểu cho một dòng tiến hóa, có mức độ khác
biệt cao về di truyền. Trong số 134 loài được coi là có nguy cơ tuyệt chủng ở
nước ta, nhóm nghiên cứu đã phân cấp mức độ ưu tiên theo ba nhóm. Nhóm
cực kỳ nguy cấp (CR) có 18 loài như: Ba gạc hoa đỏ, Sâm vũ điệp, Bình vôi,
Hoàng liên...Nhóm nguy cấp (EN) có 42 loài. Đa số các loài như sâm Ngọc
Linh, Mã đâu linh, Hoàng tinh vòng... vốn không thật hiếm song đã bị khai
thác kiệt quệ, nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời chúng sẽ chuyển
sang nhóm cực kỳ nguy cấp. 74 loài còn lại được xếp ở dạng sẽ bị nguy cấp
(VU) đó là các loài vốn phân bố phổ biến nhưng bị khai thác tàn phá đến mức
nghiêm trọng như Hà thủ ô đỏ, Đẳng sâm...(Viện Dược liệu, 2002).
Từ nhiều năm qua, Viện Dược liệu đã thu thập hơn 500 loài cây thuốc
đem về trồng, nhân giống ở các vườn cây thuốc. 65 loài có nguy cơ cao đã
được trồng ở Trạm nghiên cứu trồng cây thuốc (Lào Cai), Vườn trạm nghiên
cứu trồng cây thuốc Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Vườn Trung tâm nghiên cứu
trồng và chế biến thuốc Hà Nội (Thanh Trì), Vườn trung tâm nghiên cứu dược
liệu Bắc Trung Bộ (Thanh Hóa) và vườn bảo tồn cây thuốc vùng cao Phó
Bảng (Đồng Văn - Hà Giang). Các vườn thuốc này có đủ điều kiện giống như
điều kiện sống tự nhiên của chúng và lý lịch thu thập, ngày trồng, tình hình
sinh trưởng phát triển, ra hoa - quả... được ghi lại để đánh giá khả năng bảo
tồn (Lê Văn Giỏi, 2006).
Theo Nguyễn Văn Tập, để bảo tồn cây thuốc có hiệu quả cần phải tiến
hành công tác điều tra quy hoạch, bảo vệ và khai thác bền vững, tăng cường
bảo tồn cây thuốc trong hệ thống các khu rừng đặc dụng và rừng phòng hộ,

bảo tồn chuyển vị kết hợp với nghiên cứu gieo trồng tại chỗ, có như vậy thì


14

các loại cây thuốc quý hiếm mới thoát khỏi nguy cơ bị tuyệt chủng, đồng thời
lại tạo ra thêm nguyên liệu để làm thuốc ngay tại các vùng phân bố vốn có
của chúng (Nguyễn Văn Tập, 2005).
Theo Nguyễn Văn Tập trong nguồn lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam, cây
thuốc chiếm một vị trí quan trọng về thành phần loài cũng như về giá trị sử
dụng và kinh tế. Theo kết quả điều tra cơ bản của Viện Dược liệu (Bộ Y tế)
đến năm 2004 đã phát hiện được ở nước ta có 3.948 loài thuộc 1.572 chi và
307 họ thực vật (kể cả rêu và nấm) có công dụng làm thuốc. Trong số đó, trên
90% tổng số loài là cây thuốc mọc tự nhiên, chủ yếu trong các quần hệ rừng.
Rừng cũng là nơi tập hợp hầu hết cây thuốc quý có giá trị sử dụng và kinh tế
cao. Tuy nhiên, do khai thác không chú ý đến tái sinh trong nhiều năm qua,
cùng với nhiều nguyên nhân khác, nguồn cây thuốc mọc tự nhiên ở Việt Nam
đã bị giảm sút nghiêm trọng.
2.3. Những nghiên cứu về loài Thảo quả
2.3.1. Những nghiên cứu về thảo quả trên thế giới
Năm 1968, một số nhà nghiên cứu cây thuốc tại Vân Nam, Trung Quốc
đã xuất bản cuốn sách “Kỹ thuật gây trồng cây thuốc ở Trung Quốc”. Cuốn
sách đã đề cập đến cây thảo quả với một số nội dung chủ yếu sau:
- Phân loại thảo quả: gồm có tên khoa học (Amomum tsao-ko Crevost
Lemaire), tên họ (Zingiberceae).
- Hình thái: dạng sống, thân, gốc, rễ, lá, hoa, quả.
- Vùng phân bố ở Trung Quốc.
- Đặc điểm sinh thái: khí hậu và đất đai.
- Kỹ thuật trồng: nhân giống, làm đất, trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu
bệnh hại.

- Thu hoạch và chế biến, phẩm chất quy cách, bao gói, bảo quản.
- Công dụng: dùng làm thuốc trị các bệnh đường ruột.


15

Đây là cuốn sách tương đối hoàn chỉnh đã giới thiệu một cách tổng
quát và có hệ thống về đặc điểm sinh vật học, sinh thái học, kỹ thuật gây
trồng, thu hái chế biến và bảo quản (Dẫn theo Phan Văn Thắng, 2002).
Năm 1992, J.H. de Beer - một chuyên gia lâm sản ngoài gỗ của tổ chức
Nông lương thế giới – khi nghiên cứu về vai trò và thị trường của lâm sản ngoài
gỗ đã nhận thấy giá trị to lớn của thảo quả đối với việc tăng thu nhập cho người
dân sống trong khu vực vùng núi nơi có phân bố thảo quả nhằm xoá đói giảm
nghèo, đồng thời là yếu tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội vùng núi và bảo
tồn phát triển tài nguyên rừng. Về nhu cầu thị trường của thảo quả là rất lớn, chỉ
tính riêng ở Lào, hàng năm xuất khẩu khoảng 400 tấn sang Trung Quốc và Thái
Lan. Đây là công trình nghiên cứu tổng kết về vai trò thảo quả đối với con
người, xã hội cũng như tình hình sản xuất buôn bán và dự báo thị trường, tiềm
năng phát triển của thảo quả (Dẫn theo Phan Văn Thắng, 2002).
Năm 1996, Tiền Tín Trung, một nhà nghiên cứu về cây thuốc dân tộc
tại Viện Vệ sinh dịch tễ công cộng Trung Quốc biên soạn cuốn sách “Bản
thảo bức tranh màu Trung Quốc”. Cuốn sách đã mô tả tới hơn 1000 loài cây
thuốc ở Trung Quốc, một trong số đó là thảo quả. Nội dung đề cập là: Tên
khoa học, một số đặc điểm sinh vật học và sinh thái học cơ bản, công dụng và
thành phần hoá học của thảo quả (Dẫn theo Phan Văn Thắng, 2002).
Năm 1999, trong cuốn “Tài nguyên thực vật của Đông Nam Á” L.S.
de Padua, N. Bunyapraphatsara và R.H.M.J. Lemmens đã tổng kết các nghiên
cứu về các cây thuộc chi Amomum trong đó có thảo quả. Ở đây tác giả đề cập
đến đặc điểm phân loại của thảo quả, công dụng, phân bố, một số đặc điểm
sinh vật học và sinh thái học của thảo quả. Tác giả cũng trình bày kỹ thuật

nhân giống, trồng, chăm sóc bảo vệ, thu hái, chế biến, tình hình sản xuất và
buôn bán thảo quả trên thế giới (Dẫn theo Phan Văn Thắng, 2002).
Thảo quả dùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách ẩm thiện chính
yếu, là quả chín phơi hay sấy khô của cây Thảo quả, tên thực vật là Amomum


16

Tsao-Ko Crevost et Lemaire thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Thảo quả được
trồng và mọc hoang ở những vùng khí hậu mát ở miền Bắc nước ta như
Hoàng liên sơn, Hà Giang, Tây Bắc. ở Trung quốc Thảo quả có mọc ở các
tỉnh Vân nam, Quảng tây, Quí châu. Thảo quả có nguồn gốc ở các tỉnh phía
nam Trung Quốc (Vân Nam, Quảng Đông), là một loài cây đặc sản đã được
gây trồng từ hàng trăm năm trước đây ở Trung Quốc. Thảo quả được coi là
một trong những vị thuốc quý của Trung Quốc. Trong mỗi vị thuốc bổ của
người Trung Quốc không thể thiếu thảo quả, thảo quả còn là hương vị cho các
món ăn đặc sản của dân tộc Trung Quốc cũng như ở Việt Nam.
Thảo quả: có tên khoa học là Amomum aromaticum Roxb, tên gọi
khác là Cardamomum aromaticum (Roxb.) Kuntze, Amomum tsaoko Crévost
& Lemarie thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Cây Thảo quả được phân bố ở Ấn
Độ, Nê pan, Nam Trung Quốc, Campuchia. Ở Ấn Độ, hạt và dầu được dùng
như loài Amomum subulatum Roxb để làm thuốc lợi tiêu hóa, dùng chữa đau
thần kinh, dùng trong bệnh lậu như kích dục và giải độc khi bò cạp đốt hoặc
rắn cắn. Dầu hạt thơm, kích thích, lợi tiêu hóa và dùng đắp lên mí mắt để tiêu
viêm. Ở Trung Quốc, Thảo quả được dùng chữa ho, đau ngực có đờm loãng,
bụng dạ lạnh đau, tỳ hư ỉa chảy, và sốt rét.
Thảo quả dùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách ẩm thiện chính
yếu, là quả chín phơi hay sấy khô của cây Thảo quả thuộc họ Gừng
(Zingiberaceae).
Thảo quả có nguồn gốc ở các tỉnh phía nam Trung Quốc (Vân Nam,

Quảng Đông), là một loài cây đặc sản đã được gây trồng từ hàng trăm năm
trước đây ở Trung Quốc. Thảo quả được coi là một trong những vị thuốc quý
của Trung Quốc. Trong mỗi vị thuốc bổ của người Trung Quốc không thể
thiếu thảo quả, thảo quả còn là hương vị cho các món ăn đặc sản của dân tộc
Trung Quốc cũng như ở Việt Nam.


17

Nhân giống Thảo quả có thể thực hiện bằng phương pháp giâm hom,
hữu tính bằng hạt, hoặc nuôi cấy mô tế bào. Trên thế giới có một số công
trình nghiên cứu bảo tồn và nhân giống in vitro chi Amomum. Sajina et al.,
(1997) đã nhân giống Amomum subulatum Roxb, đây là loài cây có giá trị
kinh tế quan trọng nhất ở Bengal - Ấn Độ. Amomum tsao-ko Crevost et
Lemaire Hongdong (2006) đã được nhân giống nuôi cấy mô in vitro từ chồi
đỉnh. Môi trường thích hợp cho nhân chồi là MS+BA 6 mg/L+NAA 0.1
mg/L+TDZ 0.05 mg/L (hệ số nhân đạt 2.34 lần). Môi trường ra rễ là môi
trường 1/2MS+IBA 0.2 mg/L hoặc 1/2MS+NAA 0.2 mg/l. Nói chung, các
công trình nghiên cứu về chọn giống, nhân giống và phát triển nguồn gen về
thảo quả chủ yếu được công bố bởi các nhà khoa học Trung Quốc và Ấn Độ.
2.3.2. Những nghiên cứu về thảo quả ở Việt Nam
Trước những giá trị của cây Thảo quả, từ năm 2004, các nhà khoa học
ở Phòng nghiên cứu tài nguyên thực vật rừng (Viện khoa học Lâm nghiệp) đã
bắt tay vào xây dựng kỹ thuật trồng Thảo quả dười tán rừng. Theo đánh giá
của Phòng nghiên cứu tài nguyên thực vật rừng, Thảo quả là cây cung cấp
một lượng hạt khá quý hiếm. Hạt Thảo quả có hàm lượng tinh dầu từ 1 1,5%, màu vàng nhạt, mùi thơm, vị ngọt, nóng cay dùng làm gia vị thực
phẩm. Đặc biệt, Thảo quả là một loại dược liệu dùng làm thuốc để chữa trị
bệnh đau bụng, đầy trướng, đau ngực, sốt rét. Nếu xét về mặt giá trị và hiệu
quả kinh tế, Thảo quả có ưu điểm vượt trội so hơn hẳn so với nhiều loài cây
trồng khác. Vì Thảo quả là cây lâu năm, trồng một lần thu hoạch nhiều lần và

thu hoạch hàng năm nên đầu tư cho tái tạo lại rừng trồng Thảo quả là rất thấp.
Vì thế, sau khi đã xây dựng hoàn chỉnh kỹ thuật trồng Thảo quả, hiện các nhà
khoa học ở Viện khoa học Lâm nghiệp đang đề nghị lên Bộ NN&PTNT nên
mở rộng diện tích trồng Thảo quả ra các tỉnh khác như: Lâm Đồng, Đắc Nông
và Kon Tum. Đây là những nơi có điều kiện khí hậu, đất đai phù hợp với cây
Thảo quả.


×