Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Ths TTDC giáo dục phẩm chất chính trị cho đội ngũ giảng viên trường cao đẳng công nghiệp hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.6 KB, 119 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1:

1.1.
1.2.
1.3.
Chương 2:

2.1.

2.2.

2.3.
Chương 3:

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC PHẨM
CHẤT CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHIỆP QUỐC
PHÒNG HIỆN NAY
Đội ngũ giảng viên Trường Cao đẳng Công nghiệp
Quốc phòng
Giáo dục phẩm chất trị cho đội ngũ giảng viên Trường
Cao đẳng Công nghiệp Quốc phòng
Sự cần thiết phải tăng cường giáo dục phẩm chất chính
trị cho đội ngũ giảng viên
GIÁO DỤC PHẨM CHẤT CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI
NGŨ GIẢNG VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG
NGHIỆP QUỐC PHÒNG – THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM
Những yếu tố tác động đến giáo dục phẩm chất chính


trị cho đội ngũ giảng viên Trường Cao đẳng Công
nghiệp Quốc phòng hiện nay.
Thực trạng giáo dục phẩm chất chính trị cho đội ngũ
giảng viên Trường Cao đẳng Công nghiệp Quốc
phòng
Nguyên nhân
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
GIÁO DỤC PHẨM CHẤT CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI
NGŨ GIẢNG VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG
NGHIỆP QUỐC PHÒNG HIỆN NAY
Quan điểm
Giải pháp tăng cường giáo dục

3.1.
3.2.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Trang
8

8
18
29
36

36

38


50
68

68
70
96
99
100


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Phẩm chất chính trị là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với đội ngũ nhà
giáo nói chung, nhà giáo Quân đội nói riêng; nó là nền tảng, động lực thôi
thúc trách nhiệm, nhiệt huyết để mỗi nhà giáo phấn đấu hoàn thành sự nghiệp
vẻ vang của mình, xứng danh với nghề cao quý trong xã hội. Bởi vậy, bồi
dưỡng phẩm chất chính trị cho đội ngũ nhà giáo Quân đội là việc làm cần
thiết, góp phần xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh, nâng cao chất lượng
dạy - học trong các nhà trường Quân đội.
Cũng như đội ngũ nhà giáo trong cả nước, đội ngũ nhà giáo Quân đội
có nhiệm vụ cao cả: “dạy chữ” và “dạy người”. Do tính chất đặc thù của hoạt
động giáo dục - đào tạo trong Quân đội, nên trong quá trình giảng dạy ngoài
việc truyền thụ kiến thức cho người học, nhà giáo Quân đội còn phải trang bị
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của
Đảng, kiến thức khoa học xã hội và nhân văn, kiến thức quân sự - quốc
phòng, chuyên môn nghiệp vụ và các kiến thức, nội dung bổ trợ khác. Qua đó,
giúp người học hình thành thế giới quan khoa học, phương pháp luận mác-xít,
bồi dưỡng tư duy, năng lực thực hành, phẩm chất đạo đức, lối sống, phương
pháp, tác phong công tác phù hợp cương vị, chức trách được giao. Đồng thời,

họ là lực lượng tiên phong đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, góp phần
làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, bảo vệ
vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội. Xuất phát từ mục tiêu
đào tạo của các nhà trường Quân đội cũng như đặc điểm hoạt động trong môi
trường quân sự, nên yêu cầu đặt ra đối với phẩm chất chính trị của đội ngũ
nhà giáo là rất cao. Nó không chỉ khẳng định phẩm giá, lòng yêu ngành, yêu
nghề, tích cực học tập, trau dồi trình độ, năng lực, phương pháp sư phạm và
tư cách của người thầy, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng, nhân cách,
hành vi, tình cảm nghề nghiệp của đội ngũ học viên.


Nhận thức rõ điều đó, những năm qua, công tác bồi dưỡng phẩm chất
chính trị cho đội ngũ nhà giáo luôn được các Nhà trường quân đội chú trọng
và thực hiện nghiêm túc, phù hợp với đặc điểm của từng trường, yêu cầu đặt
ra với từng chuyên ngành quân sự và mang lại hiệu quả thiết thực. Bởi thế,
mặc dù còn nhiều khó khăn, bất cập, song đội ngũ Nhà giáo Quân đội hiện
nay cơ bản nhận thức rõ trách nhiệm nặng nề và vinh dự to lớn của mình đối
với sự nghiệp dạy “chữ”, dạy “người”; tâm huyết, say mê với nghề, giữ vững
chữ “đạo”, coi trọng chữ “tâm”; không ngừng học tập, trau dồi kiến thức, kỹ
năng nghề nghiệp, luôn là tấm gương sáng về đạo đức cách mạng, ý chí nỗ
lực vươn lên. Đồng thời, là người truyền cảm hứng, thắp lên ngọn lửa đam mê
nghề nghiệp, khơi dậy tình yêu quê hương, đất nước, khát khao cống hiến cho
lý tưởng cách mạng và sự nghiệp xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc để học
viên noi theo. Thông qua giáo dục phẩm chất chính trị, bồi dưỡng cho đội ngũ
nhà giáo tinh thần “Tất cả vì học viên thân yêu”, luôn tích cực học tập, nghiên
cứu, ham mê hiểu biết, khám phá cái mới, nắm chắc và vận dụng sáng tạo các
nguyên tắc, phương pháp dạy học, nghiên cứu khoa học vào quá trình giảng
dạy, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo trong các Nhà trường
Quân đội.
Tuy nhiên, đối chiếu với yêu cầu đề ra, việc bồi dưỡng phẩm chất chính

trị cho đội ngũ nhà giáo Quân đội, nhất là nhà giáo trẻ vẫn còn hạn chế, làm
ảnh hưởng đến việc xác định động cơ nghề nghiệp, chất lượng giảng dạy
trong các Nhà trường quân đội. Một trong những hạn chế đó được Nghị quyết
Trung ương 8 (khóa XI) chỉ ra là: "đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu
cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức
nghề nghiệp". Trước tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường, nhất là
ảnh hưởng bởi lối sống thực dụng đã làm cho một số nhà giáo còn có sự so
sánh giữa môi trường sống trong và ngoài Quân đội, thiếu yên tâm công tác.
Gần đây, một số ít nhà giáo do thiếu tu dưỡng, rèn luyện, nên trình độ chuyên


môn thấp, vi phạm kỷ luật đạo đức, lối sống, làm giảm uy tín, niềm tin của
người học đối với đội ngũ nhà giáo, v.v.
Trường Cao đẳng Công nghiệp quốc phòng là đơn vị đào tạo trực thuộc
Tổng cục Công nghiệp quốc phòng (Bộ Quốc phòng), với chức năng: Đào tạo
cao đẳng, đào tạo nghề nghiệp cho Ngành Công nghiệp quốc phòng và cho
toàn quân. Tổ chức nghiên cứu khoa học, công nghệ phục vụ sản xuất quốc
phòng và đào tạo.
Hơn 60 năm qua với sự nỗ lực, cố gắng của tập thể sư phạm Nhà
trường đã đào tạo được hàng vạn cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật,
nghiệp vụ, công nhân kỹ thuật đáp ứng cho Ngành Quân giới (nay là Ngành
Công nghiệp quốc phòng Việt Nam); đóng góp nhiều kết quả thành tích trong
2 cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc và sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
trong thời bình.
Hiện nay, trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng Quân đội “cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, một số lực lượng tiến thẳng lên
hiện đại, bên cạnh việc trang bị vũ khí, khí tài mới, hiện đại, công tác đào tạo
nguồn lực con người, nhất là đội ngũ cán bộ, sĩ quan, nhân viên chuyên môn
kỹ thuật ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ là vấn đề cấp thiết, cần quan tâm giải

quyết. Để đáp ứng yêu cầu đề ra, công tác giáo dục - đào tạo trong các Nhà
trường Quân đội nói chung, Trường Cao đẳng Công nghiệp quốc phòng nói
riêng, trực tiếp là việc bồi dưỡng phẩm chất chính trị của người thầy có ý
nghĩa quyết định chất lượng đội ngũ cán bộ.
Với thực tế như vậy, việc nghiên cứu biện pháp nâng cao phẩm chất
chính trị đội ngũ giảng viên là một khâu đột phá, nhằm góp phần giải quyết
những vấn đề còn vướng mắc, bất cập, đồng thời đưa ra những biện pháp
mang tính thực tế, khả thi để củng cố, phát triển đội ngũ giảng viên của
trường đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Với lý do kể trên, tác giả chọn đề tài
“Giáo dục phẩm chất chính trị cho đội ngũ giảng viên Trường Cao đẳng
Công nghiệp quốc phòng hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm vừa qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan
đến vấn đề công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, phẩm chất chính trị, đạo
đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, giảng viên, các tầng lớp trong xã hội nói
chung. Các công trình nghiên cứu này đã đề cập đến vấn đề nâng cao, bồi
dưỡng, giáo dục phẩm chất chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên…
dưới nhiều góc độ khác nhau như: Ý thức chính trị của đội ngũ giảng viên;
nâng cao phẩm chất chính trị, lối sống, lương tâm, nghiệp vụ sư phạm của nhà
giáo … Sau đây là một số công trình tiêu biểu:
* Về các công trình nghiên cứu được thể hiện dưới dạng chuyên khảo:
GS, TS Phạm Tất Dong (chủ biên) ( 2001): “Định hướng phát triển đội
ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa” Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
Ngô Thị Phương (2007), “Đội ngũ tri thức Khoa học xã hội và Nhân
văn trong sự nghiệp đổi mới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
TS. Ngô Huy Tiếp (chủ biên) (2008), “Đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với trí thức nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

PGS, TS Nguyễn Khánh Bật, Th.s Trần Thị Huyền (đồng chủ biên),
“Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH theo tư tưởng Hồ
Chí Minh” Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
* Về các công trình nghiên cứu được thể hiện dưới dạng các luận văn:
Trần Thị Lan, Luận văn tiến sĩ triết học (2004), lưu tại Học viện
Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh: “Chất lượng lao động đội ngũ
trí thức giáo dục đại học hiện nay”.
Đại Tá Nguyễn Công Lựu, Luận văn thạc sĩ (2011), lưu tại Tổng cục
Chính trị: “Ý thức chính trị của đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và công
nghệ quân sự ở các Viện nghiên cứu thuộc Tổng cục Công nghiệp quốc
phòng”.


Lương Ngọc Vĩnh, luận án Tiến sĩ khoa học chính trị ( 2012), lưu tại
Học viện Báo chí và Tuyên truyền: “Hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư
tưởng trong học viên các học viện quân sự ở nước ta hiện nay”.
Trần Thị Thanh Nhàn, Luận văn Thạc sĩ chính trị học (2014), lưu tại
Học viện Báo chí và Tuyên truyền “Nâng cao ý thức chính trị cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Đồng Tháp hiện nay”.
Các công trình nghiên cứu tiếp cận từ hiều góc độ khác nhau. Tuy
nhiên, các công trình nêu trên chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về
Giáo dục phẩm chất chính trị cho đội ngũ giảng viên trong các Nhà trường
Quân đội nói chung và Trường Cao đẳng Công nghiệp Quốc phòng (Tổng cục
Công nghiệp Quốc phòng) hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn giáo dục phẩm chất chính
trị cho đội ngũ giảng viên của trường Cao đẳng Công nghiệp Quốc Phòng,
trên cơ sở đó đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao phẩm chất chính trị của đội ngũ giảng viên của trường.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về giáo dục phẩm chất chính trị cho đội
ngũ nhà giáo quân đội nói chung và giảng viên của Trường Cao đẳng Công
nghiệp quốc phòng nói riêng.
- Khảo sát thực trạng giáo dục phẩm chất chính trị cho đội ngũ giảng
viên của Trường Cao đẳng Công nghiệp quốc phòng hiện nay.
- Đề xuất một số nhóm giải pháp cơ bản nhằm nâng cao phẩm chất
chính trị của đội ngũ giảng viên Trường Cao đẳng Công nghiệp quốc phòng
hiện nay.


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Giáo dục phẩm chất chính trị cho đội ngũ giảng viên Trường Cao đẳng
Công nghiệp Quốc phòng hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động giáo dục phẩm chất chính trị cho đội ngũ giảng viên của
trường Cao đẳng Công nghiệp Quốc phòng từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được xây dựng dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống, phẩm chất chính
trị cho cán bộ đảng viên nói chung và đội ngũ giảng viên nói riêng.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Tình hình giáo dục chính trị và phẩm chất của đội ngũ giảng viên
Trường Cao đẳng Công nghiệp quốc phòng hiện nay, thông qua số liệu thực
tế ở các đơn vị; số liệu điều tra xã hội học của tác giả; cùng với các chỉ thị,
nghị quyết, chương trình hành động, báo cáo tổng kết của Nhà trường về xây
dựng đội ngũ nhà giáo.
5.3. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp điều tra xã hội học, phỏng vấn, trao đổi kinh nghiệm, lấy
ý kiến chuyên gia, phân tích, tổng hợp, đánh giá, bình luận, tổng kết kinh
nghiệm, phân tích thực tiễn hoạt động của giảng viên Trường Cao đẳng
CNQP.
Sử dụng thống kê xử lý kết quả khảo sát nhằm rút ra các kết luận khoa
học khái quát cho đề tài.


6. Cái mới của Luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ quan niệm, tiêu chí về phẩm chất chính
trị của giảng viên các trường trong Quân đội nói chung, phẩm chất chính trị
của đội ngũ giảng viên Trường Cao đẳng Công nghiệp Quốc phòng nói riêng.
Đề xuất những giải pháp có tính khả thi để nâng cao chất lượng việc
giáo dục phẩm chất chính trị cho đội ngũ giảng viên của trường Cao đẳng
Công nghiệp Quốc phòng.
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ
công tác giảng dạy và nghiên cứu về công tác chính trị, tư tưởng ở hệ thống
các nhà trường trong Quân đội.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài được
kết cấu theo 3 chương, 8 tiết.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC PHẨM CHẤT CHÍNH TRỊ
CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHIỆP
QUỐC PHÒNG
1.1. Đội ngũ giảng viên Trường Cao đẳng Công nghiệp Quốc phòng
thuộc Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng

1.1.1. Khái quát về Tổng cục Công nghiệp quốc phòng
* Quá trình hình thành và phát triển
Ngày 03-3-1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ký Nghị định số
22/HĐBT, thành lập Tổng cục Công nghiệp quốc phòng và Kinh tế trực thuộc
Bộ Quốc phòng, trên cơ sở hợp nhất và sắp xếp lại cơ quan Tổng cục Kinh tế
với cơ quan quản lý các xí nghiệp sản xuất quốc phòng. Sự ra đời của Tổng
cục Công nghiệp quốc phòng và Kinh tế (nay là Tổng cục Công nghiệp quốc
phòng) mở ra thời kỳ mới của sự phát triển ngành Công nghiệp quốc phòng
mà tiền thân là ngành Quân giới Việt Nam trước đây.
Trong những năm qua, với cơ cấu tổ chức hợp lý, phù hợp với yêu cầu
của nhiệm vụ xây dựng quân đội trong giai đoạn hiện nay, Tổng cục Công
nghiệp quốc phòng đã vươn lên mạnh mẽ thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất
quốc phòng và làm kinh tế. Tổng cục đã triển khai các chương trình, dự án
mới phát triển ngành theo phương hướng đã được xác định trong các nghị
quyết của Đảng. Trong đó tập trung vào hai khâu đột phá:
Một là, ổn định và nâng cao chất lượng của sản phẩm quốc phòng, bảo
đảm sự tin cậy của bộ đội đối với vũ khí do công nghiệp quốc phòng nước ta
sản xuất.
Hai là, nâng cao chất lượng nghiên cứu thiết kế, chế tạo, sửa chữa, nhất
là công nghệ chế tạo một số loại vũ khí mới và hoàn thiện một số loại sản
phẩm quan trọng của Công nghiệp quốc phòng; tích cực tham gia phát triển
kinh tế xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm kinh tế, phấn đấu đạt


tăng trưởng cao về các chỉ tiêu sản xuất và thu nhập so với bình quân của cả
nước và ngành công nghiệp quốc gia, góp phần đẩy nhanh Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
* Chức năng, nhiệm vụ:
Chức năng: Theo Quyết định 294/2000/QĐ-BQP ngày 06-3-2000 của
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng là cơ quan

tham mưu tổng hợp về công nghiệp quốc phòng trực thuộc Bộ Quốc phòng,
giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thực hiện quản lý nhà nước về công nghiệp
quốc phòng; quản lý và điều hành trực tiếp đối với 42 đơn vị trực thuộc hoạt
động trên các lĩnh vực: sản xuất quốc phòng, kinh tế, nghiên cứu khoa học,
giảng dạy và quản lý vật tư quốc phòng.
Nhiệm vụ: Nghiên cứu xây dựng các đề án chiến lược, quy hoạch xây
dựng công nghiệp quốc phòng, kế hoạch phát triển và đầu tư cho công nghiệp
quốc phòng. Thẩm định hoặc tham gia thẩm định các dự án đầu tư cho công
nghiệp quốc phòng và quản lý quá trình triển khai các dự án theo phân cấp.
Nghiên cứu, đề xuất các chế độ, chính sách, cơ chế quản lý công nghiệp quốc
phòng, hướng dẫn thực hiện. Theo dõi, kiểm tra, việc thực hiện kế hoạch và
kết quả sản xuất quốc phòng của Quân đội; quản lý hợp tác quốc tế về sản
xuất quốc phòng. Quản lý, chỉ đạo và điều hành mọi hoạt động của các doanh
nghiệp và đơn vị trực thuộc. Quản lý dự trữ vật tư quốc phòng. Quản lý việc
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và thực hiện các chế độ, chính sách đối với cán
bộ công nghiệp quốc phòng, công nhân viên quốc phòng; quản lý hoạt động
khoa học công nghệ - môi trường trong Tổng cục; quản lý việc thiết kế - công
nghệ sản xuất trong công nghiệp quốc phòng. Thực hiện nhiệm vụ động viên
công nghiệp theo phân công.
1.1.2. Khái quát về Trường Cao đẳng Công nghiệp Quốc phòng
Trường Cao đẳng Công nghiệp quốc phòng được thành lập trên cơ sở
nâng cấp Trường Trung học Công nghiệp quốc phòng mà tiền thân là các


trường: Trung học Kỹ thuật, Công nhân Kỹ thuật 3, Trung học Kinh tế và
Trường Bổ túc cán bộ sáp nhập lại.
Với bề dầy truyền thống hơn 60 năm xây dựng và trưởng thành, Nhà
trường đã đào tạo được hàng vạn cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật,
nghiệp vụ, công nhân kỹ thuật đáp ứng cho ngành quân giới (nay là ngành
Công nghiệp quốc phòng Việt Nam); đóng góp nhiều kết quả thành tích trong

2 cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc và sự nghiệp CNH,HĐH đất nước trong
thời bình. Trong những năm gần đây Nhà trường tiếp tục được cấp trên quan
tâm đầu tư, nâng cấp, từng bước vươn lên đáp ứng các yêu cầu mới của sản
xuất quốc phòng, góp phần xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chức năng của Trường Cao đẳng CNQP: Đào tạo cao đẳng, đào tạo
nghề nghiệp cho các ngành công nghiệp quốc phòng và cho toàn quân. Tổ
chức nghiên cứu khoa học, công nghệ phục vụ sản xuất quốc phòng và đào
tạo.
Nhiệm vụ của Trường Cao đẳng CNQP: Đào tạo bậc cao đẳng và trung
cấp các ngành kinh tế, kỹ thuật; cao đẳng nghề, trung cấp nghề và dạy nghề
ngắn hạn. Đào tạo nâng cao, đào tạo lại, tập huấn, bồi dưỡng cán bộ; nhân
viên chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ, thợ bậc cao cho các ngành Công nghiệp
quốc phòng. Đào tạo học viên quốc tế, đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá khi được nhà nước và Bộ Quốc phòng giao.
Nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ phục vụ đào tạo, huấn luyện và
sản xuất quốc phòng; tận dụng khả năng hiện có để tổ chức sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ theo quy định của pháp luật. Xây dựng nhà trường vững mạnh
sẵn sàng nhận và hoàn thành các nhiệm vụ khác được giao.
Cơ cấu tổ chức: Theo biên chế do Bộ Tổng tham mưu phê duyệt thì cơ
cấu tổ chức của Nhà trường gồm: Hiệu trưởng, Chính ủy và 03 Phó Hiệu
trưởng, 01 Phó Chính ủy, 04 phòng chức năng, 03 ban trực thuộc Nhà trường
và 08 khoa chuyên môn nghiệp vụ, 02 Xưởng, 03 Tiểu đoàn:


Có 04 phòng:
- Phòng Đào tạo;
- Phòng Chính trị;
- Phòng Kỹ thuật;
- Phòng Hành Chính - Hậu cần;

Có 03 Ban trực thuộc Nhà trường:
- Ban Tài chính;
- Ban Khảo thí và Đảm bảo chất lượng Giáo dục - Đào tạo;
- Ban Khoa học Quân sự;
Có 08 Khoa chuyên môn, nghiệp vụ:
- Khoa Cơ bản Cơ sở;
- Khoa KHXH&NV;
- Khoa Cơ khí Vũ khí;
- Khoa Công nghệ hóa nổ
- Khoa Dạy nghề;
- Khoa Điện - Điện tử
- Khoa Kinh tế
- Khoa Tin học - Ngoại ngữ
Có 02 Xưởng thực hành:
- Xưởng 1;
- Xưởng 2;
Có 03 Tiểu đoàn học viên:
- Tiểu đoàn 1;
- Tiểu đoàn 2;
- Tiểu đoàn 3.
1.1.3. Đội ngũ giảng viên của Trường Cao đẳng CNQP
1.1.3.1. Khái niệm giảng viên
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt
Nam thì: “Giảng viên là người giảng dạy ở đại học hay lớp huấn luyện cán


bộ”. Theo Luật Giáo dục 2009, giảng viên bao gồm các nhà sư phạm được
tuyển dụng và bổ nhiệm vào các ngạch giảng viên, giảng viên chính, phó giáo
sư, giảng viên cao cấp và giáo sư trong biên chế sự nghiệp của cơ sở đào tạo
đại học - cao đẳng công lập hoặc trong danh sách làm việc toàn thời gian của

cơ sở giáo dục đại học - cao đẳng ngoài công lập.
Giảng viên cơ hữu: là giảng viên thuộc biên chế chính thức của nhà
trường.
Trong các trường quân đôi, giảng viên được lựa chọn từ những quân
nhân ưu tú học tập tại các trường quân đội trong cả nước hoặc công dân ngoài
ngành có lai lịch chính trị rõ ràng, trong sáng; có phẩm chất chính trị vững
vàng; có phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực hoạt động chính trị thực
tiễn, có chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp.
1.1.3.2. Nhiệm vụ của giảng viên
Ngoài việc phải thực hiện nhiệm vụ của nhà giáo theo quy định của
Luật Giáo dục, giảng viên có những nhiệm vụ sau:
Thực hiện nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục đại học gồm các trình độ:
Cao đẳng, Đại học, Thạc sĩ, Tiến sĩ; đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo,
cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật;
Nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ;
Tham gia công tác quản lý đào tạo, quản lý khoa học và công nghệ tại
cơ sở giáo dục đại học;
Thường xuyên học tập, bồi dưỡng để nâng cao trình độ mọi mặt theo
tiêu chuẩn nghiệp vụ của giảng viên;
Tham gia các hoạt động xã hội theo trách nhiệm, nghĩa vụ công dân.
* Nội dung của các nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục của giảng viên:
Nghiên cứu và nắm vững mục tiêu giáo dục, nội dung, chương trình của
chuyên ngành đào tạo, hiểu thấu đáo vị trí và yêu cầu của môn học được phân
công giảng dạy; tìm hiểu trình độ, khả năng, kiến thức và hiểu biết của người
học;


Xây dựng kế hoạch dạy học, viết đề cương môn học, xác định nội dung
bài giảng và thiết kế các học liệu cần thiết phục vụ cho bài giảng, phụ đạo và
hướng dẫn sinh viên rèn luyện kỹ năng tự học tập, nghiên cứu, làm thí

nghiệm, thực hành, thảo luận khoa học, thực tập nghề nghiệp, tham gia các
hoạt động thực tế phục vụ sản xuất và đời sống;
Ra đề và chấm bài kiểm tra, bài thi để đánh giá kết quả học tập của sinh
viên; ra đề và chấm thi kết thúc học phần, thi cuối khoá, thi tốt nghiệp;
Hướng dẫn học viên cao học và nghiên cứu sinh viết báo cáo thu hoạch
chuyền đề sau đại học; luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ;
Dự giờ và tham gia đánh giá hoạt động giảng dạy, giáo dục của các
giảng viên khác;
Thực hiện kế hoạch giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên; giúp họ
biết phát huy vai trò chủ động trong học tập và rèn luyện. Tổ chức phong trào
và hướng dẫn sinh viên tự giác thực hiện mục tiêu đào tạo và nhiệm vụ chính
của nhà trường;
Tham gia xây dựng và phát triển ngành học, cải tiến nội dung chương
trình, cải tiến phương pháp giảng dạy, nghiên cứu và thực hành môn học;
Biên soạn giáo trình, sách, chuyên khảo và tài liệu tham khảo phục vụ
công tác đào tạo, bồi dưỡng;
Tham gia thiết kế, xây dựng các cơ sở phục vụ cho giảng dạy và học tập.
Hướng dẫn người học tham gia đánh giá hoạt động dạy học; thường
xuyên cập nhật thông tin từ người học để xử lý, bổ sung, hoàn chỉnh phương
pháp, nội dung, kế hoạch giảng dạy, giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu đào
tạo với chất lượng, hiệu quả cao đáp ứng yêu cầu của xã hội.
* Nội dung nhiệm vụ chuyển giao công nghệ của giảng viên:
Chủ trì hoặc tham gia tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện các chương trình,
đề tài nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và dự án sản xuất thử
nghiệm ở các cấp;


Nghiên cứu để phục vụ cho việc xây dựng chương trình đào tạo, bồi
dưỡng, biên soạn giáo trình, sách chuyên khảo, tài liệu tham khảo;
Công bố kết quả nghiên cứu trên các tạp chí khoa học;

Viết chuyên đề tham luận tại các hội nghị, hội thảo khoa học các cấp ở
trong và ngoài nước;
Tổ chức và tham gia các buổi xêmina của khoa, bộ môn; hướng dẫn
học viên thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học;
Ký kết và thực hiện các hợp đồng nghiên cứu khoa học, chuyển giao kỹ
thuật và công nghệ với các tổ chức, cá nhân ở trong và cũng như ngoài cơ sở
giáo dục đại học phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội;
Tư vấn về chuyển giao công nghệ.
Thực hiện hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học và công nghệ;
Tham dự các cuộc thi sáng tạo về khoa học, sở hữu trí tuệ, bằng phát
minh, sáng chế, các hoạt động khoa học và công nghệ khác;
* Nội dung của nhiệm vụ tham gia công tác quản lý đào tạo, quản lý
hoạt động khoa học của giảng viên:
Tham gia công tác tuyển sinh hàng năm của nhà trường;
Tham gia xây dựng, triển khai và giám sát việc thực hiện kế hoạch
giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học;
Đánh giá kết quả học tập, nghiên cứu khoa học cũng như chất lượng
chính trị, tư tưởng của học viên.
Tham gia các công tác kiêm nhiệm như: chủ nhiệm lớp, chuyên môn
và đào tạo, công tác Đảng, đoàn thể, công tác quản lý ở bộ môn, khoa, phòng,
ban, … thuộc cơ sở giáo dục và tham gia các công tác quản lý khoa học, công
tác quản lý đào tạo khác khi có yêu cầu.
* Nội dung của nhiệm vụ học tập, bồi dưỡng để nâng cao trình độ của
giảng viên:
Học tập, nghiên cứu, nâng cao trình độ đào tạo để được cấp bằng thạc
sĩ, tiến sĩ của chuyên ngành đào tạo đang đảm nhiệm;


Học tập, bồi dưỡng để được cấp bằng, chứng chỉ về lý luận chính trị,
nghiệp vụ sư phạm, quản lý giáo dục;

Học tập, bồi dưỡng năng lực, phẩm chất nhân cách của mình theo tiêu
chuẩn nghề nghiệp của giảng viên và theo chương trình quy định cho từng đối
tượng khi nâng ngạch, bổ nhiệm các chức danh của giảng viên;
Học tập, bồi dưỡng để nâng cao trình độ, ngoại ngữ, tin học, nghiên
cứu khoa học và khả năng hội nhập quốc tế;
Học tập, bồi dưỡng để cập nhật kiến thức mới và nâng cao sự hiểu biết
mọi mặt.
Nội dung của nhiệm vụ tham gia các hoạt động xã hội của giảng viên là
thực hiện các công tác chung của xã hội theo nghĩa vụ của một công dân như:
làm nghĩa vụ quân sự, tham gia bảo vệ môi trường, hoạt động văn hoá, bảo vệ
trật tự, trị an ở địa phương, phòng, chống tệ nạn xã hội, thiên tai, dịch bệnh.
Từ phân tích trên, có thể đưa ra quan niệm: Đội ngũ giảng viên Trường
Công nghiệp quốc phòng là những cán bộ làm công tác giảng dạy và nghiên
cứu khoa học, được biên chế trong tổ chức của Trường Cao đẳng CNQP, thực
hiện nhiệm vụ do Nhà trường phân công và hoạt động theo quy chế, quy định
của Nhà trường.
1.1.3.3. Tiêu chuẩn phẩm chất, năng lực của đội ngũ giảng viên
Người giảng viên là người cán bộ khoa học, nắm vững các phương
pháp khoa học về giảng dạy và giáo dục, sử dụng thành thạo các phương tiện
kỹ thuật trong giảng dạy, tham gia tích cực vào công tác nghiên cứu khoa học
vào đời sống xã hội. Họ là những người tiên tiến của xã hội. Nhân cách của
người giảng viên là nhân cách của người trí thức hoạt động trong lĩnh vực
giáo dục.
Về phẩm chất chính trị người giảng viên trước hết phải hội tụ đầy đủ
phẩm chất người công chức Nhà nước, đó là: “Trung thành với Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; “chấp hành nghiêm chỉnh đường lối
chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước”; “tận tụy phục


vụ nhân dân”; “có nếp sống lành mạnh, trung thực, cần kiệm, liêm chính, chí

công vô tư”; “có ý thức tổ chức kỷ luật và trách nhiệm trong công việc”;
“thường xuyên học tập nâng cao trình độ”; “chấp hành sự điều động, phân
công công tác của cơ quan”.
Là người công chức trong lĩnh vực giáo dục, người giảng viên phải có
đủ phẩm chất của một nhà giáo, đó là: “phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt, đạt
trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ; đủ sức khoẻ theo yêu
cầu của nghề nghiệp, lý lịch bản thân rõ ràng”.
Yêu cầu chung đối với người giảng viên về năng lực là phải đạt tiêu
chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức bậc cao đẳng và đại học ban hành theo
quyết định số 538/TCC-BCTL ngày 18/12/1995 của Ban Tổ chức - Cán bộ
Chính phủ. Cùng với những phẩm chất chính trị, những phẩm chất năng lực
có nghĩa nhất đối với hoạt động giáo dục của người giảng viên là xu hướng
nghề nghiệp sư phạm, năng lực sư phạm và năng lực chuyên môn.
Xu hướng nghề nghiệp sư phạm của người giảng viên biểu hiện ở lòng
yêu nghề, tình thương và trách nhiệm với sinh viên, muốn giảng dạy và giáo
dục họ, thể hiện ở hứng thú với bộ môn khoa học mình đang giảng dạy. Người
giảng viên nắm vững hệ thống tri thức khoa học theo bộ môn, nắm vững lý
luận dạy học, thực tiễn sư phạm và kết quả học tập của sinh viên.
Trình độ nghiệp vụ sư phạm của người giảng viên phụ thuộc vào động
cơ lựa chọn nghề nghiệp, thái độ đối với công việc và năng lực sư phạm.
Năng lực là “những thuộc tính tâm lý của cá nhân bảo đảm cho việc
thực hiện có kết quả một hay một số lĩnh vực hoạt động nhất định”. Nói cách
khác, “năng lực là tập hợp các kỹ năng (hoạt động) tác động lên các nội dung
trong tình huống có ý nghĩa đối với học sinh”.
Năng lực sư phạm là loại năng lực chuyên biệt. Nó được thể hiện rõ
ràng ở người giảng viên chủ yếu là các phẩm chất trí tuệ (tính thuyết phục,
tính nghiêm túc và tính logic của ngôn ngữ); các phẩm chất tưởng tượng (khả
năng đặt mình vào vị trí của sinh viên và hiểu họ, nắm vững các phương pháp



khoa học về giảng dạy và giáo dục, vận dụng sáng tạo, linh hoạt các phương
pháp dạy học, các hình thức tổ chức dạy học - giáo dục; sử dụng thành thạo
các phương tiện kỹ thuật dạy học - giáo dục.
Năng lực sư phạm liên quan chặt chẽ đến năng lực chuyên môn. Năng
lực chuyên môn xâm nhập vào các cấu trúc hoạt động của người giảng viên,
góp phần cho việc sáng tạo sư phạm khi người giảng viên đó có năng lực và
xu hướng sư phạm.
Như vậy, yêu cầu người giảng viên phải có tài năng chung biểu hiện
trong các năng lực chung cũng như năng lực chuyên biệt, thể hiện ở các đặc
tính ngôn ngữ, tư duy, tưởng tượng, biểu hiện trong các nét ý chí, tính cách
của họ và bị lôi cuốn bởi các hoạt động chuyên môn khác nhau.
Tóm lại, yêu cầu đối với mỗi người giảng viên cao đẳng và đại học là
phải hội tụ đầy đủ ba thành tố đó là kiến thức, kỹ năng, thái độ, trong đó kiến
thức là thành tố cơ bản nhất. Kiến thức chuyên môn vững vàng là tiền đề đầu
tiên để đảm bảo hiệu quả hoạt động của giảng viên trong cả giảng dạy và
nghiên cứu khoa học. Cùng với kiến thức chuyên môn, người giảng viên cần
phải nắm được các kiến thức về môi trường hoạt động của mình là nhà trường
cao đẳng và đại học, nắm bắt được các chức năng, nhiệm vụ và các quy định
của nó, đồng thời người giảng viên cần phải có những hiểu biết về tâm lý, về
xã hội, sư phạm... để hoạt động dạy học của mình phù hợp với sinh viên nhằm
kích thích nhu cầu, động cơ và khả năng nhận thức của họ.
Kiến thức là cơ sở cho năng lực hoạt động của giảng viên, nhưng bản
thân kiến thức không thể mang lại kết quả mong muốn nếu người giảng viên
không nắm được các kỹ năng cần thiết. Thông qua kỹ năng, kiến thức và thái
độ mới biến thành kết quả hoạt động. Kỹ năng cơ bản nhất của giảng viên là
kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sử dụng thiết bị và kỹ năng cập nhật kiến thức. Các
kỹ năng này không phải tự nhiên có được mà phải được trau dồi qua hoạt
động thực tiễn, tự học, tự bồi dưỡng, tự nghiên cứu.



Hiệu quả hoạt động của giảng viên không chỉ phụ thuộc vào kiến thức,
kỹ năng mà còn phụ thuộc vào giá trị, niềm tin, thái độ và sự tận tụy của họ,
các phẩm chất cần có một thời gian dài mới được hình thành và củng cố.
1.2. Giáo dục phẩm chất trị cho đội ngũ giảng viên Trường Cao
đẳng Công nghiệp Quốc phòng.
1.2.1. Phẩm chất chính trị của đội ngũ giảng viên
1.2.1.1. Phẩm chất chính trị
Trong thực tiễn cuộc sống, khái niệm “phẩm chất” thường được dùng
rất đa dạng với những ý nghĩa khác nhau như: Phẩm chất con người, phẩm
chất tâm lý, phẩm chất nghề nghiệp, phẩm chất của cộng đồng người; phẩm
chất của một vật nào đó.... Theo các sách từ điển tiếng việt: “phẩm chất là cái
làm nên giá trị của con người hay vật gì đó”, là “giá trị và tính chất tốt đẹp
của của con người hay vật gì đó”. Thế nhưng cái gì tạo ra giá trị và tính chất
tốt đẹp của con người. Vấn đề này Các Mác đã chỉ rõ: “bản chất của “con
người đặc thù” không phải là cái râu của nó, không phải là máu của nó, không
phải là bản chất thể xác trừu tượng của nó mà là phẩm chất xã hội của nó”.
Dựa trên phương pháp tiếp cận đó có thể khái quát: Phẩm chất của con người
là phạm trù dùng để chỉ giá trị xã hội của con người, là thước đo trình độ
phát triển của con người về mặt xã hội; nhờ có các phẩm chất xã hội mà con
người trở thành một cá nhân, một nhân cách.
Chủ nghĩa Mác bao giờ cũng coi các phẩm chất của con người là sản
phẩm phát triển lâu dài của sự tiến hóa con người, phản ánh các điều kiện sinh
hoạt vất chất, tinh thần, các hoạt động sống và quan hệ xã hội của con người ở
những giai đoạn lịch sử nhất định.
Quân đội là lực lượng chính trị đặc biệt của nhà nước để tiến hành
chiến tranh, nhằm thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền. Quân
đội nào cũng mang bản chất chính trị của giai cấp, của Nhà nước sinh ra nó.
Không hề có thứ quân đội “siêu giai cấp”, “phi chính trị”. Hễ tổ chức ra quân
đội là nhà nước, giai cấp phải quan tâm ngay đến xây dựng, củng cố bản chất



giai cấp cho quân đội, làm cho nó luôn trung thành với mục đích chính trị của
giai cấp, nó có sức mạnh chiến đấu ưu việt, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ
được giao.
Quân đội nhân dân Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
Sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo và rèn luyện trên cơ sở nguyên lý chủ nghĩa
Mác-Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân. Trong quá
trình xây dựng và lãnh đạo quân đội, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng quân đội về chính trị làm cơ sở để xây dựng
quân đội vững mạnh toàn diện; coi trọng xây dựng yếu tố chính trị - tinh thần
nhằm tạo ra ưu thế tuyệt đối về sức mạnh chiến đấu của quân đội ta. Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng dạy: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có
gốc, vô dụng lại có hại và nếu anh em tư tưởng vững, chính trị vững… nhất
định sẽ thắng lợi”.
Xây dựng chính trị trong quân đội là làm cho quân đội luôn tuyệt đối
trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, giữ vững bản chất giai cấp
công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội, sẵn sàng chiến đấu hy
sinh hoàn thành suất sắc mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.
Từ việc khái quát những dấu hiệu bản chất trong nội hàm của phẩm
chất chính trị nêu trên, có thể quan niệm về phẩm chất chính trị như sau:
Phẩm chất chính trị: là phẩm chất cơ bản, chủ đạo trong hệ thống các
phẩm chất nhân cách của con người, phản ánh trình độ giác ngộ giai cấp và
dân tộc; quan điểm, lập trường chính trị vững vàng, tích cực tham gia các
hoạt động chính trị tại đơn vị và các hoạt động chính trị - xã hội khác. Là khả
năng giải quyết các vấn đề chính trị, mà trước hết là những vấn đề gắn trực
tiếp với chức trách, nhiệm vụ và thực tiễn cuộc sống của đối tượng.
Phẩm chất chính trị là sự thống nhất hữu cơ giữa ý thức chính trị và
hành vi chính trị, nó bao gồm hệ thống tri thức, quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta; niềm tin vào lý tưởng XHCN, lòng trung thành với sự nghiệp cách



mạng; tính tích cực tham gia các hoạt động chính trị - xã hội và khả năng
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Phẩm chất chính trị có nhiều loại, có thể phân loại phẩm chất chính trị
dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Căn cứ vào trình độ phát triển, phẩm chất
chính trị gồm hai cấp độ chính: cấp độ thông thường và cấp độ lý luận.
Phẩm chất chính trị thông thường là biểu hiện của các dạng nhận thức, tình
cảm, ước mơ...nảy sinh tự phát trong hoạt động thực tiễn, kinh nghiệm, xã hội của
con người, từ môi trường xung quanh và từ ảnh hưởng chính trị trực tiếp nào đó.
Đây là nấc thang đầu tiên của nhận thức con người về những vấn đề chính trị.
Phẩm chất chính trị ở cấp độ lý luận được biểu hiện là những tư tưởng,
quan điểm chính trị đã được hệ thống hóa thành một chỉnh thể mang tính hợp
lý, tính khoa học, phản ánh được mối liên hệ bản chất, tất yếu, phổ biến của
các hiện tượng trong đời sống chính trị.
Căn cứ vào chủ thể mang phẩm chất chính trị, thì phẩm chất chính trị
gồm phẩm chất chính trị cộng đồng (xã hội, nhóm xã hội, giai cấp, tầng lớp...)
và phẩm chất chính trị cá nhân.
Phẩm chất chính trị cộng đồng là phẩm chất chính trị nảy sinh từ nhu
cầu, lợi ích chính trị của cả cộng đồng xã hội hoặc của nhóm xã hội, một giai
cấp, một tầng lớp nào đó trong cộng đồng.
Phẩm chất chính trị cá nhân là nhận thức, là thái độ của từng cá nhân
về những vấn đề hiện thực của đời sống chính trị. Vì vậy, phẩm chất chính trị
cá nhân rất đa dạng, phong phú và mang đậm màu sắc chủ quan.
Từ những vấn đề trên, có thể quan niệm về phẩm chất chính trị của đội
ngũ giảng viên các trường quân đội như sau: Phẩm chất chính trị của đội ngũ
giảng viên các trường quân đội phải là sự giác ngộ về mục tiêu của dân tộc,
của Đảng, của Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhận thức đầy đủ, sâu sắc
nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ Quân đội trong tình hình mới theo quan điểm,
đường lối của Đảng, nâng cao sự sắc sảo, nhạy bén về chính trị, luôn có bản

lĩnh chính trị vững vàng, thật sự tiêu biểu về nhận thức, trách nhiệm chính trị,


đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật, luôn chủ động tự định hướng đúng
đắn cho bản thân và trực tiếp giáo dục, quản lý, hướng dẫn bộ đội thực hiện
tốt nhiệm vụ tại đơn vị.
1.2.1.2. Yêu cầu về phẩm chất chính trị của đội ngũ giảng viên
Quán triệt sâu sắc Nghị quyết 94 của ĐUQSTW về xây dựng đội ngũ
cán bộ trong thời kỳ mới; về mục tiêu, nhiệm vụ đào tạo của các trường quân
đội và đặc biệt phẩm chất chính trị chung của đội ngũ giảng viên các trường
quân đội. Phẩm chất chính trị của đội ngũ giảng viên các trường quân đội theo
những tiêu chuẩn cơ bản sau:
Một là, Tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, với Tổ
quốc Việt Nam XHCN, với nhân dân, tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước; yên tâm, tích cực nghiên cứu giảng dạy, rèn luyện xác
định phục vụ quân đội lâu dài; kiên định trong mọi tình huống, sẵn sàng nhận
và hoàn tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Hai là, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có động cơ, thái động học tập,
rèn luyện đúng đắn, có hiểu biết toàn diện về lãnh đạo, chỉ huy quản lý và
huấn luyện quân nhân trong các Nhà trường.
Ba là, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện nâng cao đạo đức cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư và đạo đức nghề nghiệp; có ý thức tổ chức kỷ luật;
có quan điểm quần chúng tốt, có lối sống trung thực, giản dị, lành mạnh,
khiêm tốn, gương mẫu và đoàn kết yêu thương giúp đỡ nhau trên tình đồng
chí, đồng đội, tình thầy trò, kiên quyết đấu tranh chống tiêu cực, lạc hậu,
không bị lôi kéo, sa ngã bởi những tệ nạn xã hội.
Bốn là, có tâm lý vững vàng, có động cơ, thái độ nghiêm túc, đúng đắn
trong làm việc, giảng dạy, nghiên cứu; có quyết tâm vươn lên làm chủ kiến
thức, tích cựu học hỏi, rèn luyện phương pháp, tác phong, phong cách người
giảng viên trong các Nhà trường quân đội.



Năm là, giải quyết hài hòa các mối quan hệ trong đơn vị, được mọi
người tin yêu, mến phục; tích cực tham gia các hoạt động xã hội góp phần tạo
bầu không khí vui tươi lành mạnh trong Nhà trường.
Sáu là, có tình yêu đất nước, quê hương và gia đình, có quan điểm và
thái độ đúng đắn với nhân dân; kính trọng nhân dân, tôn trọng và có quan hệ
mật thiết với tổ chức đảng, chính quyền và địa phương.
Trên đây là những yêu cầu cơ bản về phẩm chất chính trị của đội ngũ
giảng viên quân đội. Những tiêu chuẩn trên không chỉ là mục tiêu, yêu cầu để
mỗi giảng viên tu dưỡng, phấn đấu trong suốt quá trình công tác, mà còn là
căn cứ để chủ thể đánh giá thực trạng phẩm chất chính trị của mỗi giảng viên
trong các trường quân đội và xác định phương hướng, nội dung, hình thức bồi
dưỡng, rèn luyện phẩm chất chính trị cho đội ngũ này đang công tác tại
trường. Tuy nhiên để đánh giá thực sự khách quan việc giáo dục phẩm chất
chính trị của đội ngũ giảng viên các trường quân đội, các tiêu chuẩn trên cần
phải được cụ thể hóa, được lượng hóa thành những thông số, chỉ tiêu, dựa trên
các số liệu điều tra khảo sát thực tế đủ sự tin cậy.
Từ những nội dung trên có thể rút ra khái niệm giáo dục phẩm chất chính
trị cho đội ngũ giảng viên là quá trình nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò, giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ chí Minh trong thời đại ngày nay. Từ đó tạo sự nhất trí cao với
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đường lối quân sự
của Đảng và Nhà nước về tình hình nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ nghiên
cứu của quân đội; nhiệm vụ của từng giảng viên nghiên cứu - giảng dạy. Giáo
dục chủ nghĩa yêu nước; lịch sử, truyền thống, bản sắc văn hóa của dân tộc;
lịch sử, truyền thống cách mạng của Đảng, của Quân đội nhân dân Việt Nam
và của đơn vị. Bồi dưỡng tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của người giảng
viên làm công tác nghiên cứu - giảng dạy trong các trường quân đội.



1.2.3. Quan niệm và các yếu tố cấu thành giáo dục phẩm chất chính
trị cho đội ngũ giảng viên Trường Cao đẳng CNQP
1.2.3.1. Chủ thể và đối tượng của giáo dục
Chủ thể tiến hành giáo dục phẩm chất chính trị cho đội ngũ giảng viên
các trường quân đội là cấp ủy; lãnh đạo, chỉ huy các Phòng, Ban, Khoa, các
bộ phận.
Cấp ủy Nhà trường mà trực tiếp là Đảng ủy - Chủ thể lãnh đạo trực tiếp,
giữ vai trò quyết định tới sự hình thành, phát triển và rèn luyện phẩm chất
chính trị của mỗi giảng viên trong trường.
Ban giám hiệu nhà trường, chỉ huy các cấp, các tổ chức quần chúng, cơ
quan chức năng, chi bộ khoa tổ chức hướng dẫn giảng viên bồi dưỡng, rèn
luyện phẩm chất chính trị của mình.
Đối tượng giáo dục phẩm chất chính trị là các cán bộ, giảng viên thuộc
Trường Cao đẳng CNQP.
Việc phân định chủ thể và đối tượng giáo dục phẩm chất chính trị được
xét trong mối quan hệ của quá trình giáo dục đến người được giáo dục.
Nhưng nếu xét trong quá trình rèn luyện phẩm chất chính trị của đội ngũ
giảng viên thì giảng viên vừa là đối tượng của công tác giáo dục phẩm chất
chính trị, nhưng đồng thời họ cũng là chủ thể đóng vai trò quan trọng trong
giáo dục phẩm chất chính trị cho người khác và cho chính bản thân họ. Do đó,
trong quá trình giáo dục phẩm chất chính trị cần phải xác định và giải quyết
hài hòa mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng giáo dục. Nhằm thực hiện
đúng phương châm GD-ĐT của Đảng là “biến quá trình giáo dục thành quá
trình tự giáo dục”. Cho nên, hoạt động giáo dục phẩm chất chính trị của đội
ngũ giảng viên các Nhà trường quân đội chỉ đạt hiệu quả cao nếu chủ thể giáo
dục thực sự hiểu biết về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, lời nói và việc
làm, phát huy cao độ tính tích cực, sáng tạo trong hoạt động giáo dục phẩm
chất chính trị của mình.



1.2.3.2. Mục đích giáo dục phẩm chất chính trị cho đội ngũ giảng
viên Trường Cao đẳng CNQP
Mục đích của giáo dục phẩm chất chính trị cho giảng viên trường quân
đội nói chung và Trường Cao đẳng CNQP nói riêng là tuyên truyền những
vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, đường lối, chiến lược quân sự
của Đảng, chủ trương, chính sách, nhiệm vụ chính trị ở đơn vị công tác,
truyền thống cách mạng của dân tộc, truyền thống cách mạng của Quân đội
nhân dân Việt Nam và những tri thức chính trị, những giá trị văn hóa chính trị
đương đại nhằm hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản,
nâng cao trình độ giác ngộ cách mạng để họ kiên định với lập trường giai cấp
công nhân trong lãnh đạo, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách,
nhiệm vụ chính trị ở đơn vị công tác cũng như nhận thức đúng đắn về nhu
cầu, lợi ích và trách nhiệm chính trị của bản thân mình, từ đó phát huy hết khả
năng sáng tạo, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
1.2.3.3. Nội dung giáo dục dục phẩm chất chính trị cho đội ngũ giảng
viên trường Cao đẳng CNQP
Nội dung giáo dục phẩm chất chính trị của đội ngũ giảng viên Trường
Cao đẳng CNQP là những hoạt động tập trung vào thực hiện tốt ba nội dung
sau đây:
- Giáo dục nâng cao nhận thức sâu sắc, có hệ thống chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thấy rõ vai trò, giá trị to lớn của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh trong thời đại ngày nay.
- Giáo dục nâng cao nhận thức và sự nhất trí cao với đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đường lối quân sự của Đảng và
Nhà nước về tình hình nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ nghiên cứu của quân
đội; nhiệm vụ của từng giảng viên nghiên cứu - giảng dạy.
- Giáo dục chủ nghĩa yêu nước; lịch sử, truyền thống, bản sắc văn hóa
của dân tộc; lịch sử, truyền thống cách mạng của Đảng, của Quân đội nhân



×