Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Các vector sử dụng trong công nghệ chuyển gen ở động vật và thực vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (788.22 KB, 40 trang )


Các vector sử dụng trong công nghệ chuyển gen ở
động vật và thực vật

I. Vector
Trong sinh học, vector là một phân tử DNA có khả năng mang một đoạn DNA
ngoại lai và khi xâm nhập vào loại tế bào chủ thích hợp thì có khả năng tự tái bản
không phụ thuộc vào sự sao chép của hệ gen tế bào chủ.
Nói cách khác, vector là một phương tiện truyền thông tin di truyền trong cơ
thể hoặc giữa các cơ thể khác nhau.
Tế bào chủ thường được sử dụng là vi khuẩn E.coli. Phần lớn các vector là
các phân tử DNA dạng vòng nhỏ (plasmid) hoặc là bacteriophage.
Vector có thể được cắt ở một vị trí xác định bằng một enzym hạn chế và
được nối với một đoạn DNA tương hợp khác được cắt bởi cùng enzym.
Trong tạo dòng phân tử, vector là rất cần thiết bởi vì thực tế cho thấy rằng
một đoạn DNA chứa gen không thể làm gì trong tế bào chủ. Vì nó không phải là
một bộ phận của genome bình thường của tế bào, cho nên nó sẽ không được tái
bản khi tế bào phân chia, không được biểu hiện và có khả năng bị phân huỷ khá
nhanh.
Trong kỹ thuật di truyền, vector là công cụ có khả năng nghiên cứu genome
người và genome các loài khác và sự sử dụng chúng trong nghiên cứu đang trở
nên ngày càng phổ biến một cách rộng rãi.

II. Các đặc tính của vector
- Vector phải đủ lớn để mang DNA ngoại lai nhưng không quá lớn.
- Vector phải chứa các trình tự kiểm soát (control sequences) như khởi điểm
tái bản (origin of replication), promoter.
- Vector phải mang một hoặc nhiều vị trí nhận biết của enzym hạn chế.
- Vector phải mang các gen marker chọn lọc (thường là các gen kháng chất
kháng sinh). Vì vậy các tế bào chứa chúng có thể được phát hiện một cách dễ
dàng.



III. Các bước trong tạo dòng phân tử
- Nối vector và đoạn DNA ngoại lai cần được tạo dòng trong ống nghiệm để
tạo DNA tái tổ hợp nhờ sự xúc tác của enzym ligase.
- Biến nạp DNA tái tổ hợp vào một dòng tế bào chủ. Chọn lọc thể biến nạp
trên môi trường agar trong đĩa petri có chất kháng sinh.
- Tách dòng DNA tái tổ hợp bằng cách sử dụng mẫu dò (probe).

IV. Các vector sử dụng để chuyển gen ở động vật và thực vật
1. Các vector sử dụng để chuyển gen ở động vật
1.1. Vector sử dụng để thêm gen
Phần lớn các vector sử dụng hiện nay để tạo động vật chuyển gen bằng
cách thêm gen được xây dựng để được hợp nhất vào genome. Các phương pháp
đang được sử dụng hoặc nghiên cứu để tăng tần số hợp nhất của gen ngoại lai
hoặc duy trì chúng như là các nhiễm sắc thể nhỏ độc lập.

1.1.1. Vector thẳng tối thiểu (Minimum linear vectors)
Ở đại đa số trường hợp, các nhà nghiên cứu sử dụng các đoạn genome
chứa một hoặc hai gen hay chuẩn bị các cấu trúc gen hoạt động chức năng từ các
yếu tố khác nhau. Các đoạn của vector chứa các vùng phiên mã và điều hòa từ
plasmid. Thực vậy, các vector vòng hợp nhất với tần số thấp hơn nhiều so với các
đoạn DNA thẳng và trình tự plasmid thường phá hủy các gen chuyển đã liên kết.
Ðiều này đúng đối với các vector khác nhau như plasmid, cosmid, phage, BAC và
YAC. Tuy nhiên một số nghiên cứu cho thấy rằng vector BAC vòng hợp nhất vào
genome với hiệu quả giống như bản sao mạch thẳng của chúng. Nói cách khác,
các vector mang các đoạn

Hình 1.1: : Tạo dòng bằng vector plasmid



DNA genome dài ít nhạy với hiệu quả câm của các trình tự của prokaryote. Ðiều
này là thích hợp nhất nhờ sự hiện diện của các yếu tố cách ly ở các đoạn genome
dài hoặc nhờ một hiệu quả khoảng cách đơn giản.
Các đoạn DNA không chứa các trình tự đặc biệt hợp nhất vào genome với
tần số tương đối thấp. Một số DNA xen vào tạo ra số động vật chuyển gen nhiều
hơn so với các DNA khác. Ðiều này có thể xuất hiện từ sự có mặt của các trình tự
trong đoạn xen mà nhận biết thường xuyên các trình tự genome (Hình 1). Một số
các đoạn xen vào có thể chứa các trình tự ưu tiên cho sự phiên mã của chúng và
sự duy trì của chúng trong phôi, tăng cường sự hợp nhất xảy ra.

1.1.2. Vector chứa các trình tự lặp lại
Cơ chế của sự hợp nhất được mô tả ở hình 1 bao hàm sự nhận biết giữa
các trình tự của đoạn xen và của genome. Tần số của sự hợp nhất được tăng lên
nhờ sự có mặt ở cả hai đầu của các đoạn xen các trình tự lặp lại cao trong
genome chủ ngay cả khi chúng bị thoái hóa nhiều hoặc ít. Ở bò, một trình tự có
mặt nhiều ở tâm động làm tăng thêm các đoạn xen đã tăng tần số hợp nhất. Ở
trường hợp đặc biệt này, các gen chuyển vẫn không hoạt động. Ðiều này là do
tâm động là vùng không phiên mã của genome phá hủy gen chuyển.
Một phương pháp tương tự đã được tiến hành ở chuột, sử dụng các trình
tự Alu. Các trình tự này là các yếu tố lặp lại. Các trình tự Alu chứa 200-300
nucleotid là có nhiều trong genome động vật có vú và đặc biệt là ở các vùng lân
cận hoặc ở trong các vùng phiên mã. Một số trình tự Alu được phiên mã bởi RNA
polymerase III, làm cho chức năng của RNA không rõ ràng và có thể không tồn tại.
Các thí nghiệm đã cho thấy rằng tần số hợp nhất được tăng lên đối với các đoạn
xen chứa trình tự Alu.

1.1.3. Vector transposon
Transposonlà một đoạn DNA có khả năng tự tái bản một cách độc lập và
xen vào một vị trí mới trong cùng nhiễm sắc thể hoặc một nhiễm sắc thể khác
(Hình 1.2). Với tiến bộ của kỹ thuật di truyền transposonđã được sửa đổi, thiết kế

thành các công cụ di truyền với mục đích đặc biệt.

Hình 1.2: Cấu trúc của transposon

Kích thước của transposon nói chung là không dài hơn 2kb. Nhiều bản sao
của transposon có mặt trong genome tại các vị trí ngẫu nhiên một cách rõ ràng.
Transposon được phiên mã thành RNA, RNA được phiên mã ngược thành DNA
sợi kép. DNA sợi kép này hợp nhất vào genome với hiệu quả cao. Sự hợp nhất
được điều khiển bởi gen transposase mã hóa transposon và các trình tự lặp lại
đảo ngược ITR (inverted repeated sequence). Các trình tự lặp lại đảo ngược có
mặt ở cả hai đầu của transposon (Hình 1.3). Cơ chế này cho phép transposon trải
rộng ra một cách nhanh chóng và tỏa khắp genome, bao gồm cả sự bất hoạt gen
trong một số trường hợp. Sự lan tỏa của transposon bị giới hạn bởi cơ chế tế bào
làm bất hoạt sự phiên mã của transposon.
Transposon là vector có tiềm năng đối với sự hợp nhất gen ngoại lai vào
genome. Ðể làm được điều này, một phần lớn vùng phiên mã của transposon bị
mất đi, tạo ra khoảng trống đối với gen ngoại lai và ngăn cản transposon trải rộng
một cách tự chủ và không kiểm soát trong genome.
DNA tái tổ hợp chứa gen ngoại lai không có khả năng đặc biệt để tự hợp
nhất vào genome. Sự có mặt của gen transposase là cần thiết đối với mục đích
này. Tiêm đồng thời transposon mang gen ngoại lai và plasmid vòng có khả năng
biểu hiện gen transposase cho phép transposon hợp nhất với hiệu quả có ý nghĩa,
khoảng 1-5 % số phôi được tiêm (Hình 1.3).
Protocol này được áp dụng trước tiên cho Drosophila, sử dụng transposon
P và sau đó đã được sử dụng rộng rãi để tạo sinh vật chuyển gen (Kayser, 1997).
Transposon thủy thủ (mariner) đã tỏ ra có hiệu quả đối với tế bào cá medaka, gà
và động vật có vú. Các sửa đổi khác nhau của transposon này làm cho nó có thể
mang một vector hiệu quả và an toàn đối với liệu pháp gen (Hackett, 2001).
Các vector khác được sử dụng để tạo côn trùng chuyển gen như Aedes
aegypti hoặc tằm (Tamura, 1999). Gần đây transposon đã được sử dụng để tạo

chuột chuyển gen (Dupuy, 2002).


Hình 1.3: Sử dụng vector transposon để chuyển DNA ngoại lai

Gen transposase được thay thế bằng gen mong muốn. Transposon tái tổ hợp được tiêm vào tế
bào. Vector điều khiển sự tổng hợp enzyme gắn (intergrase) được cùng tiêm vào. Transposon
được hợp nhất bằng cách sử dụng các trình tự lặp lại đảo ngược ITR của chúng

Trong tất cả các trường hợp, transposon và plasmid mã hóa cho
transposase phải được tiêm vào tế bào chất của phôi dưới các điều kiện khác
nhau tùy thuộc từng loài. Về phương diện này, gà là khác với hầu hết các loài
khác. Việc tiêm gen có thể được thực hiện ở giai đoạn phôi một tế bào mà không
thể đưa trở lại vào con mẹ nuôi dưỡng như trường hợp đối với thú. Phôi tiêm gen
phải được đưa vào noãn hoàng của một trứng không mang phôi. Sau vài tuần ấp
trứng dưới các điều kiện được kiểm soát tốt, gà chuyển gen được sinh ra với một
tỉ lệ thành công có thể chấp nhận (Shermann, 1998).
Vì vậy, vector transposon cho phép tạo ra các động vật chuyển gen đối với
các loài mà vi tiêm DNA thông thường không thành công. Vector này cũng được
xem là an toàn. Vector transposon thủy thủ ngay cả khi thiếu gen transsposae của
nó cũng có thể tái bản và hợp nhất vào genome chủ với tần số thấp. Ðiều này là
do sự có mặt của transposase nội sinh của tế bào chủ. Vấn đề này có thể giới hạn
sự sử dụng transposon trong một số trường hợp. Trong khi đó, transposon BAC
lợn con đã được sử dụng để tạo ra tằm chuyển gen ổn định hoàn toàn sau một số
thế hệ.
Transposon chỉ có thể mang các đoạn DNA ngoại lai với chiều dài giới hạn.
Các cấu trúc phức tạp được sử dụng để biểu hiện gen ngoại lai rõ ràng cũng là
một hạn chế. Ngoài ra các cơ chế tế bào phá hủy transposon có thể ức chế sự
biểu hiện của gen chuyển trong một số trường hợp.


1.1.4. Vector retrovirus
a. Cấu trúc của retrovirus
Retrovirus là loại virus RNA, có vỏ bọc bên ngoài. Sau khi xâm nhiễm,
genome virus được sao chép ngược thành DNA sợi kép, hợp nhất vào genome tế
bào chủ và biểu hiện thành protein.
Retrovirus đặc trưng bởi chu kỳ tái bản của chúng, được mô tả lần đầu tiên
vào đầu thập niên 1900 (Ellermann và Bang.O, 1908).
Hạt retrovirus có kích thước, hình dạng có thể thay đổi đôi chút nhưng
đường kính khoảng 100nm. Vỏ của virus là glycoprotein, tạo thành các gai ở màng
(Hình 1.4A). Protein trưởng thành này được chia làm hai loại polypeptid (Hình
1.4B):
- Glycoprotein vỏ bên ngoài (SU), kháng nguyên chủ yếu của virus, có chức
năng bám vào thụ quan.
- Glycoprotein màng (TM), bám vào protein SU ở vỏ, chịu trách nhiệm đối
với sự dung hợp màng.


A
B

Hình 1.4: Sơ đồ cấu trúc cắt ngang của retrovirus
A. Cấu trúc cắt ngang B. Cấu trúc protein vỏ

Bên trong màng là protein cơ bản (MA), không định hình. Protein này bao
lấy capsid (CA). CA là protein phong phú nhất trong hạt virus (chiếm khoảng 33 %
trọng lượng tổng số), có hình khối 20 mặt. Bên trong capsid là lõi, thường có hình
nón, bao gồm: RNA genome, protein nucleocapsid (NC), enzym phiên mã ngược
(reverse transcriptase = RT) và enzyme hợp nhất (intergrase = IN).
Genome retrovirus bao gồm hai bản sao của phân tử RNA sợi đơn, mạch
thẳng, có cap ở đầu 5’ và đuôi poly A ở đầu 3’ (tương đương với mRNA). Genome

retrovirus có kích thước khoảng 8-11kb.
Retrovirus được chia làm hai loại là retrovirus đơn giản và retrovirus phức
tạp.
RNA của retrovirus đơn giản chứa 3 nhóm gen chủ yếu:
- Gen gas mã hóa protein lõi, capsid và nucleoprotein.
- Gen pol mã hóa enzyme phiên mã ngược và enzyme hợp nhất.
- Gen env mã hóa protein trong cấu trúc vỏ của virus.
Trật tự của các nhóm gen này ở tất cả các retrovirus là không thay đổi:
5’ – gag – pol – env – 3’
Ngoài ra còn có nhóm gen pro mã hóa enzyme protease viruss. Các
retrovirus đơn giản bao gồm hầu hết các virus gây ung thư như viruss bạch cầu
chuột Moloney Mo-MLV (Moloney, 1960), virus ung thư tuyến vú chuột (mouse
mammary tumor virus = MMTV) (Bittner, 1936 ).
Các retrovirus phức tạp, ngoài ba nhóm gen chủ yếu gag, pol và env còn có
các gen khác như tat, rev ở HIV-1. Nhóm virus này bao gồm các lentivirus kể cả
virus HIV-1, spumavirus, HFV (human foamy virus) và SFV (simian foamy virus).
Ở mỗi đầu của genome là các đoạn lặp dài tận cùng (LTR) chứa tất cả các
tín hiệu cần thiết cho sự biểu hiện gen của virus. Một đoạn LTR gồm có 3 vùng:
U3, R và U5. Vùng U3 bao gồm các yếu tố kiểm soát sự phiên mã, promoter và
gen tăng cường (enhancer). Ðây là vùng không mã hóa có kích thước 75-250
nucleotid, là phần đầu tiên của genome được phiên mã ngược, tạo ra đầu 3’ của
genome provirus. Vùng R thường là trình tự có kích thước ngắn chỉ khoảng 18-
250 nucleotid tạo thành đoạn lặp trực tiếp ở cả hai đầu của genome. Vùng U5 là
vùng không mã hóa có kích thước 200-1.200 nucleotid tạo nên đầu 5’ của provirus
sau khi phiên mã ngược. vùng U5 mang vị trí poly A và cùng với vùng R xác định
sự gắn thêm đuôi poly A vào. Cả hai vùng U3 và U5 đều mang vị trí gắn att cần
thiết cho sự hợp nhất genome của virus vào genome chủ.
Mặt khác, genome virus còn có đoạn dẫn đầu (leader), vị trí bám primer (primer binding site =
PBS) và vùng polypurine (polypurine tract = PPT). Ðoạn dẫn đầu không được dịch mã, khá dài, có
kích thước khoảng 90-500 nucleotid, xuôi theo vị trí khởi đầu phiên mã, nằm giữa vùng U3 và R, ở

phía đầu 5’ của tất cả các virus mRNA. PBT dài 18 nucleotid bổ sung với đầu 3’ của primer tRNA
đặc hiệu được virus sử dụng để bắt đầu phiên mã ngược. PTT ngắn chỉ khoảng 10 A hoặc G có
chức năng khởi đầu sự tổng hợp sợi (+) trong quá trình phiên mã ngược.


Hình 1.5 : Sơ đồ cấu trúc genome của retrovirus

Ngoài ra còn có các trình tự cần thiết cho sự đóng gói genome virus gọi là
trình tự Ψ (psi) và các vị trí cắt RNA ở gen env.
Một số retrovirus chứa protooncogene. Khi protooncogene bị đột biến có thể gây ra ung thư.

b. Vector retrovirus
Vector retrovirus là cấu trúc DNA nhân tạo có nguồn gốc từ retrovirus, được sử dụng để xen DNA
ngoại lai vào nhiễm sắc thể của vật chủ.
Yếu tố chìa khóa trong việc sử dụng retrovirus làm thể truyền phân phối gen là sự an toàn sinh học
(biosafety). Mục đích chính của thiết kế vector là bảo đảm tạo ra một virus không khả năng tái bản
(replication incompetent virus) trong tế bào chủ (Hình 1.6 ).

Hình 1.6: Virus nguyên vẹn có khả năng tái bản
và vector retrovirus không có khả năng tái bản

Về nguyên tắc, có thể tạo ra vector retrovirus có khả năng tái bản (replication competent retroviral
vector) bằng cách thêm các trình tự cần thiết vào virus (Hình 1.6). Nhưng một thiết kế phổ biến
hơn là thay thế các gen của virus bằng các gen chuyển mong muốn để tạo ra vector tái bản không
hoàn toàn (replication defective vector). Mặt khác, kích thước của đoạn DNA ngoại lai mà vector
tái bản không hoàn toàn có thể tiếp nhận lớn hơn nhiều so với vector có khả năng tái bản. Sự biểu
hiện của các protein retrovirus ở hầu hết các retrovirus gây ung thư xảy ra tự nhiên do một
promoter đơn (single promoter) nằm trong đoạn lặp dài tận cùng (LTR) ở đầu 5’và sự biểu hiện của
các vùng mã hóa virus phức tạp xảy ra nhờ sự cắt ghép xen kẻ (alternative splicing). Tuy nhiên,
việc thiết kế vector là không bị giới hạn do sử dụng promoter retrovirus đơn. Một hướng thiết kế

khác là sử dụng promoter phức (multiple promoter) và các trình tự tiếp nhận ribosome ở bên trong
(internal ribosome entry site = IRES).
Sự tải nạp và hợp nhất gen có hiệu quả phụ thuộc vào các yếu tố virus có mặt trong vector
retrovirus.
Một điểm lưu ý quan trọng khi thiết kế vector retrovirus là hiệu quả tái bản của virus trong cấu trúc
vector.
Phần lớn các vector retrovirus thường được thiết kế dựa trên virus Mo-MLV. Ðây là loại virus có
khả năng xâm nhiễm vào cả các tế bào chuột (có thể phát triển vector ở mô hình chuột) và tế bào
người (có thể điều trị bệnh cho người). Các gen của virus (gag, pol và env) được thay thế bằng các
gen chuyển mong muốn và được biểu hiện ở các plasmid trong dòng tế bào đóng gói. Các vùng cần
thiết bao gồm các đoạn lặp dài tận cùng ở đầu 3’ và 5’ (3’LTR và 5’LTR) và trình tự đóng gói.
Trước đây virus hỗ trợ khả năng tái bản đã được sử dụng để đóng gói cả virus vector và virus hỗ
trợ. Trong một phương pháp tinh vi hơn được sử dụng hiện nay, các dòng tế bào đã thao tác di
truyền đặc hiệu đã biểu hiện các gem virus do các promoter không tương đồng được sử dụng để
tạo ra các virus vector. Các dòng tế bào này được gọi là các dòng tế bào đóng gói hoặc các dòng tế
bào hỗ trợ.
Chuyển gen và biểu hiện gen bằng một vector virus được gọi là sự tải nạp để phân biệt với quá
trình xâm nhiễm của retrovirus có khả năng tái bản (replication competent retrovirus = RCR).
Sự biểu hiện của gen chuyển là do promoter hoặc gen tăng cường ở vị trí 5’ LTR hoặc bởi các
promoter virus (như cytomegalovirus, Rous sarcoma virus) hoặc bởi các promoter của tế bào (như
beta actin, tyrosine). Sự định vị chính xác codon khởi đầu của gen chuyển và các thay đổi nhỏ của
5’LTR ảnh hưởng đến sự biểu hiện của gen chuyển (Rivire,1995).


Hình 1.7: Quá trình đóng gói tạo hạt retrovirus


Hình 1.8: Cơ chế hoạt động của vector retrovirus

Ðể nhận biết các tế bào biến nạp, các marker chọn lọc như neomycin và beta galactosidase được sử

dụng và sự biểu hiện của gen chuyển có thể được cải tiến bằng cách thêm vào các trình tự
ribosome bên trong (Saleh, 1997).
Một yêu cầu đối với sự hợp nhất và biểu hiện của các gen virus là các tế bào đích phải phân chia.
Ðiều này giới hạn liệu pháp gen tăng sinh tế bào in vivo và ex vivo, do đó các tế bào thu nhận từ cơ
thể được xử lý để kích thích tái bản và sau đó được tải nạp với retrovirus trước khi đưa trở lại bệnh
nhân.

c. Ứng dụng của vector retrovirus
Vector retrovirus là cần thiết cho liệu pháp gen, đã được sử dụng có hiệu
quả trong nhiều liệu pháp gen chữa bệnh cho người như suy giảm miễn dịch do
thiếu hụt enzyme ADA, ung thư, tiểu đường, thiếu máu,...
Các vector retrovirus khác nhau đã được thiết kế để tạo động vật chuyển
gen và gà chuyển gen đặc biệt (Ronfort, Legras và Verdier, 1997). Các vector này
mang các trình tự env có khả năng nhận biết các tế bào phôi gà. Chúng được
tiêm vào trứng gà mới đẻ. Ở giai đoạn này, các tế bào hãy còn đa năng và có thể
tham gia vào việc tạo thành giao tử, dẫn đến truyền gen ngoại lai cho thế hệ sau.
Phương pháp này cho hiệu quả không cao. Phôi ở giai đoạn này chứa khoảng
60.000 tế bào. Chỉ một tỉ lệ nhỏ các tế bào này có cơ hội mang gen chuyển nhờ
vector retrovirus. Gà chuyển gen tạo thành ở dạng thể khảm và có rất ít cơ hội
truyền gen chuyển của chúng cho thế hệ sau. Một phương pháp khác đã chứng tỏ
có hiệu quả hơn. Việc tiêm gen được thực hiện ở giai đoạn phôi 16 tế bào tại vùng
lân cận của các tế bào gốc nguyên thủy. Các tế bào này được tiêm một cách ưu
tiên, tạo ra các động vật chuyển gen có cơ hội truyền gen chuyển của chúng cho
thế hệ sau (Hình 1.9).
Vector retrovirus cũng được sử dụng để chuyển gen vào noãn bào của bò
và khỉ (Chen, 1998, 2001). Ðể tiến hành công việc này đòi hỏi hai điều kiện đặc
biệt. Vỏ của vector là protein G của VSV (vesicular somatitis virus) có chức năng
nhận biết màng phospholipid và vì vậy cho phép tiêm vào nhiều loại tế bào khác
nhau. Các hạt virus được tiêm vào giữa màng trong (zona pellucida) và màng
noãn bào vào lúc màng nhân đã biến mất, tạo cho genome virus cơ hội tốt nhất để

có thể đến được genome tế bào chủ (Hình 1.9).
Lentivirus là một phân lớp của retrovirus. Chúng có khả năng hợp nhất vào
genome của các tế bào ở pha nghỉ, cả các tế bào tăng sinh và tế bào không tăng
sinh. Khả năng này có được là do sự có mặt của một tín hiệu ở một trong số các
protein virus. Protein virus này nhắm tới genome của virus ở vùng nhân. Lentivirus
phức tạp hơn các retrovirus đơn giản, chứa thêm 6 gen tat, rev, vpr, vpu, nef và vif.
HIV là một loại lentivirus. Vector lentivirus được nghiên cứu nhiều do tiềm năng sử
dụng của chúng trong liệu pháp gen.



Hình 1.9: Sử dụng vector retrovirus để tạo động vật chuyển gen

Genome virus mang gen ngoại lai được đưa vào tế bào tổng hợp protein virus khuyết. Các hạt
virus được sử dụng để tiêm vào noãn bào động vật có vú (bò, khỉ), các tế bào mầm nguyên thủy
của gà hoặc phôi một tế bào của chuột.

Một nghiên cứu gần đây cho thấy rằng vector lentivirus tiêm vào phôi một tế
bào hoặc ủ với phôi đã được loại bỏ màng trong là có hiệu quả đặc biệt đối với
việc chuyển gen vào chuột (Lois, 2003). Các vector này ngày càng được cải tiến
tinh vi hơn. Genome của chúng có nguồn gốc từ lentivirus đã tạo ra các hạt virus
tái tổ hợp có khả năng nhiễm vào tế bào phân chia hoặc tế bào không phân chia.
Vector này chứa LTR đã được sửa đổi dẫn đến sự tự bất hoạt genome virus đã
hợp nhất. Ðiều này làm giảm đáng kể khả năng tái tổ hợp tạo ra virus xâm nhiễm
mang gen ngoại lai với phương thức không kiểm soát. Các loại vector này không
có các gen tăng cường. Sự vắng mặt các gen tăng cường làm cho nó có thể thay
thế cho một promoter nội sinh điều khiển gen mong muốn hoạt động mà không lệ
thuộc vào ảnh hưởng của các gen tăng cường LTR. Vector này cũng chứa một
yếu tố điều hòa sau phiên mã ưu tiên cho việc biểu hiện gen và một đoạn của
virus HIV mà đoạn này cho phép genome virus đi vào nhân của tế bào không phân

chia và hợp nhất vào DNA chủ.
Các vector này cũng có thể điều khiển sự biểu hiện gen FGFP của chuột,
tạo ra màu xanh huỳnh quang ở tất cả các loại tế bào hoặc chỉ ở tế bào cơ khi
promoter hoạt động ở tất cả các loại tế bào hoặc chỉ ở tế bào cơ.
Lưu ý rằng khoảng 80% chuột sinh ra là chuột đã được chuyển gen.
Khoảng 90% số chuột này biểu hiện gen chuyển của chúng ở một số thế hệ.
Protein VSV đã được sử dụng như là một vỏ bọc cho phép xâm nhiễm hiệu quả
vào phôi.
Ưu điểm chính của vector này là hiệu quả biến nạp cao, thao tác đơn giản,
sự xâm nhiễm có thể được thực hiện bằng cách ủ phôi đã loại bỏ màng trong với
thể virus. Phương pháp này được mở rộng đối với các động vật có vú khác mà
không có vấn đề đặc biệt. Phương pháp này thuận lợi một cách đặc biệt cho việc
chuyển gen vào chuột trong khi phương pháp vi tiêm là rất khó sử dụng ở đây.
Hạn chế của vector này cũng không ít. Các hạt virus phải được kiểm soát an
toàn sinh học bằng biện pháp thích hợp. Bước này ngày càng được tiêu chuẩn
hóa nhằm tăng cường sử dụng các loại vector này cho liệu pháp gen. Các đoạn
DNA có kích thước không vượt quá 7-9kb có thể được đưa vào vector này. Sự
biểu hiện của gen reporter là tương đối thấp trong trường hợp này. Mặt khác, sự
hợp nhất độc lập của vector xảy ra trong cùng một phôi dẫn đến động vật chuyển
gen thể khảm.
Rõ ràng, phương pháp này chỉ có thể thay thế vi tiêm trong một số trường
hợp.

1.1.5. Vector Adenovius
a. Cấu trúc của adenovirus
Adenovirus là loại virus không có vỏ, chứa genome DNA sợi kép, mạch
thẳng. Trong khi có hơn 40 dòng adenovirus typ huyết thanh phần lớn gây nhiễm
trùng đường hô hấp ở người thì chỉ có nhóm phụ C typ huyết thanh 2 hoặc 5 được
sử dụng làm vector một cách ưu thế. Chu trình sống của adenovirus thường
không liên quan đến sự hợp nhất vào genome vật chủ, chúng tái bản như các yếu

tố episome trong nhân của tế bào chủ và vì vậy không có nguy cơ phát sinh đột
biến xen (insertional mutagenesis).
Tất cả các hạt adenovirus đều không có vỏ, đường kính 60-90nm. Chúng có
tính đối xứng icosahedron, dễ dàng nhìn thấy dưới kính hiển vi điện tử khi nhuộm
âm tính. Vỏ capsid của adenovirus bao gồm 252 capssomer. Lõi của hạt virus
chứa tối thiểu 4 protein: protein đầu mút (terminal protein = TP), gắn với đầu 5’ của
genome bằng liên kết đồng hóa trị; protein V (180 bản sao/hạt virus) và protein VII
(1070 bản sao/hạt virus), là các protein cơ bản và protein Mu, một protein nhỏ
(4kD), vị trí và chức năng chưa được biết.

A
B

Hình 1.10: Adenovirus
A. Mô hình cấu trúc không gian adenovirus
B. Aenovirus nhìn dưới kính hiển vi điện tử

Hình 1.11: Sơ đồ cấu trúc cắt ngang của adenovirus

Genome của adenovirus là phân tử DNA sợi kép không phân đoạn, dài 30-
38kb (các nhóm khác nhau có kích thước khác nhau), có thể mã hóa 30-40gen. Có
4 vùng gen phiên mã sớm là E
1
, E
2
, E
3
và E
4
, có chức năng điều hòa và một sản

phẩm phiên mã muộn mã hóa cho các protein cấu trúc. Các trình tự ở đầu mút của
mỗi sợi là lặp lại đảo ngược vì vậy các sợi đơn đã biến tính có thể tạo ra cấu trúc
“cán xoong” (“panhandle”). Ngoài ra, còn có protein 55kD liên kết với đầu 5’ của
mỗi sợi bằng liên kết đồng hóa trị.

b. Vector adenovirus
Vector adenovirus là vector chuyển gen được tạo ra từ các adenovirus tái tổ hợp.
Thế hệ adenovirus tái tổ hợp đầu tiên đã được thiết kế bằng cách loại bỏ
gen E
1
. Sự loại bỏ gen E
1
làm cho virus không có khả năng tái bản trong tế bào
chủ. Gen E
3
thường cũng được loại bỏ để dành chỗ cho gen chuyển. Phần
genome mã hóa protein cấu trúc của virus được thay thế bằng một gen marker
(như β-galactosidase) hoặc gen cDNA liệu pháp. Phần lớn các vector “cán xoong”
được thiết kế gần đây chỉ chứa một trình tự lặp lại đảo ngược ITR và một trình tự
đóng gói. Tất cả các gen cần thiết của virus được cung cấp bởi virus hỗ trợ.
Vector virus này không hợp nhất vào nhiễm sắc thể tế bào và nó tồn tại như
một episome ở trong nhân.
Adenovirus là một vector chuyển gen an toàn, có thể xâm nhiễm một cách
hiệu quả vào các tế bào không phân chia và các tế bào đang phân chia của nhiều
loại tế bào khác nhau do các loại tế bào đích này chứa các thụ quan phù hợp với
adenovirus. Khi xâm nhiễm vào tế bào chủ, phần lõi mang genome virus và gen
ngoại lai đi qua lỗ màng nhân. Trong nhân tế bào chủ, các gen của adenovirus và
gen ngoại lai sẽ phiên mã và dịch mã trong tế bào chất để tạo nên các loại protein
cần thiết cho virus và protein mong muốn do gen ngoại lai mã hóa. Hạn chế của
vector adenovirus thứ nhất là giảm khả năng sinh miễn dịch và vị trí ở ngoài nhiễm

sắc thể của nó làm cho sự biểu hiện gen chỉ nhất thời, không bền. Kết quả của
một số nghiên cứu đã cho thấy rằng sự biểu hiện gen chuyển chỉ kéo dài từ một
vài ngày đến một vài tuần.

Hình 1.12: Cơ chế hoạt động của vector adenovirus

Ðể khắc phục những vấn đề nêu trên, các thế hệ adenovirus thứ hai và thứ
ba đã được tạo ra. Trong các vector này, gen E
4
(hoặc E
2
) mã hóa nhiều protein
của virus được loại bỏ để giảm sự biểu hiện các protein virus.

c. Ứng dụng của vector adenovirus
Adenovirus người thế hệ thứ nhất đã được sử dụng rộng rãi làm vector
chuyển gen in vivo (Wilson, 1996). Các vector này đã được sử dụng để chuyển
gen người in vivo vào tế bào mũi, tế bào phổi (CFTR cDNA), tế bào màng trong
mạch, tế bào thận (Heikkila, 1996; Sukhatme, 1997), tim, gan, hệ thần kinh trung
ương, cơ, các tế bào mô máu và tế bào ung thư (Jaffe, 1992; Engelhardt, 1993;
Chen, 1994; Chang, 1995; Cussack, 1996; Simon, 1999). Merrrich (1996) đã so
sánh tính lây nhiễm của adenovirus tái tổ hợp typ 5 tái bản không hoàn toàn ở các
tế bào màng trong mạch trong môi trường nuôi cấy in vitro. Kết quả cho thấy trong

×