Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản lý nhà nước về tôn giáo của Uỷ ban nhân dân cấp huyện từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (902.35 KB, 74 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ HẰNG NGA

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO
CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ HẰNG NGA

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO
CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐỖ THỊ KIM ĐỊNH

HÀ NỘI - 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Đỗ Thị Kim Định và chưa được công bố trên
bất kỳ phương tiện nào. Các thông tin, số liệu sử dụng trong đề tài được dẫn
nguồn cụ thể theo quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về mặt pháp
lý và đạo đức đối với lời cam đoan này.
Người cam đoan

Ngô Hằng Nga


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÔN GIÁO VÀ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ TÔN GIÁO CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN ......... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về tôn giáo của Ủy
ban nhân dân cấp huyện .................................................................................... 7
1.2. Chủ thể quản lý nhà nước về tôn giáo của Uỷ ban nhân cấp huyện ........ 13
1.3. Nội dung quản lý nhà nước về tôn giáo của Uỷ ban nhân dân cấp huyện
......................................................................................................................... 15
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về tôn giáo của Uỷ ban nhân
dân cấp huyện .................................................................................................. 20
Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO
CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TẠI TỈNH QUẢNG BÌNH .. 28
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về tôn giáo của Uỷ ban nhân
dân cấp huyện tỉnh Quảng Bình ...................................................................... 28
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo của Uỷ ban nhân dân cấp huyện
tại tỉnh Quảng Bình ......................................................................................... 32
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo của UBND cấp huyện

tại tỉnh Quảng Bình ......................................................................................... 39
Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ TÔN GIÁO CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TẠI
TỈNH QUẢNG BÌNH ................................................................................... 46
3.1. Quan điểm về nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tôn giáo của ủy ban
nhân dân cấp huyện ......................................................................................... 46


3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tôn giáo của Uỷ ban
nhân dân cấp huyện tại tỉnh Quảng Bình ........................................................ 52
KẾT LUẬN .................................................................................................... 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 64


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CB,CC, VC

Cán bộ, công chức, viên chức

KT-XH

Kinh tế - xã hội

QLNN

Quản lý nhà nước

TW


Trung ương

UBND

Ủy ban Nhân Dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội xuất hiện rất sớm trong lịch sử loài
người, có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống chính trị, văn hóa, xã hội ở các quốc
gia và trên toàn thế giới. Tự do tôn giáo là một trong những quyền tự nhiên
của con người được pháp luật quốc tế bảo vệ, đồng thời cũng là một trong
những tiêu chí đánh giá về mức độ dân chủ trên thế giới hiện nay.
Cũng như nhiều quốc gia khác, Việt Nam là một đất nước đa tôn giáo.
Ở nước ta có sự xuất hiện của hầu hết các tôn giáo lớn trên thế giới như Phật
giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Baha’i, Bà-la-môn…, Ngoài ra còn có
những tôn giáo bản địa đặc trưng riêng của Việt Nam như Cao Đài, Tịnh độ
Cư sỹ Phật hội, Phật giáo Hòa Hảo, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu
Nghĩa… Mỗi tôn giáo ở Việt Nam đều chứa đựng nội dung phong phú về lịch
sử, tư tưởng, triết học, đạo đức, văn hóa… riêng biệt. Vì vậy, việc tìm hiểu
sâu để có cái nhìn tổng quát về các tôn giáo này là rất cần thiết, có ý nghĩa
quan trọng trong việc hoạch định chính sách tôn giáo theo hướng phát huy
các giá trị nhân bản của các tôn giáo phục vụ sự phát triển, hòa bình của xã
hội và đất nước. Vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc nói chung và đoàn kết
đồng bào theo tôn giáo luôn là nhiệm vụ mang tính chiến lược, là nhân tố có

ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của chính sách tôn giáo, từ trước đến nay
Đảng và Nhà nước ta đã thông qua và tổ chức thực hiện nhiều chính sách và
văn bản pháp luật nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về các hoạt động tôn giáo,
tín ngưỡng. Những chính sách và văn bản pháp luật hiện hành về vấn đề này
1


đã phát huy tác dụng trong thực tế; tuy nhiên vẫn cần tiếp tục nghiên cứu
sửa đổi, bổ sung để đáp ứng những yêu cầu của tình hình mới khi đất nước
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Quảng Bình có 02 tôn giáo chính được Nhà nước công nhận là đạo
Công giáo và đạo Phật giáo. Trong đó: Đạo Công giáo có trên 102.000 tín đồ,
chiếm gần 12% dân số toàn tỉnh, phân bố trên 68 đơn vị hành chính cấp xã và
06 đơn vị hành chính cấp huyện. Phật giáo có khoảng trên 3.100 tín đồ, phân
bố trên địa bàn 42 xã, phường, thị trấn của 07 huyện, thị xã, thành phố. Tuy
tỉnh Quảng Bình không nhiều tôn giáo nhưng Quảng Bình là địa phương có vị
trí địa lý không thuận lợi, thường chịu ảnh hưởng của thiên tai, bão lũ hằng
năm, đời sống người dân còn nhiều khó khăn, cùng với tác động từ mặt trái
của nền kinh tế thị trường, cũng như âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế
lực thù địch có lúc đã làm cho tình hình tôn giáo ở Quảng Bình trở nên phức
tạp. Hoạt động QLNN về tôn giáo đôi khi còn lúng túng và để xảy ra một số
hạn chế, bất cập nhất định đã ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu lực và hiệu quả
của QLNN về tôn giáo như: việc triển khai Luật tín ngưỡng, tôn giáo và các
văn bản quy phạm pháp luật ở một số địa phương vẫn còn lúng túng; công tác
nắm tình hình về tôn giáo tại một số địa phương, cơ sở có lúc chưa kịp thời,
việc đấu tranh với các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo một số nơi còn
thiếu kiên quyết, chưa dứt điểm, một số vụ việc vi phạm pháp luật còn để kéo

dài… dẫn đến hiệu quả đối với công tác QLNN về tôn giáo còn hạn chế. Công
tác phối, kết hợp giữa các cấp, các ngành và các địa phương có liên quan có
lúc chưa chặt chẽ, hiệu quả chưa cao, nhất là đối với các vụ việc tôn giáo
phức tạp xảy ra. Mặt khác, việc xuất hiện một số hiện tượng tôn giáo mới trên
địa bàn, lôi kéo quần chúng tin theo và tuyên truyền lệch lạc, gây bất ổn định
trong xã hội cũng là một trong những nguyên nhân gây khó khăn trong công
tác quản lý nhà nước về tôn giáo.
2


Trên cơ sở những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Quản lý Nhà nước về
tôn giáo của UNBD cấp huyện từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” làm chủ đề
nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
nhằm đưa ra một số giải pháp hiệu quả để tăng cường quản lý nhà nước trong
lĩnh vực tôn giáo của UBND cấp huyện từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, công tác tôn giáo có vai
trò rất quan trọng. Vì vậy, luôn thu hút sự quan tâm của rất nhiều đơn vị, tổ
chức, cá nhân, đặc biệt là một số nhà khoa học. Có nhiều bài viết, cuốn sách
nghiên cứu và phân tích về khía cạnh tôn giáo, như:
- GS Đặng Nghiêm Vạn (2003), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn
giáo ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
- Viện Nghiên cứu chiến lược và khoa học- Bộ Công an (2003), Tôn
giáo trong thế giới hiện đại, Hà Nội.
- Ngô Yên Thi (2006), Chính sách tôn giáo trong văn kiện Đại hội X của
Đảng, Tạp chí Tôn giáo.
- Đỗ Thị Kim Định (2014), Thực tiễn áp dụng pháp luật về tôn giáo ở
Việt Nam hiện nay, Tạp chí nghiên cứu Tôn giáo.
- Nguyễn Hồng Sơn (2016), Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở
Quảng Bình - Những kinh nghiệm bước đầu, Tạp Chí cộng sản.

Những công trình trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của
vấn đề tôn giáo và quản lý nhà nước về tôn giáo ở nước ta. Đây là nguồn tài
liệu trực tiếp cho đề tài luận văn này của tác giả. Mặc dù vậy, các công trình
nghiên cứu hiện có đều chưa tập trung phân tích toàn diện và chuyên sâu về
tình hình quản lý nhà nước về tôn giáo ở cấp độ cơ sở. Vì vậy, đề tài mà học
3


viên lựa chọn sẽ góp phần sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận, thực tiễn trong
lĩnh vực này thông qua UBND cấp huyện ở tỉnh Quảng Bình.
Trên tinh thần kế thừa và phát triển những kết quả nghiên cứu đã có;
luận văn chú trọng phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về tôn
giáo ở tỉnh Quảng Bình, từ đó đề xuất các giải pháp hữu hiệu trong công tác
QLNN về tôn giáo ở nước ta nói chung và tỉnh Quảng Bình nói riêng trong
thời gian tới, việc lựa chọn đề tài của luận văn là phù hợp và đảm bảo không
có sự trùng lặp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo của
UBND cấp huyện từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình, làm rõ tình hình quản lý nhà
nước về tôn giáo của UBND cấp huyện khi thực hiện theo quy định pháp luật
của nhà nước, qua đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước về tôn giáo trên địa bàn, đồng thời góp phần làm rõ những vấn đề lý
luận, thực tiễn trong chính sách, pháp luật hiện hành về tôn giáo của nước ta từ
cấp độ cơ sở.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nêu và phân tích cơ sở lý luận vấn đề quản lý nhà nước về tôn giáo và
các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về tôn giáo của UBND cấp
huyện.
- Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo trong tình hình hiện

nay, thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo của UBND cấp huyện tại Quảng
Bình, đồng thời đánh giá chung về những mặt đạt được, cũng như những bất
cập và nguyên nhân.

4


- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước về tôn giáo của UBND cấp huyện tại tỉnh Quảng Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước về tôn giáo
của UBND cấp huyện tại tỉnh Quảng Bình; những quy định pháp luật về quản
lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo của UBND cấp huyện tại tỉnh Quảng
Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu công tác QLNN về tôn giáo của UBND cấp huyện
theo quy định của pháp luật trong giai đoạn từ năm 2010 đến nay tại địa bàn
tỉnh Quảng Bình.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mac –
Lenin về tôn giáo thể hiện trên các nội dung như về bản chất, chức năng, vai
trò của tôn giáo; tư tưởng Hồ Chí Minh về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
Nam; tình hình thực tiễn quản lý nhà nước về tôn giáo của tỉnh Quảng Bình
nói chung và cấp huyện nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm: tổng hợp,
thống kê, phân tích so sánh...để giải quyết các vấn đề nghiên cứu đặt ra.
Dựa trên cơ sở lý luận từ đó khảo sát, đối chiếu và hệ thống lại để đánh

giá việc thực hiện cũng như nêu ra những vấn đề cần khắc phục trong quá
5


trình thực hiện pháp luật của nhà nước đối với cơ quan quản lý cũng như
người làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.
6. Ý nghĩa của luận văn
Qua những phân tích về thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo của
UBND cấp huyện từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình, luận văn đã làm rõ thêm một
số vấn đề lý luận, thực tiễn về quản lý nhà nước về tôn giáo từ cấp độ cơ sở.
Luận văn cũng làm sáng tỏ một số vấn đề cấp bách đang đặt ra trong
quản lý nhà nước về tôn giáo của UBND cấp huyện tại tỉnh Quảng Bình, đồng
thời đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
tôn giáo ở địa phương trong thời gian tới.
Với những điểm mới như trên, luận văn có thể được dùng làm tài liệu
tham khảo cho việc hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý nhà nước về tôn
giáo, đồng thời có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy và bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo trên địa tỉnh Quảng
Bình nói riêng và cả nước nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được chia làm 3 chương, cụ thể:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về tôn giáo và quản lý nhà nước về tôn giáo
của Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
- Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo của Uỷ ban nhân
dân cấp huyện tại tỉnh Quảng Bình.
- Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về tôn giáo của Uỷ ban nhân dân cấp huyện từ thực tiễn tỉnh Quảng
Bình.

6



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÔN GIÁO VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN
GIÁO CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1. 1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về tôn giáo
của Ủy ban nhân dân cấp huyện
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về tôn giáo
Theo Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học (2012) thì: “Tôn giáo là
hình thái ý thức xã hội gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái
những lực lượng siêu tự nhiên, cho rằng có những lực lượng siêu tự nhiên
quyết định số phận con người, con người phải phục tùng và tôn thờ. Tôn giáo
là hệ thống những quan niệm tín ngưỡng một hay những vị thần linh nào đó
và những hình thức lễ nghi thể hiện sự sùng bái ấy” [32, tr.1293].
Dưới góc độ pháp lý, tôn giáo được hiểu là “niềm tin của con người tồn
tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý,
giáo luật, nghi lễ và tổ chức” (Khoản 5, Điều 2, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo
năm 2016).
Dưới góc độ tiếp cận của QLNN, tôn giáo là đối tượng của quản lý nhà
nước. Trong QLNN về các hoạt động tôn giáo (tôn giáo cá nhân và tôn giáo
có tổ chức) chúng ta cần đặc biệt chú ý hoạt động của các tôn giáo có tổ chức,
khái niệm tôn giáo có tổ chức được hiểu như sau: “tôn giáo là một tổ chức,
đại diện cho một cộng đồng người có chung một đức tin, theo một giáo lý hay
một giáo chủ và có một kết cấu là tổ chức giáo hội” [27, tr. 15].
Khái niệm QLNN bao trùm các lĩnh vực hoạt động của xã hội, trong đó
có hoạt động tôn giáo. Để Nhân dân được tự do, tín ngưỡng đảm bảo các
quyền và nghĩa vụ của mình trong khuôn khổ pháp luật, phát huy những yếu

7



tố tích cực, khắc phục những hạn chế của tôn giáo, Nhà nước cần thiết phải
quản lý các hoạt động này, đảm bảo cho các hoạt động tôn giáo thực hiện theo
đúng quy định, phù hợp với tình hình phát triển chung của xã hội.
Hoạt động tôn giáo là hoạt động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo
và quản lý tổ chức của tôn giáo (Khoản 11, Điều 2, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo
năm 2016).
Như vậy, có thể hiểu QLNN về tôn giáo là quá trình quản lý bảo đảm
việc chấp hành pháp luật về tổ chức hoạt động của các tổ chức cơ sở tôn giáo
diễn ra theo quy định của pháp luật.
Từ khái niệm về tôn giáo nêu trên cũng cần phân biệt sự khác nhau
giữa tín ngưỡng và tôn giáo, mặc dù tôn giáo và tín ngưỡng đều thuộc về lĩnh
vực văn hóa tâm linh. Tôn giáo có giáo chủ, giáo lý, có hệ thống từ trung
ương đến tận cơ sở; còn tín ngưỡng thờ đa thần, không có giáo chủ, giáo lý và
hệ thống tổ chức. Tôn giáo thường quan tâm đến nguồn gốc con người và
cuộc sống sau khi chết, còn tín ngưỡng quan tâm đến cuộc sống hiện hữu của
con người được thần thánh hóa.
1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước về tôn giáo của Ủy ban nhân dân
cấp huyện
QLNN về tôn giáo của UBND cấp huyện là quá trình các cơ quan trong
bộ máy hành pháp cấp huyện tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo tại địa
phương của mình.
UBND cấp huyện thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về tôn giáo
trên địa bàn theo phân cấp của UBND tỉnh và theo quy định của pháp luật.

8


1.1.3. Đặc điểm của quản lý nhà nước về tôn giáo của Ủy ban nhân

dân cấp huyện
Từ khái niệm quản lý nhà nước về tôn giáo của UBND cấp huyện như
trên, có thể khẳng định rằng quản lý nhà nước về tôn giáo của UBND cấp
huyện có đầy đủ các đặc điểm của quản lý hành chính nhà nước, đó là:
Một là, quản lý nhà nước về tôn giáo của UBND cấp huyện mang tính
quyền lực đặc biệt, được tổ chức chặt chẽ và mang tính mệnh lệnh đơn
phương của Nhà nước;
Hai là, quản lý nhà nước về tôn giáo của UBND cấp huyện là hoạt động
dựa trên chương trình, kế hoạch và mục tiêu xác định;
Ba là, Hoạt động mang tính liên tục và tương đối ổn định; có tính hệ
thống thứ bậc chặt chẽ, là một hệ thống thông suốt từ Trung ương đến cơ sở,
cấp dưới phục tùng cấp trên, thực hiện mệnh lệnh và chịu sự kiểm tra thường
xuyên của cấp trên; không có sự cách biệt tuyệt đối về mặt xã hội giữa người
quản lý và người bị quản lý.
Do đó, đặc điểm của QLNN về tôn giáo của UBND cấp huyện được
xem xét ở những mặt sau:
Thứ nhất, chủ thể QLNN về tôn giáo của UBND cấp huyện là bộ phận
tôn giáo thuộc Phòng Nội vụ. Bộ phận tôn giáo thực thi chức năng, quyền hạn
để tác động, điều chỉnh hoạt động tôn giáo trên địa bàn đảm bảo hoạt động
tôn giáo được tiến hành theo quy định pháp luật, quản lý nhà nước về tôn giáo
dựa trên cơ sở thực thi pháp luật.
So với chủ thể khác cùng cấp, chủ thể quản lý nhà nước về tôn giáo của
UBND cấp huyện không mang tính quy mô như ở một số lĩnh vực khác. Tuy
nhiên, chủ thể quản lý công tác này không những có kiến thức về quản lý nhà

9


nước mà còn có kiến thức hiểu biết sâu rộng về tôn giáo. Đồng thời, chủ thể
quản lý nhà nước về tôn giáo của UBND cấp huyện phải phối hợp tốt với với

các ban ngành khác như Công an huyện, Ban Tuyên giáo Huyện ủy, Ban Dân
vận Huyện ủy, Mặt trận Tổ quốc huyện…để cùng thống nhất quan điểm trong
giải quyết vấn đề tôn giáo.
Thứ hai, đối tượng quản lý của Nhà nước về tôn giáo của UBND cấp
huyện gồm có: về cá nhân có tín đồ, nhà tu hành, chức sắc; về tổ chức tôn
giáo có cơ sở vật chất (nhà thờ, nhà chùa, thánh đường…) phục vụ cho các
hoạt động tôn giáo và các sinh hoạt tôn giáo.
Trong công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, việc nắm bắt từng đặc
điểm của đối tượng quản lý là rất quan trọng, nhằm tìm ra những nét đặc
trưng của đối tượng, thông qua đó giúp cho bộ phận làm công tác tôn giáo sử
dụng các phương pháp quản lý thích hợp theo từng lĩnh vực khác nhau, đồng
thời việc nắm bắt các đặc điểm này rất quan trọng trong công tác vận động
quần chúng, đặc biệt là các chức sắc. Điều này quyết định đến chính sách tôn
giáo, bởi vì chức sắc các tôn giáo là bộ phận đầu não nên tư duy, thái độ,
tiếng nói của các vị này tác động rất lớn đến các tín đồ của tôn giáo.
Đối với tín đồ, phải chú ý trên hai phương diện: công dân và tín đồ. Với
tư cách công dân họ có quyền và lợi ích hợp pháp như những công dân khác,
phần lớn họ là người nông dân lao động cần cù chịu khó và có tinh thần yêu
nước. Còn tín đồ có niềm tin tôn giáo, có những quyền và nghĩa vụ đối với
giáo hội. Trên thực tế ở mỗi tín đồ tôn giáo đều có sự thống nhất giữa hai
phương diện trên, tuy nhiên do trình độ nhận thức và do hoàn cảnh sống, ở
mỗi người sẽ khác nhau. Tín đồ các tôn giáo với các lối sống đạo khác nhau
nhưng nhìn chung đều có tình cảm và niềm tin tôn giáo sâu sắc.

10


Đối với chức sắc tôn giáo, họ cũng là tín đồ, nhưng họ được đào tạo,
được tấn phong vào các chức vị trong tổ chức tôn giáo và có thẩm quyền nhất
định về mặt tôn giáo trong tổ chức tôn giáo đó. Mặt khác, chức sắc tôn giáo,

trong phạm vi nội bộ, họ đóng vai trò đại diện cho giáo chủ trên một số
phương diện nhất định. Ba mặt này thống nhất trong một con người chức sắc
tôn giáo, nhưng sự phát huy thế mạnh của tính thống nhất đó như thế nào lại
tùy thuộc vào trình độ và uy tín của mỗi người cụ thể.
Đối với cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động tôn giáo, được nhìn
nhận trên bốn đặc điểm đặc trưng riêng có của các cơ sở tôn giáo: hiện vật vật
chất, tính tôn nghiêm, nơi sinh hoạt cộng đồng và trụ sở. Với đặc điểm thứ
nhất, nó được trân trọng vì đó là giá trị văn hóa vật thể (ngôi chùa, gác
chuông cổ,…) là những cái bất biến được duy trì trong suốt quá trình lịch sử
tạo nên vật quý báu của nền văn hóa dân tộc và những giá trị này sẽ tiếp tục
tồn tại trong thời đại văn minh, góp phần làm giàu cho bản thân dân tộc và đất
nước; với đặc điểm mang tính tôn nghiêm vì đó là nơi hiện hữu của thần
quyền, nơi biểu hiện đức tin tôn giáo, nơi diễn ra các nghi lễ tôn giáo…; với
đặc điểm sinh hoạt cộng đồng vì đó là nơi diễn ra các lễ hội tín ngưỡng, với
đặc điểm là trụ sở vì đó là nơi sinh hoạt của các tổ chức tôn giáo…
Đối với các sinh hoạt tôn giáo có thể được xem xét ở hai khía cạnh: nội
dung và chủ thể. Nội dung của sinh hoạt tôn giáo bao gồm luật lệ và nghi lễ
tôn giáo. Tùy từng loại hoạt động mà luật lệ và nghi lễ tôn giáo được thực
hiện theo những điều đã được ghi trên văn bản thành văn hoặc được thực hiện
theo truyền thống, tập tục. Về mặt chủ thể của sinh hoạt tôn giáo, có thể do
chức sắc tôn giáo, có thể do chức việc, có thể do tập thể hoặc cá nhân phụ
trách.

11


Thứ ba, quản lý nhà nước về tôn giáo của UBND cấp huyện sử dụng
công cụ pháp luật, chính sách, quyền lực nhà nước. QLNN về tôn giáo của
UBND cấp huyện là hoạt động thực thi quyền hành pháp đối với các hoạt
động của các cá nhân, tổ chức tôn giáo do UBND cấp huyện tiến hành.

Thứ tư, mục tiêu của quản lý nhà nước về tôn giáo của UBND cấp
huyện là phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển trên địa bàn.
QLNN về tôn giáo của UBND cấp huyện phát huy tính khoan dung, hòa đồng
giữa các tôn giáo nhằm đoàn kết các tôn giáo để đảm bảo ổn định chính trị xã hội, đồng thời chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào có đạo,
thực hiện có hiệu quả chính sách xóa đói giảm nghèo ở nông thôn, vùng sâu,
vùng xa, vùng đông đồng bào tín đồ tôn giáo đang gặp nhiều khó khăn trong
cuộc sống. Đồng thời, bên cạnh việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, phải luôn chủ động đề cao cảnh giác chống những âm mưu lợi dụng tôn
giáo của các thế lực thù địch.
1.1.4. Vai trò của quản lý nhà nước về tôn giáo của Ủy ban nhân dân
cấp huyện
Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo của UBND cấp huyện có vai trò
rất quan trọng.
Một là, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo của UBND cấp
huyện luôn giữ vai trò quan trọng trong thực hiện chính sách tôn giáo của
Đảng, Nhà nước; góp phần củng cố, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
giữ vững an ninh quốc phòng, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là của
mọi công dân Việt Nam, dù ở trong nước hay đang sinh sống, học tập ở nước
ngoài.
Hai là, quản lý nhà nước về tôn giáo của UBND cấp huyện giúp phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần,
12


nâng cao dân trí cho nhân dân, trong đó có tín đồ các tôn giáo; tạo ra mối
quan hệ tốt giữa quần chúng với Đảng và Nhà nước; phát huy dân chủ, tiếp
thu những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của chức sắc, tín đồ các tôn giáo
để đề ra những chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình thực tế của địa
phương, góp phần tạo ra sự ổn định chính trị xã hội, phát huy tinh thần đoàn
kết trong nhân dân.

Ba là, trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập, hoạt động quản lý nhà
nước về tôn giáo cần phải phù hợp với tình hình thực tiễn. Bên cạnh hệ thống
pháp luật của nhà nước ta, công tác quản lý nhà nước về tôn giáo của UBND
cấp huyện còn phải thực hiện theo sự điều chỉnh của các Điều ước Quốc tế mà
Nhà nước ta tham gia ký kết hoặc thừa nhận.
Bốn là, quản lý nhà nước về tôn giáo của UBND cấp huyện khuyến
khích chức sắc, tín đồ các tôn giáo tham gia các hoạt động từ thiện xã hội có
lợi cho sự phát triển của địa phương, phù hợp với pháp luật và đạo lý. Đồng
thời, ngăn chặn được những hoạt động lợi dụng công việc từ thiện nhân đạo
để tiến hành hoạt động tôn giáo trái pháp luật.
1.2. Chủ thể quản lý nhà nước về tôn giáo của Uỷ ban nhân cấp
huyện
1.2.1. Quy định chung
Trong thời kỳ đổi mới, bộ máy làm QLNN về tôn giáo ở nước ta ngày
càng được củng cố và phát triển với chức năng, nhiệm vụ ngày càng rõ ràng.
Theo quy định tại Điều 61, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 về
trách nhiệm quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo như sau:
Chính phủ thống nhất QLNN về tôn giáo trong phạm vi cả nước.

13


Cơ quan QLNN về tôn giáo ở Trung ương chịu trách nhiệm trước
Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về tôn giáo.
Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về tôn giáo.
Đối với huyện không có đơn vị hành chính xã, thị trấn thì Ủy ban nhân
dân huyện đồng thời thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp
xã quy định tại Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016.
Ban Tôn giáo Chính phủ thuộc Bộ Nội vụ, là cơ quan tham mưu, giúp

Bộ trưởng Bộ Nội vụ quản lý nhà nước về tôn giáo. Theo Khoản 1, Điều 1,
Quyết định số 32/2018/QĐ-TTg ngày 03/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Tôn giáo
Chính phủ trực thuộc Bộ Nội vụ cho thấy: “Ban Tôn giáo Chính phủ là cơ
quan tương đương Tổng cục trực thuộc Bộ Nội vụ, có chức năng tham mưu
giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ quản lý nhà nước về lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo
và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo trong phạm
vi cả nước; thực hiện các dịch vụ công thuộc lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo
theo quy định của pháp luật”.
Các Bộ, ngành khác có liên quan phối hợp với Bộ Nội vụ trong quản lý
nhà nước về tôn giáo (Bộ Công an, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam…) và UBND các cấp thực hiện chức năng quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo ở địa phương.
1.2.2. Quy định chủ thể quản lý nhà nước về tôn giáo của Uỷ ban
nhân dân cấp huyện
UBND cấp huyện có Phòng Nội vụ giúp UBND thực hiện nhiệm vụ
QLNN về tôn giáo ở địa phương.

14


Phòng Nội vụ phân công các chuyên viên phụ trách theo từng lĩnh vực
như theo dõi về hoạt động của Phật giáo, Công giáo, Cao Đài, Tin Lành, và
các tôn giáo khác nhằm kịp thời nắm bắt nguyện vọng, tư tưởng, của các tín
đồ, chức sắc về hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn.
1.3. Nội dung quản lý nhà nước về tôn giáo của Uỷ ban nhân dân
cấp huyện
1.3.1. Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo Ủy ban
nhân dân cấp huyện
Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo được thể hiện ở hệ

thống các chính sách, pháp luật của nhà nước về công tác tôn giáo được ứng
dụng vào thực tiễn quá trình quản lý nhà nước về tôn giáo tại các địa phương.
Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo là quá trình chuyển
hóa ý chí của chủ thể quản lý nhà nước về tôn giáo trong chính sách, pháp
luật thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu định
hướng. Chính sách và pháp luật về tôn giáo có nội dung nhằm thực hiện chức
năng của nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ QLNN về tôn giáo, đảm
bảo quyền tự do tôn giáo của nhân dân. Đồng thời, hệ thống chính sách, pháp
luật về tôn giáo phải đáp ứng yêu cầu của bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay, bảo đảm các quyền con người về tôn giáo. Nhà nước
có trách nhiệm chính yếu trong tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tôn
giáo, thiết lập cơ chế kiểm soát quản lý việc tuân thủ pháp luật trong tổ chức
và hoạt động của các tổ chức tôn giáo, xử lý nghiêm minh, công bằng, kịp
thời mọi vi phạm pháp luật về tôn giáo, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố
cáo và tiếp công dân trong hoạt động của các tổ chức, chức sắc, chức việc tôn
giáo và nhà tu hành theo quy định của pháp luật. Đồng thời, tổ chức kiểm tra,
giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo [18, tr 20].
15


UBND cấp huyện là cấp chính quyền sâu sát đối với các hoạt động tôn
giáo. Là nơi thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật cũng như văn bản chỉ
đạo, hướng dẫn trực tiếp của cấp tỉnh về tôn giáo. Vì vậy, UBND cấp huyện
luôn quan tâm, chỉ đạo phòng nội vụ chấp hành và tổ chức thực hiện tốt các
văn bản về công tác quản lý tôn giáo theo phân cấp của UBND tỉnh và theo
quy định của pháp luật.
Hiện tại, nước ta đã xây dựng được một khung pháp luật tương đối
hoàn thiện về tôn giáo, trong đó nòng cốt là các văn bản như: Hiến pháp năm
2013; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo ngày 18/11/2016 của Quốc Hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Nghị định 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017

của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín
ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị số 1940/CT-TTg ngày 31/12/2008 của Thủ tướng
Chính phủ về nhà, đất liên quan đến tôn giáo; Thông tư liên tịch số
04/2014/TTLT-BVHTTDL-BNV ngày 30/5/2014 giữa Bộ Văn hóa, thể thao
và Du lịch và Bộ Nội vụ hướng dẫn việc thực hiện nếp sống văn minh tại các
cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo, cùng nhiều văn bản quy phạm pháp luật
khác như Luật Hình sự, Luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Đất
đai,…
Trên cơ sở các chủ trương, chính sách của Đảng, các văn bản quy phạm
pháp luật của Nhà nước, của địa phương, UBND cấp huyện đã căn cứ tình
hình thực tiễn để cụ thể hóa, triển khai thực hiện ở từng địa bàn, đáp ứng yêu
cầu của cải cách hành chính trong quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.
Việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo của UBND
cấp huyện tập trung vào một số nội dung sau:
Thứ nhất, đảm bảo và tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của công dân.

16


Thứ hai, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, gắn bó đồng bào tôn giáo
và không theo tôn giáo cùng dựng xây đất nước.
Thứ ba, hoạt động tín ngưỡng tôn giáo phải tuân thủ theo các quy định
của pháp luật.
Thứ tư, những hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo để gây rối, phá hoại
tình hình an ninh trật tự, chống phá Nhà nước Việt Nam đều bị xử lý theo
pháp luật. Hoạt động mê tín dị đoan bị phê phán và loại bỏ.
1.3.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật về tôn giáo của Ủy ban nhân dân
cấp huyện
Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay, công tác tuyên
truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật ngày càng có vai trò quan trọng và luôn

được Đảng và Nhà nước quan tâm, đặc biệt là UBND cấp huyện, nơi trực tiếp
quản lý công tác tôn giáo tại các địa phương.
Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về tôn giáo của UBND cấp
huyện nhằm phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, góp phần vào định hướng dư
luận xã hội, giúp ổn định chính trị, xã hội, phát triển đất nước.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về tôn giáo của UBND cấp
huyện đã góp phần xây dựng ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật trong chức sắc, tín đồ tôn giáo. Hoạt động của các tôn giáo trong những
năm gần đây ngày càng phát triển đa dạng. Các tôn giáo không ngừng đẩy
mạnh các hoạt động truyền giáo, phát triển tín đồ, đào tạo chức sắc, in ấn kinh
sách, xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự, mở rộng quan hệ quốc tế, làm cho sinh
hoạt tôn giáo ở nước ta có rất nhiều sự đổi mới, phù hợp với tình hình thực
tiễn.

17


1.3.3. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức làm công tác
tôn giáo
Hiện nay, Các chức sắc, nhà tu hành của các tôn giáo được đào tạo bài
bản ở trong nước và nước ngoài nhất là những tôn giáo ngoại sinh, do vậy
trình độ hiểu biết về tôn giáo cũng như nắm bắt pháp luật về tôn giáo trong và
ngoài nước của những vị này rất uyên thâm [37, tr 18].
Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng phạm vi chủ thể có quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo - từ “công dân” thành “mọi người”, thể hiện đúng bản chất
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền con người, chứ không chỉ là quyền
của công dân như các bản Hiến pháp trước đây khẳng định. Thể chế hóa Hiến
pháp năm 2013, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo có nhiều quy định theo hướng tạo
điều kiện thuận lợi hơn cho các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, như người bị

hạn chế quyền công dân cũng được sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, người
nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được tạo điều kiện thuận lợi hơn
trong sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo.
Các thủ tục hành chính về hoạt động tôn giáo được cắt giảm và giải
quyết nhanh gọn hơn, theo hướng tăng cường công tác hậu kiểm của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, không gây mất thời gian của các tổ chức và cá nhân
tôn giáo. Cùng với việc Nhà nước mở rộng quyền và tạo điều kiện hơn cho
các tổ chức, cá nhân tôn giáo hoạt động, nhiều loại hình và hoạt động tín
ngưỡng cũng được phục hồi, phát triển. Bên cạnh những mặt tích cực về giá
trị đạo đức, làm phong phú thêm bản sắc văn hóa Việt, hoạt động của các loại
hình tín ngưỡng có lúc, có nơi vẫn còn mang tính tự phát, chưa được quản lý;
một số nội dung hoạt động tín ngưỡng bị biến dạng, phản văn hóa, với mục
đích trục lợi, gây mất an ninh, trật tự ở một số địa phương.

18


Từ những vấn đề nêu trên đặt ra cho những nhà quản lý về tôn giáo
những yêu cầu bức thiết trong việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm
công tác tôn giáo trong tình hình mới hiện nay. Để có thể triển khai thực hiện
chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đối
với tôn giáo trong đời sống xã hội nói chung, trong các tổ chức tôn giáo và
đồng bào có đạo nói riêng, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của các tổ
chức, cá nhân liên quan đến tôn giáo được thực hiện đầy đủ và hiệu quả; đồng
thời đấu tranh với các thế lực thù địch, thiếu thiện chí lợi dụng niềm tin tín
ngưỡng, tôn giáo của một bộ phận đồng bào có đạo để tuyên truyền xuyên tạc
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với tín ngưỡng, tôn giáo,
kích động gây rối, làm ảnh hưởng đến đoàn kết nội bộ tôn giáo, đến mối quan
hệ đạo - đời, làm phương hại đến cuộc sống ổn định của người dân..., Đảng và
Nhà nước rất quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, nhất là

đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo cấp huyện, nơi trực tiếp gắn bó với các
tổ chức tôn giáo trên địa bàn [37, tr 19].
Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo mang tầm quan trọng và ý nghĩa
to lớn, không chỉ đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người có đạo
mà còn góp phần bảo đảm trật tự an toàn xã hội.
Để có được đội ngũ cán bộ giỏi đáp ứng nhu cầu và nhiệm vụ được
giao, chính quyền các cấp cần phải có chế độ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao
trình độ lý luận cho cán bộ, thông qua các hoạt động thực tiễn để nâng cao
phẩm chất và năng lực cá nhân. Trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, với chính sách hội
nhập và phát triển đã và đang đặt ra những nhiệm vụ mới trong công tác quản
lý nhà nước về tôn giáo, đặc biệt là cấp cơ sở.

19


×