Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành, ổn định và sinh khả dụng của hỗn dịch thuốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.8 KB, 11 trang )

1. ĐỊNH NGHĨA HỖN DỊCH THUỐC
- Định nghĩa: Hỗn dịch thuốc là các thuốc lỏng để uống, tiêm, dùng ngoài
chứa các dươc chất rắn không tan dưới dạng các hạt rất nhỏ (đường kính
> 0,1 μm) được phân tán đống đều trong chất lỏng là môi trường phân tán (chất
dẫn).
- Thành phần hỗn dịch thuốc:
+ Dược chất: là các hoạt chất ở dạng tiểu phân rắn không tan hoặc ít tan
trong chất dẫn; ngoài ra có thể có các dược chất khác hoà tan, có tác dụng
hợp đồng với dược chất rắn không tan.
+ Chất dẫn: là môi trường phân tán như nước cất, các chất lỏng phân cực
khác hoặc các loại dầu lỏng, không có tác dụng dược lí và các chất lỏng tổng
hợp hoặc bán tổng hợp khác.
+ Chất phụ: gồm các chất gây thấm, chất gây treo, chất làm ngọt, chất
làm thơm, chất bảo quản,…
- Phân loại:
+ Theo kích thước của các tiểu phân rắn, có: hỗn dịch thô (kích thước
tiểu phân rắn từ 10 – 100 μm) và hỗn dịch mịn (kích thước tiểu phân rắn
khoảng 0,1 – 1 μm).
+ Theo nguồn nguồn gốc các chất dẫn, có: hỗn dịch nước, hỗn dịch dầu,
hỗn dịch glycerin,…
+ Theo đường dùng, có: hỗn dịch uống, hỗn dịch dùng ngoài, hỗn dịch
tiêm.

1


2. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH, ỔN
ĐỊNH VÀ SINH KHẢ DỤNG CỦA HỖN DỊCH THUỐC
2.1. Tính thấm của dược chất rắn không tan
Khi một chất lỏng tiếp xúc với bề mặt chất rắn thì giữa chất rắn và chất lỏng
tạo với nhau thành góc tiếp xúc (contact angle) còn gọi là góc thấm ướt (wetting


angle). Chất lỏng càng dễ tan toả trên bề mặt chất rắn thì góc tiếp xúc càng nhỏ
và ngược lại. Ví dụ: góc tiếp xúc giữa thuỷ tinh với nước là 0°, của thuỷ tinh –
thuỷ ngân là 130°, của sáp với nước là 100 – 110°.

Hình 2.1. Góc tiếp xúc giữa bề mặt chất rắn và chất lỏng

Hình 2.2. Các loại góc tiếp xúc giữa pha lỏng và pha rắn

θ = 0° khi chất lỏng thấm hoàn toàn trên bề mặt hoạt chất rắn.
θ = 180° khi chất lỏng hoàn toàn không thấm hoạt chất rắn.
Góc tiếp xúc của một chất lỏng đối với một chất rắn phụ thuộc vào sức căng
ở bề mặt tiếp xúc giữ 2 pha rắn – lỏng. Sức căng liên bề mặt càng lớn, góc tiếp

2


xúc càng lớn, hoạt chất rắn càng khó thấm chất lỏng và ngược lại. Làm giảm sức
căng liên bề mặt này sẽ làm cho hoạt chất dễ thấm chất lỏng.
Dựa vào tính thầm của bề mặt dược chất rắn đối với chất lỏng, dược chất rắn
không tan trong chất lỏng được phân thành 2 loại là dược chất rắn thân nước
(hydrophilic solid) và dược chất rắn sơ nước (hydrophobic solid).
Dược chất rắn có bề mặt thân nước thì dễ thấm chất dẫn là nước. Ví dụ các
muối bismuth, calci carbonat, magnesi oxyd, magnesi carbonat, kẽm oxyd, các
sulfamid, một số kháng sinh,…
Đối với các dược chất rắn thân nước dễ điều chế thành các hỗn dịch thuốc
nước đạt yêu cầu do các tiểu phân của hỗn dịch dễ được bao bọc bởi lớp áo thân
nước (vỏ hydrat), khó kết dinh. Trong trường hợp bề mặt của các tiểu phân có
tích điện, giữa chúng sẽ có lực đẩy tĩnh điện nên cũng sẽ hạn chế khả năng kết
hợp.
Dược chất rắn có bề mặt sơ nước (thân dầu) ít thấm hoặc không thấm chất

dẫn là nước. Các dược chất sơ nước là do sự hấp phụ khí lên bề mặt. Các chất sơ
nước dễ thấm ướt dầu và các dung môi bán phân cực nên còn được gọi là chất
rắn thân dầu. Ví dụ aspirin, acid benzoic, calci stearat, griseofulvin, menthol,
long não, terpin hydrat, lưu huỳnh,… Đối với các chất rắn sơ nước dễ điều chế
thành hỗn dịch dầu đạt yêu cầu, nhưng khi điều chế hỗn dịch nước thì các tiểu
phân rắn rất khó phân tán đều trong nước. Trong trường hợp này phải làm cho
bề mặt các dược chất rắn từ sơ nước thành thân nước bằng cách sử dụng chất
gây thấm.
Những chất khi cho vào làm giảm sức căng bề mặt giữa pha rắn và pha lỏng,
làm cho dược chất rắn dễ thấm chất lỏng gọi là những chất gây thấm.
Những tác nhân gây thấm thường dùng để điều chế thuốc là các chất diện
hoạt, các chất keo thân nước, các chất rắn dạng hạt nhỏ và một số dung môi.
Chất diện hoạt có giá trị HLB vào khoảng 7 – 9 (hoặc cao hơn) thường được
chọn làm chất gây thấm. Những chuỗi hydrocarbon sẽ bị hấp phụ bởi bề mặt tiểu
3


phân rắn sơ nước trong khi phần phân cực sẽ hướng vào môi trường phân tán
nước. Như vậy, sự thấm của chất rắn sẽ xảy ra nhờ vào sự giảm của sức căng
liên bề mặt giữa 2 pha rắn – lỏng. Với mục đích gây thấm, các chất diện hoạt
thường được dùng với nồng độ thấp từ 0,05 – 0,5%. Các chất diện hoạt dùng
gây thấm trong chế phẩm uống gồm các polysorbat (Tween) và sorbitan ester;
các chất diện hoạt dùng cho chế phẩm dùng ngoài có natri lauryl sulfat, natri
dioctylsulfosuccinat; chất diện hoạt cho chế phẩm tiêm được chọn lọc kỹ chủ
yếu là các polysorbat, một vài polyoxyethylen, polyoxypropylen copoyme (các
pluronic) và lecithin. Hầu hết các chất diện hoạt có vị đắng, trừ poloxamer, vì
vậy cần chọn lựa cho phù hợp với dạng thuốc.
Khi sử dụng các chất diện hoạt phải lưu ý đến sự tạo bọt của các chất này.
Bảng 2.1. Một số chất diện hoạt dùng trong hỗn dịch
Sức căng bề mặt

(dyn/cm2)
Chất diện hoạt
HLB
Đặc tính, sử dụng
dung dịch 0,1%/nước
Anion:
 Natri docusat
> 24
41
Vị đắng, tạo bọt
40
43
Vị đắng, tạo bọt

Natri
laurylsufat
Cation:
 Polysorbat 65
10,5
33
Vị đắng
12,2
30
Vị đắng
 Octoxynol-9
13,2
29
Vị đắng
 Nonoxynol-10
14,9

44
Vị đắng
 Polysorbat 60
15,0
42
Vị đắng, sử dụng rộng
 Polysorbat 80
15,6
41
Vị đắng, độc tính thấp
 Polysorbat 40
16,0
42
Không đắng, độc tính
 Polyxamer 235
thấp
16,7
37
 Polysorbat 20
Vị đắng
29
50
 Polyxamer 188
Tạo bọt

Các chất keo thân nước như gôm arabic, gôm adragan, các dẫn xuất
cellulose và các chất rắn vô cơ ở dạng hạt rất mịn như bentonit, nhôm hoặc
magnesi hydroxyd khi được phân tán vào môi trường nước, các micelle hoặc các
tiểu phân của chúng hấp phụ lên bề mặt sơ nước của các tiểu phân rắn và tạo ra
4



lớp áp thân nước bao bọc những tiểu phân rắn. Lớp áo này sẽ làm các tiểu phân
rắn dễ thấm ướt chất lỏng có tính thân nước. Mặt khác, khi lớp áo này có tích
điện, giữa các tiểu phân rắn sẽ có lực đẩy tĩnh tiện cũng làm hạn chế sự kết hợp
với nhau.
Bảng 2.2. Một số chất keo thân nước dùng trong hỗn dịch
Khoảng pH
Tá dược
Tương tác, tương kỵ
thích hợp
Gôm arabic
3–9
Không tan trong EtOH trên 10%
Thạch
4 – 10
Ion calci, nhôm, borax
Pectin
2–9
Kẽm oxyd, EtOH trên 10%
Propylen glycol alginat
3–7
Ion calci, magnesi
Natri alginat
4 – 10
Icon calci, EtOH trên 10%
Gôm adragant
3–9
Muối bismut, EtOH trên 40%
Dẫn chất cellulose

 CMC, Na CMC
3 – 10
Tanin, diện hoạt cation, dung
dịch muối nồng độ cao
3 – 10
 Avicel
Không tan trong EtOH trên 10%
2 – 10
 HEC, HPC, HPMX

Bảng 2.3. Một số chất rắn vô cơ hạt mịn dùng trong hỗn dịch
Khoảng pH
Tương tác,
Tá dược
thích hợp
tương kỵ
Bentonit (nhôm – silicat keo)
3 – 10
Hectorit (Mg – nhôm silicat keo)
3 – 10
Ion calci và
cation đa hoá trị
Sepiolti (Magnesi silicat)
3 – 10

Các dung môi như alcol, glycerol, glycol có thể hoà lẫn với nước, sẽ làm
giảm sức căng liên bề mặt lỏng, khí. Dung môi sẽ thấm vào những khối bột
thuốc, chiễm chỗ không khí ở những lỗ trỗng của các tiểu phân riêng rẽ, như vậy
làm quá trình thấm ướt xảy ra bởi môi trường phân tán là nước.


2.2. Kích thước tiểu phân dược chất rắn không tan
Hệ thức Stockes mô tả một số yếu tố ảnh hưởng đến độ ổn định của hỗn dịch
(tỷ trọng của 2 pha, kích thước của tiểu phân phân tán, độ nhớt của môi trường
phân tán):

5


2r 2 ( d1 − d 2 ) g
V=


Trong đó:
V: vận tốc tách của các tiểu phân pha phân tán khỏi môi trường
phân tán.
d1: tỷ trọng của pha phân tán.
d2: tỷ trọng của môi trường phân tán.
r: bán kính của tiểu phân pha phân tán.
g: gia tốc trọng trường.
Hỗn dịch càng ổn định vững bền khi vận tốc tách của các tiểu phân dược
chất rắn càng nhỏ; nói cách khác, độ vững bền của hỗn dịch là một đại lượng
nghịch đảo với vận tốc phân lớp. Gọi U là độ vững bền của hỗn dịch, ta có:
U=

1

= 2
V 2r ( d1 − d 2 ) g

Theo hệ thức Stockes, kích thước của các tiểu phân rắn càng nhỏ thì tốc độ

lắng càng chậm. Mặt khác, các tiểu phân phải có kích thước đồng đều để tránh
các hạt to tách ra nhanh làm kéo theo các hạt nhỏ tách ra.
Tuy nhiên, nếu được phân chia quá mịn trong một số trường hợp khi đã lắng
xuống đáy chai các hạt có huynh hướng kết hợp lại với nhau thành bánh, khi lắc
lên, khối bánh này sẽ vỡ ra và tạo thành những khối lớn hơn các tiểu phân ban
đầu. Dạng tinh thể cũng ảnh hưởng nhiều đến khả năng kết thành bánh. Calci
carbonat có tinh thể hình khối cho hỗn dịch bền hơn so với calci carbonat có tinh
thể hình kim vì hình kim khi lắng sẽ tạo thành bánh khó phân tán lại.
Kích thước của tiểu phân rắn cũng ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ hoà tan và
tốc độ phóng thích dược chất, điều này cũng ảnh hưởng đến sinh khả dụng của
thuốc. Do đó, kích thước của các tiểu phân rắn trong hỗn dịch thường được khảo
sát khi điều chế các hỗn dịch tác dụng kéo dài. USP quy định hỗn dịch
6


griseofulvin phải có diện tích bề mặt riêng phần trong khoảng 1,3 – 1,7 m2/g. Để
đạt được diện tích này kích thước hạt phải trong khoảng 3 – 4 μm. Kích thước
này cần thiết cho sự hấp thu các dược chất khó tan như griseofulvin. Hỗn dịch
tiêm insulin phải có kích thước tiểu phân thích hợp để cho tác động khởi đầu
nhanh chóng và duy trì được tác dụng kéo dài. Hỗn dịch tiêm insulin kẽm dạng
tinh thể có kích thước tiểu phân 10 – 40 μm sẽ tác động sau 4 – 6 giờ sau khi
tiêm và kéo dài tác động đến 36 giờ trong khi insulin kẽm dạng vô định hình có
kích thước tiểu phân < 2 μm sẽ cho tác động trong vòng 1 – 3 giờ sau khi tiêm
và chỉ kéo dài tác động 12 – 16 giờ.
Kích thước của các tiểu phân dược chất rắn trong thuốc nhỏ mắt liên quan
đến vận tốc hoà tan và thời gian lưu lại của dược chất trên túi giác mạc. Kích
thước hạt quá nhỏ thì khả năng lưu kém. Thời gian hấp thu thuốc phải nhỏ hơn
thời gian lưu thuốc tại mắt, nồng độ bão hoà ban đầu sẽ có tác dụng trị liệu. Để
tránh kích ứng mắt thì kích thước hạt thường nhỏ hơn 10 μm. Tuy nhiên, kích
thước tiểu phân rắn lớn hơn 5 μm sẽ tạo ra cấu trúc “nhám” cho sản phẩm và có

thể gây kích ứng khi tiêm hay khi nhỏ vào mắt, nếu lớn hơn 25 μm sẽ gây tắc
kim khi tiêm dưới da, đặc biệt khi các tiểm phân này có hình kim. Kích thước
các tiểu phân rắn trong hỗn dịch thuốc nhỏ mắt vào khoảng 2 – 6 μm có sinh khả
dụng cao nhất.
Trong bào chế, có nhiều phương pháp làm giảm kích thước của dược chất
rắn.
Ở quy mô nhỏ, dùng cối chày để nghiền khô hoặc nghiền khô kết hợp với
nghiền ướt hay nghiền kết hợp và lắng gạn trong trường hợp chất dẫn không quá
nhớt.
Ở quy mô công nghiệp, có thể nghiền thành vi thể (micropulverization) ở
môi trường lỏng bằng máy nghiền hòn bi trong đó cho chung tướng rắn, chất
dẫn và các hòn bi. Khi sử dụng máy nghiền hòn bi cần chú ý đến nhiều yếu tố
như kích thước của bình, đường kính của hạt bi, số lượng hạt bi, số lượng sản
phẩm rắn, số lượng chất lỏng, tỷ trọng của các yếu tố khác nhau, tốc độ quay và
7


khoảng thời gian tiến hành. Các thông số phải xác định để đảm bảo tính đồng
nhất giữa các lô. Sử dụng máy xay keo hoặc áp dụng phương pháp phân tán
bằng siêu âm cũng cho các hỗn dịch rất bền vững. Phương pháp nghiền thành vi
thể ở môi trường khô thích hợp cho các bột dùng điều chế thành hỗn dịch ngay
khi dùng. Trong công nghiệp thường sử dụng máy nghiền bằng khí nén.

2.3. Tỷ trọng của dược chất rắn và chất dẫn
Hỗn dịch càng dễ hình thành và vững bền khi hai pha có tỷ trọng gần bằng
nhau. Nếu 2 pha có tỷ trọng khác nhau nhiều thì hỗn dịch thu được sẽ không bền
vững, dược chất không tan có thể nhanh chóng bị nổi lên trên hoặc lắng xuống
đáy bình đựng hỗn dịch.
Do đó, để làm cho hỗn dịch ổn định và bền vững, cần tìm cách điều chỉnh
hiệu số tỷ trọng giữa dược chất rắn phân tán và chất lỏng môi trường phân tán

càng nhỏ càng tốt.

2.4. Độ nhớt của môi trường phân tán
Hỗn dịch bền khi độ nhớt của môi trường phân tán tăng nhưng độ nhớt chỉ
có thể điều chỉnh đến một giới hạn nào đó vì nếu môi trường phân tán quá nhớt
sẽ khó rót hỗn dịch ra khỏi chai lọ và hỗn dịch khó phân tán lại đồng nhất khi
các tiểu phân chất rắn đã lắng.
Để tăng độ nhớt của môi trường phân tán, những chất có độ nhớt cao được
sử dụng. Các chất này được gọi là các chất gây treo (suspending agent). Thông
thường, với môi trường phân tán là nước, một vài tác nhân gây treo thường dùng
như carboxymethyl cellulose, cellulose vi tinh thể, PVP, gôm, xanthan, bentonit.
Một vài chất gây thấm (wetting agent) cũng tạo ra độ nhớt cao cho môi trường
phân tán. Khi sử dụng các polyme hoặc các keo thân nước cần chú ý sự tương
tác với dược chất. Các chất này thường kết dính với dược chất nên có thể làm
giảm tính sinh khả dụng của thuốc. Sự lựa chọn các chất tạo độ nhớt tuỳ thuộc
vào loại sản phẩm (dùng trong hay dùng ngoài), thiết bị pha chế và thời gian bảo
quản.
8


Độ nhớt không chỉ có thể điều chỉnh bằng cách tác động vào môi trường
phân tán mà còn bằng cách gia tăng lượng chất rắn. Nếu tỷ lệ dược chất rắn gia
tăng thì độ nhớt của hỗn dịch cũng tăng theo.

2.5. Sự tương tác bề mặt của các tiểu phân rắn phân tán
Sự tương tác bề mặt của các tiểu phân rắn làm hỗn dịch tồn tại ở trạng thái
kết bông (floculation) hoặc không kết bông. Thông thường, các tiểu phân dược
chất được nghiền rất mịn để có thể phân tán đồng nhất trong môi trường liên tục.
Sự nghiền mịn các tiểu phân phân tán đến thể chất mịn sẽ làm thay đổi năng
lượng bề mặt tự do (surface free energy) làm cho hệ không bền về phương diện

nhiệt động học. Trong trường hợp này, các hạt sẽ có năng lượng rất cao nên có
khuynh hướng co cụm lại để giảm tổng diện tích bề mặt, do đó giảm năng lượng
bề mặt tự do. Các tiểu phân chất rắn có trong hỗn dịch lỏng có khuynh hướng
tạo thành những khối kết tụ nhẹ, liên kết với nhau bằng những lực liên kết yếu
Van Der Waals. Đây là hiện tượng kết bông.
Trong những trường hợp nhất định, các tiểu phân có thể có thể liên kết với
nhau bằng những lực liên kết mạnh hơn tạo thành những khối kết tụ (aggregates)
gọi là sự đóng bánh. Hiện tượng đóng bánh thường xảy ra do sự phát triển và
liên kết với nhau của những tinh thể có trong kết tủa tạo thành khối kết tụ rắn.
Hiện tượng tạo thành những khối lớn, do dù là kết bông hay kết tụ
(aggregate), đều là do khuynh hướng thay đổi của hệ để tiến đến một trạng thái
bền vững về phương diện nhiệt động học.
Tóm lại, các tiểu phân rắn kết bông liên kết với nhau rất nhiều, có tính chất
lắng nhanh, nhưng không tạo thành khối bánh và có thể tái phân tái thành hỗn
dịch đồng nhất dễ dàng, các tiểu phân không kết bông lắng chậm và sẽ tạo thành
khối rắn, trong đó các tiểu phân kết tụ lại với nhau và dần dần sẽ hình thành khối
bánh cứng khó phân tán. Vì vậy, một hỗn dịch không kết bông phải có độ nhớt
đủ cao để ngăn cản sự lắng cặn.

9


Nếu cần thiết biến đổi hỗn dịch từ kiểu không kết bông sang kiểu kết bông
thì thực hiện bằng cách thêm vào chất điện giải, chất diện hoạt hoặc các chất cao
phân tử thân nước.

2.6. Các yếu tố khác
Các yếu tố như pH, chất điện giải, chất bảo quản,… cũng có ảnh hưởng đến
chất lượng của hỗn dịch thuốc. Trong trường hợp dược chất có tính ion hoá, có
thể dùng môi trường đệm để làm cho dược chất ít tan. Ngoài ra, các chất đệm

còn được dùng để kiểm soát tình trạng ion hoá của chất bảo quản, chất tạo độ
nhớt hoặc duy trì pH của hỗn dịch ở một khoảng thích hợp.
Các hỗn dịch nên có chất bảo quản để ngăn ngừa sự phát triển của vi khuẩn.

3. NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA HỖN DỊCH
- Các tiểu phân chất rắn có trong hỗn dịch lỏng có khuynh hướng tạo thành
những khối kết tụ nhẹ, liên kế với nhau bằng những lực liên kết yếu Van Der
Waals. Đây là hiện tượng kết bông.
- Trong những trường hợp nhất định, các tiểu phân có thể có liên kết với
nhau bằng những lực liên kế mạnh hơn tạo thành những khối kết tụ (aggregates)
gọi là sự đóng bánh. Hiện tượng đóng bánh thường xảy ra do sự phát triển và
liên kết với nhau của những tinh thể có trong kết tủa tạo thành khối kết tụ rắn.
- Các tiểu phân rắn kết bông liên kết với nhau rất yếu, có tính chất lắng
nhanh, nhưng không tạo thành khối bánh và có thể tái phân tán thành hỗn dịch
đồng nhất dễ dàng, các tiểu phân không kết bông lắng chậm và sẽ tạo thành khối
rắn, trong đó các tiểu phân kết tụ lại với nhau và dần dần sẽ hình thành khối
bánh cứng khó phân tán. Vì vậy, một hỗn dịch không kết bông phải có độ nhớt
đủ cao để ngăn cản sự lắng cặn.
- Nếu cần thiết biến đổi hỗn dịch từ kiểu không kết bông sang kiểu kết bông
thì thực hiện bằng cách thêm vào chất điện giải, chất diện hoạt hoặc các chất cao
phân tử thân nước.
10


Bảng 3.1. Một số biến đổi, nguyên nhân và phương pháp khắc phục
Sự cố
Nguyên nhân
Cách khắc phục
Đóng bánh Hình thành tinh thể, tạo Điều chỉnh kích thước tiểu phân phân
(caking) thành

khối
kết
tụ tán.
(aggregate).
Tăng tỷ trọng và độ nhớt của chất dẫn.
Kiểm tra lại điện thế Zeta.
Hệ không kết bông.
Thêm tác nhân gây kết bông
(flocculation agent)
Hình thành Hiện tượng đa hình: Sự kết Làm giảm sức căng bề mặt để giảm năng
tinh thể
hợp của tinh thể và dạng vô lượng tự do trên bề mặt các tiểu phân.
định hình.
Điều chỉnh thủ thuật gây kết tủa.
Quá nhiều chất diện hoạt Kiểm tra nồng độ và HLB của chất
làm cho một phần dược diện hoạt.
chất hoà tan và kết tinh lại. Thay đổi lượng chất dẫn.
Kích thước tinh thể khác Điều chỉnh phương pháp phân chia chất
nhau quá nhiều.
rắn để có thể thu được các tiểu phân có
Thay đổi nhiệt độ, gây kết phân bố kích thước hẹp.
tủa dược chất trong 1 dung Tạo một lớp áo bảo vệ quanh các tiểu
dịch bão hoà.
phân bằng các chất keo (hàng rào năng
lượng tự do).
Không
Nồng độ chất điện giải Kiểm tra lại tính chất của hoạt chất, hàm
kết bông quá cao.
lượng polyme, chất gây thấm và nồng độ
chất điện giải.

Kiểm tra tính chất tích điện của hoạt
chất, của tác nhân gây treo và của tác
nhân kết bông.
Có sự hình thành tinh thể.
Cố gắng tạo ra hiện tượng kết bông có
kiểm soát.
Khó phân Hiện tượng không kết Thay đổi công thức bằng cách thêm tác
tán lại
bông.
nhân kết bông vào công thức.
Kích thước hạt hoạt chất Thay đổi kích thước hạt.
không phù hợp.
Dược chất Tác nhân gây treo không Tăng lượng hoặc thay thế tác nhân gây
rắn nổi lên đủ hoặc kém hiệu quả.
treo.
bề mặt
Do ảnh hưởng của chất Kiểm tra lượng và tính chất của chất
điện giải.
điện giải.
Hoạt chất sơ nước không Sử dụng các chất gây thấm thích hợp –
được thấm ướt đầy đủ bởi các chất gây thấm không ion hoá để
chất dẫn do không khí bám giảm góc tiếp xúc của hạt hoạt chất.
dính vào hạt hoạt chất.

11



×