Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

SKKN một số giải pháp nhằm áp dụng phương pháp dạy học theo dự án môn khoa học lớp 5 một cách hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.34 MB, 70 trang )

PHÒNG GD&ĐT TAM DƯƠNG TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐỒNG TĨNH B
=====***=====

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến: Một số giải pháp nhằm áp dụng phương pháp dạy học theo
dự án môn Khoa học lớp 5 một cách hiệu quả.
Tác giả sáng kiến: Trần Thị Loan

Tam Dương, năm 2020


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Luật Giáo dục ban hành ngày 14 tháng 6 năm 2019 đã chỉ ra Mục tiêu giáo dục
của nước ta như sau: “Mục tiêu giáo dục nhằm phát triển toàn diện con người Việt
Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp; có phẩm chất,
năng lực và ý thức công dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lí
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của
mỗi cá nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.”

Để thực hiện được Mục tiêu giáo dục phải có sự chỉ đạo sâu sát, sự vào
cuộc quyết liệt của các cấp, các ngành giáo dục. Nghị quyết số 29-NQ/TW đã
chỉ ra việc phải đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo: “Phát triển giáo
dục đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển
mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện
năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực
tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và xã hội. Giáo dục cần


hướng cho học sinh chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục
và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.”
Nhà tâm lí học, triết học người Thụy Sĩ, Jean Piaget (1896-1980), người nổi
tiếng bởi những nghiên cứu về “Chủ nghĩa kết cấu”, “Nhận thức luận di truyền”,
“Lý thuyết phát triển nhận thức”, đã từng nói: “Mục tiêu căn bản của giáo dục ở
trường học là tạo nên những con người có khả năng tạo ra những điều mới, chứ
không phải thuần túy lặp lại những gì mà các thế hệ trước đã làm.”

Như vậy, trong bối cảnh xã hội nước ta hiện nay, việc chú trọng phát triển
giáo dục được coi là ưu tiên hàng đầu, để đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước.
Trong công cuộc đó, phải kể đến vai trò quan trọng của người giáo viên cùng với
sự đổi mới phương pháp giáo dục đáp ứng mục tiêu từng bài học, chủ đề môn
học nói riêng và đáp ứng mục tiêu từng cấp học nói chung. Tiến sĩ Thomas
Gordon trong cuốn T.E.T Đào tạo giáo viên hiệu quả cũng đã nói: “Suy cho
cùng, trong mọi cuộc cải cách giáo dục, giáo viên sẽ là nhân tố quyết định sự
thành bại.” Người giáo viên bằng cái tâm của một nhà giáo dục cộng với
phương pháp dạy học phù hợp, linh hoạt trong từng tình huống sẽ đem đến hiệu
quả cho bài học và kết quả là đạt Mục tiêu giáo dục đề ra.
Thêm nữa, bốn trụ cột của Giáo dục mà UNESCO đề xướng năm 1996: Học để
biết; Học để làm; Học để tồn tại; Học để cùng chung sống. Bốn trụ cột này của
UNESCO còn muốn nói rằng con người của thế kỉ 21 đòi hỏi phải có được sự liên kết
vững chắc giữa Giáo dục và Văn hóa; Quyền công dân; Gắn kết xã hội; Lao động và
Việc làm; Phát triển; và Nghiên cứu khoa học. Nhưng để làm tốt một trong những mối
liên hệ này cũng đã đòi hỏi nỗ lực vô cùng lớn của nhiều người rồi. Thế nhưng vấn đề
là với đa số giáo viên phổ thông nói chung và giáo viên tiểu học nói riêng,
2


việc hiểu biết rõ ràng các mục tiêu giáo dục kể trên còn nhiều băn khoăn và việc áp lực
thi cử, áp lực thành tích vẫn làm giáo viên phải “bóp méo” hoạt động giảng dạy và

nhất là việc phải thống nhất theo một chương trình sách giáo khoa chung đã khiến cho
việc thực hiện mục tiêu giáo dục của chúng ta bị chuyển hướng như thế nào.

Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh đến vai trò của phương pháp dạy học trong việc
thực hiện Mục tiêu giáo dục. Như chúng ta đã biết, cụm từ “dạy học tích cực” cũng
như “dạy học theo định hướng phát triển năng lực, phẩm chất người học” đã không
còn xa lạ với mỗi chúng ta. Chúng ta đã và đang dần thay đổi từng ngày về phương
pháp cũng như kĩ thuật dạy học. Tuy nhiên, “cuộc chiến” về phương pháp dạy học
sẽ là không ngừng nghỉ để làm sao tất cả hàng triệu giáo viên trên đất nước Việt
Nam sẽ thấm nhuần tư tưởng sáng tạo trên từng bài giảng của mình.
Tiểu học là bậc học nền móng của hệ thống giáo dục quốc dân, có vài trò nền
tảng hình thành nhân cách và phong cách người học. Trong các môn học ở Tiểu
học, với khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm này tôi chỉ xin chia sẻ những nghiên
cứu, thực nghiệm của tôi về phương pháp giảng dạy trong môn Khoa học lớp 5.
Môn Khoa học ở Tiểu học là môn học đóng vai trò quan trọng trong việc giúp học
sinh học tập môn Khoa học tự nhiên ở cấp trung học sơ sở và các môn Vật lý, Hoá
học, Sinh học ở cấp trung học phổ thông. Môn học này chú trọng tới việc khơi dậy
trí tò mò khoa học, bước đầu tạo cho học sinh cơ hội tìm hiểu, khám phá thế giới tự
nhiên; vận dụng kiến thức vào thực tiễn, học cách giữ gìn sức khoẻ và ứng xử phù
hợp với môi trường sống xung quanh. Đồng thời đây cũng là môn học mở ra nhiều
cơ hội học tập theo kiểu tìm tòi khám phá, học tập từ trải nghiệm thực tế, thực hành
làm việc. Vì vậy, có thể nói đây được xem là môn học tiềm năng trong việc hình
thành các năng lực, phẩm chất của con người hiện đại. Đặc biệt với các em học sinh
lớp 5, lớp cuối cấp thì việc này càng có ý nghĩa lớn hơn.
Như đã nói, đặc thù môn Khoa học là khơi gợi khả năng tìm tòi, khám phá, trải
nghiệm thực tế nên phương pháp dạy học theo dự án được coi là một phương pháp có
nhiều lợi thế. Bởi dạy học dự án là một hình thức dạy học hay phương pháp dạy học
phức hợp, trong đó dưới sự hướng dẫn của giáo viên, người học tiếp thu kiến thức và
hình thành kỹ năng thông qua việc giải quyết một bài tập tình huống (dự án) có thật
trong đời sống, theo sát chương trình học, có sự kết hợp giữa lý thuyết với thực hành

và tạo ra các sản phẩm cụ thể. Đã có một số công trình nghiên cứu về việc vận dụng
phương pháp này trong các môn học ở Tiểu học. Tuy nhiên trong môn Khoa học lớp 5
thì mới có một số ít công trình nghiên cứu và chưa thấu đáo để phương pháp này trở
nên hiệu quả hơn cũng như hạn chế được những nhược điểm của nó. Vậy việc áp dụng
phương pháp dạy học theo dự án môn Khoa học 5 cần được tiến hành như thế nào?
Làm sao vận dụng cho hiệu quả? Việc vận dụng linh hoạt với từng vùng miền cần
được chú trọng như thế nào? Làm sao để vừa đạt hiệu quả giáo dục môn học vừa phát
triển năng lực, phẩm chất học sinh trong điều kiện còn khó khăn? Đó là những trăn trở
của tôi trong năm học này. Sau thời gian tìm hiểu và áp dụng tôi đã rút ra được những
kinh nghiệm để áp dụng phương pháp này hiệu quả hơn ở Tiểu học, cụ thể trong môn
Khoa học lớp 5. Đó là lí do tôi chọn sáng kiến: Một số giải pháp nhằm áp dụng
phương pháp dạy học theo dự án môn Khoa học lớp 5 một cách hiệu quả. Xin được
trân trọng gửi tới quý đồng nghiệp!
3


2. Tên sáng kiến: Một số giải pháp nhằm áp dụng phương pháp dạy học
theo dự án môn Khoa học lớp 5 một cách hiệu quả.
3. Tác giả sáng kiến
- Họ và tên: Trần Thị Loan
- Địa chỉ tác giả sáng kiến:Trường TH Đồng Tĩnh B – Tam Dương – Vĩnh Phúc
- Số điện thoại: 0976733413; E- mail:

4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
Trần Thị Loan – Trường Tiểu học Đồng Tĩnh B – Tam Dương – Vĩnh
Phúc 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Lĩnh vực áp dụng sáng kiến của tôi là một số giải pháp để ứng dụng các kĩ
thuật dạy học và PPDH phù hợp khi hướng dẫn học sinh thực hiện các dự án
môn Khoa học lớp 5. Sáng kiến của tôi giúp các giáo viên tiểu học có thể từng
bước áp dụng vào việc dạy học theo dự án môn Khoa học lớp 5 và đồng thời có

thể áp dụng cho các môn học khác ở tiểu học. Qua đó đáp ứng mục tiêu dạy học
phát triển năng lực cho học sinh hiện nay.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Tháng 8/2019
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1. Về nội dung của sáng kiến
Tôi xin trình bày những luận điểm cơ bản về cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
của việc thực hiện phương pháp dạy học theo dự án trong môn Khoa học lớp 5.
Các bước thực hiện phương pháp này trong dạy học môn Khoa học lớp 5.
Nghiên cứu thực trạng dạy và học Khoa học lớp 5 và những khó khăn khi thực
hiện chương trình Khoa học lớp 5. Từ đó đề xuất những giải pháp để việc áp
dụng phương pháp này thực sự có hiệu quả cũng như các điều kiện cần thiết để
áp dụng giải pháp này.
7.1.1. Cơ sở lí luận
7.1.1.1. Đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học và quan điểm lấy
người học làm trung tâm
Trong phần mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu quan trọng và nhiệm vụ trọng
tâm giai đoạn 2016-2020, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã xác định một
trong những nhiệm vụ trọng tâm "đột phá chiến lược" đó là: “Đổi mới căn bản
và toàn diện giáo dục, đào tạo (GDĐT); phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao”.
Việc xác định đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT và phát triển nguồn nhân
lực được quán triệt là một yêu cầu cấp thiết trong Nghị quyết 29-NQ/TW khóa
4


XI. Với sự đóng góp tích cực của các nhà khoa học, nhà giáo và các tầng lớp
nhân dân cho việc hoàn thiện Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể thời
gian qua đã cho thấy quyết tâm không chỉ của ngành giáo dục, mà còn của toàn
Đảng, toàn dân chung tay xây dựng và đổi mới nền giáo dục theo hướng tiếp cận
năng lực, phù hợp với xu thế phát triển chương trình giáo dục của thế giới và bắt

kịp nền giáo dục của các nước tiên tiến.
Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học có thể kể đến là:
- Cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống;
- Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học;
- Vận dụng dạy học giải quyết vấn đề;
- Vận dụng dạy học theo truyền thống;
- Vận dụng dạy học theo định hướng hành động;
- Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin h ợp lí
hỗ trợ dạy học;
-

Sử dụng các kĩ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh;

- Chú trọng các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn;
- Bồi dưỡng phương pháp học tập tích cực cho học sinh.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được khẳng định rõ trong các
văn bản, Nghị quyết và các Luật của nhà nước. Việc đổi mới phương pháp dạy
học ở tiểu học nhằm hướng tới việc học tập chủ động và loại bỏ dần thói quen
học tập thụ động. Đây được gọi là dạy học theo quan điểm lấy người học làm
trung tâm. Dạy học lấy học sinh làm trung tâm không chỉ là phương pháp giáo
dục mà còn là một triết lí giáo dục hay định hướng để đạt giáo dục hiệu quả. Dạy
học lấy học sinh làm trung tâm nhấn mạnh các vấn đề: Hứng thú học tập của học
sinh: động cơ thúc đẩy việc học tập, háo hức tiếp thu tri thức mới; Vốn kinh
nghiệm trong cuộc sống hằng ngày của học sinh: tạo cơ hội để các em chủ động
lĩnh hội tri thức mới; Sự toàn diện trong nhận thức của các em, nghĩa là học sinh
có được cái nhìn toàn diện về mọi khía cạnh của một vấn đề.
Dạy học lấy học sinh làm trung tâm có những khác biệt cơ bản so với dạy
học truyền thống. Nó nhấn mạnh vai trò chủ động, tích cực của người học, chú ý
đến hứng thú và vốn kinh nghiệm của học sinh cũng như phát triển các năng lực,
phẩm chất, chú ý đến việc học sinh học như thế nào hơn là việc giáo viên dạy

như thế nào. Do đó, người giáo viên cần tích cực đổi mới và vận dụng các
phương pháp dạy học tích cực để đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả dạy học.
7.1.1.2. Phương pháp dạy học tích cực
Theo bài viết trên Tạp chí Giáo dục số 348 ra kì 2 tháng 12 năm 2014 của
Tiến sĩ Lê Thanh Oai thì phương pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn,
được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Phương pháp dạy học tích
cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học,
tức là tập kết vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập kết
vào phát huy tính tích cực của người dạy. Phương pháp dạy học tích cực luôn
hướng tới mục đích phát triển năng lực giải quyết vấn đề, đặc biết là năng lực sáng
tạo của người học. Phương pháp này đề cao vai trò của người học bằng hoạt động
cụ thể thông qua sự động não để tự chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức.
5


Đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực là:
- Dạy học lấy học sinh làm trung tâm
- Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, tự nghiên cứu;
- Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh;
- Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập cộng tác;
- Kết hợp đánh giá của giáo viên với tự đánh giá của học sinh.
Có thể so sánh phương pháp dạy học truyền thống với phương pháp dạy học tích
cực như sau:
Phương pháp dạy học truyền
Phương pháp dạy học tích cực
thống
Cung cấp sự kiện, học thuộc
Cung cấp kiến thức cơ bản, có chọn lọc
Giáo viên là nguồn kiến thức duy

Ngoài kiến thức học ở lớp, còn có nhiều
nhất.
nguồn kiến thức khác nhau.
Giáo viên ở vị trí trung tâm
Học sinh ở vị trí trung tâm
Học sinh làm việc độc lập, cá nhân Học sinh tự học, kết hợp thảo luận nhóm
và có sự hỗ trợ của giáo viên
Dạy thành từng bài riêng biệt
Hệ thống bài học, có thể dạy học theo chủ
đề hoặc liên môn, tích hợp
Coi trọng trí nhớ (Mức độ tư duy ở Coi trọng độ sâu của kiến thức, không chỉ
mức nhớ, hiểu, vận dụng thấp)
nhớ mà suy nghĩ, đặt ra những vấn đề mới.
(Tư duy bậc cao)
Ghi chép tóm tắt
Làm sơ đồ, mô hình, làm bộc lộ cấu trúc bài
giảng giúp học sinh dễ nhớ, dễ vận dụng.
Chỉ dừng lại ở câu hỏi, bài tập
Thực hành, nêu ý kiến riêng
Ít gắn lí thuyết với thực hành
Lý thuyết kết hợp với thực hành, vận dụng
kiến thức vào cuộc sống
Dùng thời gian học tập để nắm kiến Cổ vũ cho học sinh tìm tòi, bổ sung kiến
thức do giáo viên truyền thụ
thức từ việc nghiên cứu lí luận và từ những
bài học, kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn.
Hay nói cách khác giáo viên là người
truyền lửa cho học sinh hoạt động.
Phương pháp dạy học tích cực bao gồm các phương pháp sau: Vấn đáp,
Phát hiện và giải quyết vấn đề, Làm việc theo nhóm, Bàn tay nặn bột, Thực

nghiệm, Đóng vai, Làm dự án, …
Phương pháp dạy học theo dự án là một trong những phương pháp dạy
học tích cực đáp ứng được các yêu cầu thực tiễn dạy và học hiện nay.
7.1.1.3. Phương pháp dạy học theo dự án
a) Khái niệm dự án và vấn đề
Dự án (Project) là tổng hợp của những vấn đề, đòi hỏi phải có sự nỗ lực, bền
bỉ từ việc phân tích mục tiêu (phân tích vấn đề), quy hoạch ý tưởng và quản lí các
hành động, các thay đổi. Một dự án được tiến hành trong một khoảng thời gian có
hạn với những nguồn lực nhất định (tài chính, nhân lực, trang thiết bị, sự hiểu biết,
…) để đạt được mục tiêu cụ thể nhằm đáp ứng vấn đề, giải quyết các nhu cầu mà
các đối tượng thụ hưởng kì vọng. Học tập qua dự án kì vọng vào tính thực tiễn
6


mà học sinh theo đuổi, bao gồm sự gắn kết của dự án với môi trường xung
quanh (trường học, khu phố, làng xóm, các tổ chức xã hội…) qua đó trau dồi
kiến thức và rèn luyện thái độ với cuộc sống.
Các dự án phải liên quan đến một hay một nhóm vấn đề cụ thể, vượt qua
khỏi các giải pháp mà học sinh đã biết từ trước, qua đó đòi hỏi các em phải nỗ
lực để hoàn thành trong một khoảng thời gian nhất định.
Một dự án hoàn thành là dự án giải quyết được toàn bộ hoặc phần lớn nhu
cầu cụ thể mà học sinh đã đề ra.
Vấn đề (Problem) thường xuất phát từ một câu hỏi, một sự nghi ngờ. Vấn
đề có thể mang tính lí thuyết (về các công thức, định lí, …) hay tính thực tiễn;
thuộc mảng xã hội hay kĩ thuật; có thể mô tả ngắn gọn hoặc hết sức trừu tượng.
Hoài nghi và đặt vấn đề chính là điểm mấu chốt, khởi đầu cho sự học tập không
ngừng nghỉ của học sinh. “Học cùng dự án” coi các vấn đề là mắt xích để kết nối
các mảng kiến thức liên ngành với nhau, đồng thời trong cả quá trình phân tích,
triển khai và đánh giá dự án.
Một dự án có thể bao gồm nhiều vấn đề và một vấn đề có thể triển khai

thành nhiều dự án. Trong khi một dự án có thời gian bắt đầu và kết thúc rõ ràng,
thì một vấn đề có thể tiên đoán trước, được khái quát sau khi đã xảy ra, nhưng
khó có thể nói là hoàn toàn chấm dứt.
Thấu hiểu vấn đề

Khám phá kiến thức

Thấu hiểu vấn đề
Nhu cầu giải quyết
Xác định mục tiêu

Tập hợp thông tin
Chia sẻ thông tin
Kiến tạo giải pháp

Giải quyết vấn đề

Xác định giải pháp tối ưu
Trình bày giải pháp
Tiếp tục mổ xẻ vấn đề

Bảng 1: Mô hình tiếp cận các vấn đề trong dự án học tập
b) Dạy học theo dự án
Dạy học theo dự án là một phương pháp dạy học phức hợp, trong đó dưới
sự hướng dẫn của giáo viên, người học tiếp thu kiến thức và hình thành kĩ năng
thông qua việc giải quyết một bài tập tình huống (dự án) có thật trong đời sống,
theo sát chương trình học, có sự kết hợp giữa lí thuyết với thực hành và tạo ra
các sản phẩm cụ thể.
Hình thức làm việc chủ yếu trong dạy học theo dự án là làm việc nhóm.
Các loại dự án học tập

- Theo nội dung: Dự án trong môn học; Dự án liên môn; Dự án ngoài môn học.
- Theo thời gian: Dự án nhỏ (2-6 giờ); Dự án trung bình (ngày dự án); Dự
án lớn (tuần dự án).
- Theo hình thức tham gia: Dự án cá nhân; Dự án nhóm; Dự án toàn
trường. Đặc điểm của dạy học dự án: Dạy học dự án có các đặc điểm chính
sau: Thứ nhất, định hướng học sinh:
- Người học là trung tâm của dạy học theo dự án.
7


- Dạy học theo dự án chú ý đến nhu cầu, hứng thú của người học, người
học được trực tiếp tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng
và hứng thú của cá nhân.
- Người học tham gia tích cực và tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy
học, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch đến việc thực hiện dự án, kiểm tra,
điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện. Giáo viên đóng vai trò tư
vấn, hướng dẫn, giúp đỡ, khuyến khích tính tích cực, tự lực, tính trách nhệm, sự
sáng tạo của người học.
Thứ hai, định hướng thực tiễn
- Chủ đề của dự án luôn gắn liền với những tình huống của thực tiễn xã hội,
với những nghề nghiệp cụ thể, đời sống có thực… Người học thường đóng một
vai gì đó khi thực hiện dự án.
- Các dự án học tập luôn gắn liền nhà trường với thực tiễn đời sống xã hội,
với địa phương, với môi trường và có thể mang lại những tác động tích cực đối
với xã hội.
- Các dự án thường giải quyết, khắc phục một hiện trạng đang tồn tại xung
quanh học sinh hay ở cộng đồng nơi các em sinh sống. Đặc điểm này của dự án
học tập đảm bảo cho nguyên tắc học tập thông qua làm việc, thực hành, trải
nghiệm. Chúng ta hay bắt gặp những hiện tượng như sau trong giáo dục đó là
người học học những thứ mà họ không hề nhìn thấy trong thực tiễn và các em

không biết học để làm gì. Do đó học sinh thiếu đi động cơ và ý chí học tập, các
em học tập qua loa, hời hợt và học như vậy thì nhanh quên và nhanh chán.
Ví dụ: Dự án về tìm hiểu các nhạc cụ dân tộc; Dự án tìm hiểu các đồ dùng
bằng nhựa; Dự án tìm hiểu về sử dụng năng lượng điện, …
Thứ ba, định hướng hành động
- Trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp nghiên cứu lí thuyết và vận
dụng lí thuyết vào trong thực tiễn. Thông qua đó, kiểm tra, củng cố và mở rộng
hiểu biết lí thuyết cũng như rèn luyện kĩ năng hành động, kinh nghiệm thực tiễn
của người học.
- Theo cách dạy truyền thống thì mỗi bài học được thiết kế trong một hoặc vài
tiết học. Tuy nhiên trong dự án học tập hướng học sinh vào giải quyết một nhiệm
vụ mang tính liên môn, đa ngành, không có ranh giới giữa các lĩnh vực khoa học
mà chỉ tồn tại vấn đề cần giải quyết. Do đó để giải quyết vấn đề ấy đòi hỏi người
học phải có hiểu biết về một số lĩnh vực khoa học. Khi người học chưa đủ kiến thức
nền tảng để giải quyết vấn đề thì họ phải tự học, tự nghiên cứu hoặc tìm sự giúp đỡ
từ các chuyên gia. Đây cũng chính là chìa khóa cho sự thành công của mô hình dạy
học này. Việc sử dụng tư duy tích hợp, kiến thức và kĩ năng tích hợp để giải quyết
các vấn đề tích hợp đem lại nhiều cơ hội phát triển bền vững cho người học.
- Các hoạt động học tập trong quá trình thực hiện dự án cũng vô cùng
phong phú và đa dạng: Điều tra, thực địa, phỏng vấn, ghi chép, đóng vai, thực
nghiệm, thí nghiệm, làm báo cáo, thuyết trình, tranh biện , …
Thứ tư, định hướng sản phẩm
- Kết quả của một dự án phải là một sản phẩm đầu ra. Sản phẩm này có thể là
vật chất hoặc phi vật chất, một bản thiết kế; sơ đồ tư duy, một bản kế hoạch, …
8


- Các sản phẩm này mang lại lợi ích nhất định cho xã hội và cuộc sống
xung quanh các em.
- Sản phẩm là kết quả của cả một quá trình làm việc nhóm và sự nỗ lực của

từng cá nhân. Nên sau khi dự án hoàn thành năng lực làm việc cá nhân và làm
việc nhóm được hình thành và phát triển.
Thứ năm, tính phức hợp: Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh
vực hoặc môn học khác nhau nhằm giải quyết một vấn đề mang tính phức hợp.
Thứ sáu, tính tự lực cao của người học: Khi tham gia vào dự án đòi hỏi người
học cần tham gia tích cực và tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học.
Quy trình dạy học theo dự án
(1) Quyết định chủ đề và xác định mục đích của dự án
(2) Xây dựng kế hoạch thực hiện dự án
(3) Thực hiện dự án
(4) Thu thập kết quả và công bố sản phẩm
(5) Đánh giá dự án
Các yêu cầu bắt buộc phải đạt được với một dự án:
(1) Dự án phải gắn với nội dung dạy học của chương trình.
(2) Dự án phải gắn với thực tiễn đời sống.
(3) Thiết kế được các hoạt động (việc làm) cụ thể cho người học.
(4) Qua hoạt động của dự án người học tiếp thu được kiến thức của môn học
(5) Có tính khả thi (phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của người học)
(6) Có các sản phẩm cụ thể.
7.1.2. Cơ sở thực tiễn
7.1.2.1. Mục tiêu dạy học môn Khoa học lớp 5 hiện nay
* Về kiến thức: Học sinh có một số kiến thức cơ bản, ban đầu, thiết thực về: Sự trao đổi chất, nhu cầu dinh dưỡng và sự lớn lên của cơ thể người, cách
phòng tránh một số bệnh thông thường và bệnh truyền nhiễm.
- Sự trao đổi chất, sự sinh sản của động, thực vật.
- Đặc điểm và ứng dụng của một số chất, một số vật liệu và năng lượng
thường gặp trong đời sống và sản xuất.
* Về kĩ năng: Bước đầu hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng:
- Ứng xử thích hợp trong các tình huống có liên quan đến vấn đề sức khỏe
của bản thân, gia đình, cộng đồng.
- Quan sát và làm một số thí nghiệm khoa học đơn giản gần gũi với đời

sống, sản xuất.
- Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập; biết tìm thông tin giải
đáp; biết diễn đạt những hiểu biết bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ,…
- Phân tích so sánh, rút ra những dấu hiệu chung và riêng của một số sự
vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên.
* Về thái độ: Hình thành và phát triển ở HS thái độ:
- Tự giác thực hiện các quy tắc vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đình và cộng đồng.
- Ham hiểu biết khoa học, có ý thức vận dụng kiến thức đã học vào đời sống.
- Yêu thiên nhiên, đất nước, yêu cái đẹp; có ý thức và bảo vệ môi trường xung quanh.
9


Như vậy, môn Khoa học lớp 5 ngoài việc trang bị những tri thức khoa học
đơn giản cho học sinh còn giúp học sinh hình thành và phát triển những kĩ năng,
hành vi và thái độ phù hợp, đồng thời phát triển khả năng tư duy khoa học và
giáo dục nhân cách học sinh.
Nội dung môn Khoa học 5 được xây dựng thành 3 chủ đề lớn: Con người
và sức khỏe; Vật chất và năng lượng; Thực vật và động vật. Sự phân bố các
mạch nội dung như sau:
Chủ đề
Con
Vật chất Thực vật Môi
Bài học Ôn tập,
người và và năng và động trường và mới
kiểm tra
sức khỏe lượng
vật
tài nguyên
thiên nhiên
Số tiết

21
25
11
9
61
9
7.1.2.2. Đặc trưng của môn Khoa học lớp 5
- Tính tích hợp: Chương trình môn Khoa học lớp 5 được tổ chức trên cơ sở
tích hợp nhiều lĩnh vực từ khoa học vật lý, hoá học, sinh học, dân số và môi trường.
Nội dung học tập Khoa học lớp 5 gần gũi, phù hợp với sự hiểu biết và kinh nghiệm
của học sinh giai đoạn cuối tiểu học. Môn học được cấu trúc thành các chủ đề “Con
người và sức khoẻ”, “Vật chất và năng lượng”, “Thực vật và động vật”, “Môi
trường và tài nguyên thiên nhiên”. Như vậy, nội dung môn Khoa học lớp 5 thuận
tiện trong việc xây dựng các dự án học tập tích hợp nhiều lĩnh vực khoa học.
- Tính logic chặt chẽ và gắn với đời sống thực tiễn: Tuy nội dung học tập
tích hợp nhưng các chủ đề học tập lại mạch lạc và có logic chặt chẽ. Các chủ đề
này không mang tính hàn lâm kinh viện mà gắn với những hiện tượng, quá trình
và các sự kiện gần gũi trong hiện thực đời sống. Các sự kiện và nguyên lí khoa
học khác nhau liên kết với nhau trên cơ sở những chủ đề tích hợp, tạo thuận lợi
cho học sinh học tập thông qua dự án, giúp giáo viên thiết kế dự án học tập được
thuận lợi. Do tính tích hợp của các chủ đề Khoa học nên học sinh có nhiều cơ
hội tìm tòi và phát hiện vấn đề, thảo luận và chia sẻ, trải nghiệm và hợp tác, đây
chính là các phương thức học chủ yếu thông qua dự án.
7.1.2.3. Vai trò của dạy học theo dự án trong dạy học Khoa học lớp 5
Như trên đã chỉ ra thì chương trình môn Khoa học lớp 5 được xây dựng
theo quan điểm dạy học tích cực, mang tính đa ngành, tính thực tiễn cao. Nội
dung kiến thức xây dựng cho các em đều nằm xung quanh các em, gần gũi và
thiết thực với học sinh. Những điều này các em có thể áp dụng vào cuộc sống
của các em. Và do đó, học sinh có thể học bằng cách phát hiện và giải quyết
những tình huống nảy sinh trong thực tế dựa trên những kiến thức khoa học. Quá

trình này cho phép lớp học của các em trở thành môi trường học tập tốt mà các
em là trung tâm của quá trình học tập.
Phương pháp dạy học theo dự án dễ dàng tạo ra kinh nghiệm học tập và thu
hút học sinh vào những dự án phức tạp của thế giới thực. Kiến thức trong sách vở
của các em sẽ bước ra ngoài cuộc sống thực của các em. Lại nói thêm đặc điểm tâm
sinh lí của học sinh tiểu học là vô cùng tò mò, hiếu kì, ham thích khám phá thiên
nhiên, khám phá cuộc sống. Các em có thể mê mẩn cả ngày trên đồng cỏ để tìm
hiểu và khám phá các loài côn trùng, hoặc mày mò với những thí nghiệm thực tế,
nhưng có thể ngáp ngủ khi đọc vài trang sách khô khan hoặc với phương pháp
10


thuyết trình, giảng giải. Hiện nay giáo viên đã đổi mới và trực quan bài giảng của
mình bằng các hình ảnh minh họa và video nhưng đó vẫn chưa đủ với học sinh
được. Có câu “Trăm hay không bằng tay quen, trăm thấy không bằng một sờ”.
Dạy học theo dự án trong môn Khoa học khắc phục được những nhược điểm
của dạy học truyền thống đó là dạy học bình quân (yêu cầu như nhau với tất cả học
sinh), khắc phục được tính thụ động của học sinh, khơi dậy được tính tò mò, sự
hứng thú trong học tập vì dạy học theo dự án được tình huống hóa, hoàn cảnh hóa,
gắn lí thuyết với thực hành, tư duy với hành động, nhà trường và thực tế xã hội.
Dạy học theo dự án trong môn Khoa học còn rèn cho học sinh năng lực hợp tác,
phối hợp hành động, đồng thời phát huy được thế mạnh của từng cá nhân, học sinh
cũng sẽ tự tin hơn, thỏa mãn được các phong cách nhận thức và các loại hình trí thông
minh của học sinh. Học sinh được rèn sự bền bỉ, kiên nhẫn để đạt mục tiêu dự án.
Ngoài ra, học sinh còn phát triển khả năng tự đánh giá, rèn khả năng tự học,
tự nghiên cứu. Trong quá trình thực hiện dự án, học sinh còn được phát triển khả
năng giao tiếp, tư duy sáng tạo, tác phong nghiên cứu khoa học.
Như vậy, ta có thể khẳng định phương pháp học tập qua dự án đáp ứng được
đầy đủ yêu cầu chuẩn kiến thức, kĩ năng của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định
nhưng còn giúp phát triển những kĩ năng cần thiết của con người lao động thế kỉ

21. Đó là hành trang để các em học tập tốt không chỉ môn Khoa học và các môn
học khác. Ta có thể nói rằng việc dạy học môn Khoa học bằng phương pháp học tập
theo dự án là một việc làm hoàn toàn phù hợp và góp phần nâng cao chất lượng
giảng dạy ở Tiểu học. Trong bối cảnh chuẩn bị thực hiện chương trình giáo dục phổ
thông 2018 thì phương pháp này vẫn thể hiện rõ nhiều ưu thế của mình.
7.1.2.4. Đánh giá tính hiệu quả của dạy học môn Khoa học lớp 5 hiện nay
Để có được thông tin từ phía giáo viên, đánh giá về tính hiệu quả của việc
dạy học môn Khoa học ở lớp 5 hiện nay chúng tôi đã sử dụng câu hỏi số 4 trong
phiếu khảo sát ý kiến chuyên gia (xem Phụ lục 1). Kết quả khảo sát cho thấy
phần lớn giáo viên đánh giá rằng kết quả dạy học môn khoa học hiện nay là bình
thường (khoảng 59%). Thậm chí, có tới 15% giáo viên được hỏi đánh giá là
chưa hiệu quả. Qua trao đổi trực tiếp với giáo viên và xin ý kiến một số nhà
quản lí về giáo dục tiểu học, chúng tôi có thêm thông tin về thực tế này. Nhiều
trường tiểu học coi môn Tiếng Việt, môn Toán là môn học
chính và dành phần lớn thời
Đánh giá tính hiệu quả của dạy học
gian để dạy học hai môn học
Khoa học lớp 5 hiện nay
đó, còn các môn học khác chỉ
giới thiệu qua loa, thậm chí
một bài 2 tiết thì dồn dạy trong
1 tiết. Nhiều trường cử giáo
viên phụ (là những giáo viên
Chưa hiệu quả 15%
Bình thường 59%
hợp đồng, giáo viên kiêm
nhiệm…) để dạy những môn
này, chính vì lẽ đó mà kết quả

Hiệu quả 19%


Rất hiệu quả 7%

dạy học môn Khoa học ở lớp 5
chưa thực sự khả quan.
11


7.1.2.5. Việc áp dụng phương pháp dạy học theo dự án và những khó khăn
khi thực hiện vào việc dạy học môn Khoa học lớp 5 ở huyện Tam Dương
Nội dung trong sách giáo khoa Khoa học 5 như sau: Bài học không được đưa ra
một cách trực tiếp, chi tiết mà cung cấp cho học sinh dưới hình thức tổ
chức cho học sinh trả lời câu hỏi, quan sát tranh hoặc hoặt động thực hành, thí
nghiệm để phát hiện ra kiến thức mới. Nội dung tóm tắt của bài được trình bày
qua thông tin “Bạn cần biết”.
Qua khảo sát và thống kê trực tiếp quá trình dạy học Khoa học của 48 giáo
viên dạy lớp 5 ở huyện Tam Dương năm học 2018-2019, tôi thấy tiến trình bài
học môn Khoa học được thực hiện theo nhiều cách khác nhau, cụ thể như sau:
Bảng 2. Sử dụng các phương pháp dạy học trong môn Khoa học 5
Stt

1.
2.
3.
4.

Phương pháp

Thường
Tương đối

Thỉnh
Hiếm khi
xuyên
thường xuyên
hoảng
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
31
64.58
11
22.92
4
8.33
2
4.17
8
16.67
18
37.50
15 31.25
7
14.58
40
83.33

6
12.50
2
4.17
0
0
8
16.67
20
41.67
15 31.25
5
10.41

Vấn đáp
Thuyết trình
Quan sát
Thực hành - thí
nghiệm
5. Dạy học qua trò
9
18.75
24
50.00
12 25.00
3
6.25
chơi
6. Kể chuyện
2

4.17
5
10.41
14 29.17
27
56.25
7. Thảo luận nhóm
35
72.92
9
18.75
3
6.25
1
2.08
8. Dạy học theo dự
2
4.17
7
14.58
15 31.25
24
50.00
án
9. Dạy học dựa vào
2
4.17
8
16.67
9

18.75
29
60.41
vấn đề
10. Bàn tay nặn bột
4
8.33
15
31.25
20 41.67
9
18.75
Ta thấy các phương pháp được GV sử dụng ở mức độ rất thường xuyên có tỉ
lệ cao là phương pháp quan sát (83,33%), phương pháp thảo luận nhóm (72,92%)
và phương pháp vấn đáp (64,58%). Điều này cho thấy, hiện nay về cơ bản giáo viên
vẫn sử dụng các phương pháp truyền thống trong dạy học Khoa học ở tiểu học,
chúng ít có chức năng phát huy hết tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Đặc biệt là chưa hướng tới việc hình thành và phát triển các năng lực quan trọng
cho học sinh trong quá trình dạy học, như năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề,
năng lực hợp tác, năng lực tự học, tìm tòi nghiên cứu khoa học …

Phương pháp thực hành, thí nghiệm là phương pháp đặc trưng của môn
Khoa học nhưng tỉ lệ sử dụng “rất thường xuyên” là 16,67% và “tương đối
thường xuyên” là 41,67%, điều này phù hợp với thực tế, vì số lượng bài có nội
dung phải thực hành thí nghiệm không nhiều. Phương pháp Bàn tay nặn bột là
phương pháp có nhiều ưu điểm và phù hợp với hoạt động khám phá khoa học,
tuy nhiên mức sử dụng “rất thường xuyên” là 8,33% và “tương đối thường
xuyên” là 31,25%, điều này cũng đúng với thực tế vì phương pháp Bàn tay nặn
bột được triển khai thí điểm từ năm học 2012-2013 và được nhân rộng từ năm
học 2013-2014, mặt khác không phải bài nào cũng dạy được theo phương pháp

bàn tay nặn bột, chỉ có một số ít bài là phù hợp với phương pháp này.
12


Phương pháp dạy học theo dự án chưa được giáo viên vận dụng nhiều trong
dạy học Khoa học. Tỉ lệ giáo viên vận dụng thường xuyên đối với phương pháp
dạy học theo dự án là hơn 4%, tương đối thường xuyên là gần 15%, điều này
cho thấy quá trình đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học nói chung và trong
dạy học môn Khoa học nói riêng chưa được thực hiện tốt trong thực tiễn hoặc
giáo viên còn nhiều khó khăn khi thực hiện. Chính vì thế, sáng kiến này tập
trung đưa ra các giải pháp đẩy mạnh việc áp dụng các phương pháp dạy học hiện
đại cụ thể là dạy học theo dự án vào quá trình dạy học các môn học ở tiểu học
nhằm tích cực hóa người học, không chỉ nâng cao hiệu quả dạy học môn học mà
còn hướng vào việc hình thành và phát triển năng lực cho học sinh. Đồng thời
giúp giáo viên tháo gỡ những khó khăn khi thực hiện.
Qua trao đổi với giáo viên và các nhà quản lí giáo dục tại cơ sở, tôi xin tóm
tắt những khó khăn chung được đưa ra khi thực hiện phương pháp dạy học theo
dự án trong môn Khoa học lớp 5 như sau:
TT
1
2
3
4
5
6

Bảng 3: Khó khăn khi dạy học Khoa học qua dự án học tập
Khó khăn
Thời gian để thực hiện dự án thường dài hơn tiết học nên khó
thực hiện.

Không có đủ kinh phí để triển khai dự án.
Giáo viên chưa có kinh nghiệm thiết kế và tổ chức cho học
sinh học tập theo dự án .
Giáo viên không có đủ điều kiện về thời gian và tâm huyết để
dạy học qua dự án.
Học sinh chưa có kĩ năng để học tập qua dự án .
Các yếu tố khác:

SL
18

%
37.50

14

29.16

22

45.83

11

22.91

13
1

27.08

2.08

Từ bảng trên cho thấy giáo viên gặp phải khá nhiều khó khăn khi triển khai
dạy học Khoa học ở tiểu học qua dự án học tập. Cụ thể, khó khăn về kinh
nghiệm thiết kế và tổ chức dự án học tập chiếm tỉ lệ trên 45%, khó khăn về mặt
thời gian tổ chức, thực hiện các dự án chiếm tỉ lệ trên 37%, học sinh chưa có kĩ
năng học tập thông qua dự án chiếm tỉ lệ trên 27%, điều kiện về kinh tế chiếm tỉ
lệ không nhỏ là hơn 29%. Kết quả điều tra này góp phần định hướng cho việc đề
xuất các giải pháp, nhất là các biện pháp có tính kĩ thuật để dạy học Khoa học ở
tiểu học qua dự án học tập đạt hiệu quả.
7.1.3. Các giải pháp giúp áp dụng phương pháp dạy học theo dự án
trong dạy học môn Khoa học 5 một cách hiệu quả
Như tôi đã phân tích ở trên từ những ưu điểm rõ rệt của phương pháp dạy
học theo dự án trong dạy học Khoa học 5 đến những bất cập, khó khăn khi áp
dụng phương pháp này mà chưa mang lại hiệu quả như mong đợi. Tôi xin đưa ra
các giải pháp khắc phục như sau:
Giải pháp 1: Thực hiện sinh hoạt chuyên môn trao đổi về phương pháp
dạy học theo dự án
13


Sinh hoạt chuyên môn là hoạt động thường kì của mỗi tổ khối trong mỗi
nhà trường. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận một thực tế là nhiều nhà trường
còn sinh hoạt chuyên môn mang tính hình thức nên gây lãng phí thời gian cũng
như không nâng cao được hiệu quả giảng dạy. Tôi đánh giá giải pháp này là đầu
tiên và then chốt để thực hiện thành công phương pháp dạy học theo dự án tôi
trình bày ở trên. Với vai trò khối trưởng chuyên môn nhiều năm, thực hiện chỉ
đạo của Ban Giám hiệu nhà trường, tôi đã tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên
môn thiết thực. Định kì 2 tuần một lần, sinh hoạt chuyên môn tổ, hàng tuần đều
có trao đổi chuyên môn từng khối, hàng tháng có báo cáo sinh hoạt chuyên môn

với Ban chuyên môn nhà trường. Ngoài những nội dung sinh hoạt chuyên môn
chung về mục tiêu, chương trình, phương pháp,... ở đây tôi xin phép được nói
đến những nội dung và cách thức mà chúng tôi trao đổi về thực hiện phương
pháp dạy học theo dự án môn Khoa học lớp 5.
Thứ nhất, về cách thức trao đổi chuyên môn:
- Dùng kĩ thuật NLP (lập trình ngôn ngữ tư duy) để giáo viên đồng lòng
thấu hiểu mục tiêu dạy Khoa học cho học sinh là gì? Tại sao chúng ta không chỉ
dạy học sinh kiến thức mà còn cần cả kĩ năng? Tại sao chúng ta phải thay đổi
phương pháp dạy học? Phương pháp nào phù hợp để dạy Khoa học? Giáo viên
phải hiểu rằng Khoa học không phải là môn học phụ, mà ngược lại đó là môn
học mà kĩ năng học sinh được phát triển rất tốt. Không phải ngẫu nhiên mà hiện
nay môn Khoa học được đưa vào thi ở nhiều cuộc thi danh giá và uy tín trên thế
giới. Số lượng từ khóa và các kênh video về Khoa học (Science) trên mạng
internet lại rất nhiều. Từ đó, giáo viên thấu hiểu được tầm quan trọng của dạy
môn Khoa học và có động lực để dạy môn học này hơn.
- Giáo viên “đội mũ” học sinh để học tập chuyên môn: Trong các buổi sinh hoạt
chuyên môn về phương pháp dạy học qua dự án, chúng tôi đã dùng phương pháp thảo
luận nhóm, đóng vai, kĩ thuật động não để tìm tòi về phương pháp này. Có thể so sánh
như thế này: Để hiểu học sinh và có phương pháp dạy học phù hợp thì người giáo viên
cũng cần học tập như một học sinh thực thụ. Cần tránh xa lối sinh hoạt, trao đổi
chuyên môn bằng cách một vài người đọc tài liệu và mọi người cho ý kiến.

- Thực hiện triển khai dạy học dự án thực nghiệm, quan sát, phân tích, ghi
chép và rút kinh nghiệm cẩn thận sau mỗi dự án được tiến hành xong. Việc làm này
chúng tôi thực hiện xuyên suốt từ tháng 8 tức là thời gian chưa chính thức thực học
của học sinh. Thực hiện sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học, tập trung
vào hoạt động học của học sinh chứ không phải đánh giá giáo viên.
14



Thứ hai, về nội dung trao đổi về phương pháp dạy học theo dự án trong
các buổi sinh hoạt chuyên môn:
1/ Thế nào là dạy học theo dự án?
2/ Phân loại dự án học tập.
3/ Đặc điểm của phương pháp dạy học theo dự án này.
4/ Quy trình thiết kế dự án và thực hiện dự án môn Khoa học lớp 5.
5/ Thiết kế các nhiệm vụ trong dự án học tập môn Khoa học lớp 5
6/ Thiết kế đồ dùng, phương tiện, học liệu để học sinh thực hiện dự án
7/ Cách đánh giá một dự án học tập.
Nội dung 1, 2 và 3 tôi đã trình bày ở trên, mục Cơ sở lí luận. Ở đây, tôi xin
làm rõ hơn nội hàm của khái niệm dự án học tập. Học tập theo dự án không phải
là làm dự án. Trong khi đầu ra của các dự án thông thường là sản phẩm, thì đầu
ra của các dự án học tập là năng lực, kiến thức và thái độ cần được phát triển.
Học tập theo dự án và các dự án thực tế khác nhau ở mục tiêu. Trong khi người
làm dự án thật có mục tiêu hoàn thành dự án, bất kể do công việc, sở thích hay
yêu cầu thì các dự án học tập lại có chủ đích đạt được các giá trị giáo dục. Mục
tiêu của dự án học tập không phải là hoàn thiện sản phẩm cuối cho bằng được
hay thương mại hóa sản phẩm mà thông qua quá trình tìm hiểu vấn đề, phát triển
giải pháp, triển khai dự án để học sinh có thể hình thành được các kiến thức, kĩ
năng và quan trọng hơn cả là thái độ học tập, nghiên cứu chuyên nghiệp.
Có rất nhiều hình thức khác nhau để triển khai một dự án học tập. Một dự
án có thể diễn ra trên lớp, giải quyết một vấn đề trong một môn học, hoặc ở
phạm vi bên ngoài trường học, giải quyết một vấn đề thực tế đời sống. Cho dù
phạm vi nội dung, quy mô triển khai của các dự án có khác nhau nhưng vẫn
cùng chung một phương thức học tập: Học qua việc làm thực tế.
Chính bởi mục tiêu học qua làm, nên các khái niệm của trong môn học đã
tránh được gò bó trong các tiêu chuẩn hóa, tập trung vào sự hợp tác và giao tiếp
thay vì truyền đạt thông tin. Qua việc lấy bản thể dự án, thay vì các kiến thức,
khái niệm làm đối tượng học tập, học sinh được đặt vào vị trí trung tâm để phát
huy tính khám phá, đổi mới sáng tạo.

Nội dung 4; 5; 6 và 7 tôi xin phép sẽ trình bày lồng ghép dưới đây. Chúng
tôi đã trao đổi ở trường sở tại tôi công tác và các nhà trường tiểu học trong tỉnh
mà tôi tiến hành thực nghiệm và rút ra được quy trình thiết kế và thực hiện dự án
15


Khoa học cho học sinh lớp 5. Đồng thời cũng xin trình bày chi tiết từng bước
thực hiện và những lưu ý để đạt hiệu quả.
Nguyên tắc thiết kế dự án học tập môn Khoa học lớp 5
- Dự án phải gắn với bối cảnh hiện thực cuộc sống;
- Mục tiêu trọng tâm của mỗi dự án phải nhằm hình thành cho học sinh một
nội dung tri thức khoa học cụ thể;
- Dự án phải phù hợp với nội dung học vấn của tiểu học;
- Dự án phải phù hợp với khả năng thực hiện của học sinh;
- Dự án phải phù hợp với điều kiện thực tế về cơ sở vật chất, thiết bị dạy
học của trường, địa phương.
Quy trình thiết kế và thực hiện dự án học tập

Quy trình thiết kế và thực hiện dự án được thể hiện tóm tắt trong bảng trên.
Dưới đây, tôi trình bày chi tiết từng bước thực hiện và những lưu ý để áp dụng
vào dạy học Khoa học đạt hiệu quả cao nhất.
Bước 1: Xác định chủ đề và mục đích dự án học tập
16


Để xác định vấn đề có thể xây dựng thành dự án học tập môn Khoa học lớp
5 cần lưu ý như sau:
Lưu ý 1: Xác định mục tiêu và nội dung khoa học trọng tâm cần hình thành
cho học sinh lớp 5. Nhiệm vụ trước tiên của mọi hoạt động thiết kế dạy học
chính là xác định mục tiêu hoạt động học tập của người học. Ở đây người thiết

kế cần xác định rõ sau dự án học tập người học sẽ chiếm lĩnh được kiến thức và
kĩ năng khoa học học nào. Thông thường mục tiêu học tập được biểu đạt theo
các mức độ trong thang nhận thức mà Bloom và các cộng sự đã nêu.
Ở đây người thiết kế cần định hình rõ có những nội dung kiến thức khoa
học nào? Mỗi nội dung kiến thức ấy thường tương ứng với một hoạt động học
tập của học sinh.
Lưu ý 2: Lựa chọn các nội dung tích hợp trong dự án Khoa học lớp 5. Dự
án học tập có tính tích hợp nhiều tri thức thuộc các lĩnh vực khoa học khác nhau.
Chính vì thế, mặc dù bản thân môn khoa học đã có tính tích hợp nhưng vẫn cần
tìm kiếm các tri thức khoa học thuộc các lĩnh vực khác như ngôn ngữ, văn học,
toán học, xã hội học…để tạo ra các dự án học tập có nội dung tích hợp cao, đem
lại hiệu quả giáo dục lớn hơn.
Lưu ý 3: Xác định vấn đề trong thực tiễn đời sống. Cần tìm kiếm một ý tưởng có
tính độc đáo, hấp dẫn đối với học sinh, đồng thời có thể truyền tải được cả nội dung
giáo dục khoa học và nội dung học vấn phổ thông khác thuộc chương trình giáo dục để
thiết kế thành dự án học tập. Bối cảnh xã hội, tình huống thực tế chính là chìa khóa để
gắn kết các nội dung, mục tiêu giáo dục tạo thành một vấn đề học tập có tính chỉnh thể
vừa có ý nghĩa giáo dục, vừa có tính xã hội, tính thực tiễn sâu sắc.

Việc làm này không chỉ hiểu đơn giản là triển khai thực hiện nguyên tắc
thực tiễn trong giáo dục mà điều quan trọng ở đây là tạo ra sức sống và giá trị
thực sự cho mỗi dự án giáo dục khoa học cho học
sinh. Chính vì thế khi thiết kế dự án để giáo dục
khoa học thì cần thiết dựa vào chính cuộc sống
xã hội xung quanh học sinh, và tốt hơn nữa là
dựa vào hay khai thác được các sự kiện, hiện
tượng, các vấn đề xã hội mà chính các em học
sinh đang quan tâm. Tính thực tiễn và sự quan
tâm của học sinh đối với các dự án học tập chính
Thang cấp độ tư duy Bloom

17


là động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy học sinh dấn thân vào quá trình học tập, rèn
luyện để có được tri thức khoa học.
Ví dụ: Vấn đề của dự án Hành động cho tương lai của chính chúng ta!
được hình thành vì những điều kiện sau:
- Nội dung kiến thức của dự án đảm bảo nội dung kiến thức môn Khoa học
lớp 5 từ bài 12, 13, 14, 62, 64, và 68.
- Vấn đề của dự án này có tính thực tế bởi chính một vấn đề đang có thực,
đang diễn ra và học sinh có thể giải quyết được. Khoảng thời gian này là thời
điểm muỗi dễ sinh sôi và gây ra nhiều bệnh nguy hiểm như sốt rét, sốt xuất
huyết, viêm não, …gây ảnh hưởng đến sức khỏe học sinh, thầy cô và cộng đồng.
Môi trường cho chúng ta những điều kiện để sinh sống nhưng cũng chứa những
nguy cơ gây hại cho chính tương lai cuộc sống chúng ta. Vậy làm sao để giảm
thiểu những tác hại đến môi trường trong khi chúng ta vẫn cần phải lấy vào và
thải ra các chất từ môi trường để sinh sống? Chúng ta vừa bảo vệ môi trường
vừa phòng bệnh cho bản thân và cộng đồng bằng hành động thiết thực nào?
- Vấn đề của dự án có thể xây dựng để phát triển tư duy sáng tạo bậc cao
bằng cách tạo ra sản phẩm có ích cho cuộc sống và mang giá trị thực tiễn cao.
Dự án được thực hiện bởi các học sinh khối 5 các trường tiểu học trong tỉnh
Vĩnh Phúc. Sau quá trình tìm hiểu kiến thức, học sinh tiến hành triển khai các
giải pháp nhằm ứng dụng kiến thức thực tiễn vào đời sống.
Tích hợp kiến thức các bài học từ bài 12 đến bài 14: Phòng bệnh sốt rét, Phòng

bệnh sốt xuất huyết, Phòng bệnh viêm não và kiến thức của bài 62: Môi trường; bài

64: Tác động của môi trường tự nhiên đối với đời sống con người; bài 68: Một
số biện pháp bảo vệ môi trường.
Thiết kế các nhiệm vụ trong dự án học tập môn Khoa học lớp 5

Thông thường mỗi dự án học tập có nhiều nhiệm vụ khác nhau. Có những
nhiệm vụ để học sinh hoạt động cá nhân, có những nhiệm vụ để học sinh hoạt động
theo nhóm, hoạt động cả lớp. Có những nhiệm vụ nhiều nhóm học sinh thực hiện
cùng lúc, nhưng có nhiệm vụ chỉ một nhóm thực hiện. Các nhiệm vụ trong một dự
án thường hướng học sinh tạo ra một sản phẩm vật chất nào đó. Sản phẩm này phải
là sự kết tinh của toàn bộ hoạt động cá nhân và của nhóm. Tức là để tạo ra được sản
phẩm của dự án theo yêu cầu, thì học sinh phải thực hiện thành công hoạt động cá
nhân (theo sự phân công của nhóm) và đặc biệt là phải hợp tác thành công với các
thành viên khác trong nhóm để giải quyết vấn đề. Chính quá trình
18


làm việc hợp tác cùng nhau để tạo ra sản phẩm mà học sinh được trải nghiệm
trong quan hệ xã hội, được rèn luyện và phát triển các năng lực quan trọng khác.
Quá trình thiết kế các nhiệm vụ trong các dự án học tập để giáo dục khoa học
cho học sinh cần lưu ý:
1/ Tăng cường các nhiệm vụ đòi hỏi học sinh phải tìm tòi nghiên cứu như
điều tra, khảo sát thực trạng;
2/ Tăng cường các hoạt động đòi hỏi học sinh phải đưa ra giả thiết, phán
đoán, suy luận;
3/ Huy động nhiều nguồn lực khác nhau để hỗ trợ quá trình tìm tòi, khám
phá của học sinh như trung tâm nghiên cứu, cơ sở sản xuất, trung tâm thông tin
thư viện…;
4/ Tạo cơ hội để học sinh được tham gia vào chính quá trình xác định các
nhiệm vụ và phân công nhiệm vụ cho từng thành viên trong nhóm;
5/ Sản phẩm của dự án cần được định hướng rõ ràng, nhưng không đóng
khung theo một khuôn mẫu cứng nhắc, mà phải mở ra cơ hội để học sinh được
sáng tạo, tự chủ và tự quyết định về sản phẩm của nhóm.
Thiết kế đồ dùng, phương tiện, học liệu để học sinh thực hiện dự án
Vì kết thúc dự án, học sinh phải tạo ra được một sản phẩm vật chất cụ thể, nên

việc chuẩn bị các công cụ cần thiết để học sinh thực hiện các nhiệm vụ trong dự án
có ý nghĩa quan trọng. Các công cụ, phương tiện này thường bao gồm: dụng cụ thí
nghiệm, thực hành; tài liệu văn bản in ấn nhằm cung cấp thông tin về đối tượng học
tập, nghiên cứu theo nhiệm vụ của dự án; máy tính kết nối mạng internet để học
sinh tìm kiếm thông tin có liên quan tới đối tượng học tập, thiết kế bài thuyết trình;
giấy khổ lớn và bút dạ, sáp màu để học sinh trình bày bản thiết kế, trình bày bản
báo cáo…; và những công cụ vật chất khác tùy thuộc vào từng dự án cụ thể.
Như mục Cơ sở thực tiễn có nhắc đến một khó khăn khi thực hiện dạy học
theo dự án của giáo viên đó là không đủ kinh phí để triển khai dự án. Thực tế là đặc
thù của dự án liên quan đến các sản phẩm thực tế và không thể làm dự án chỉ “trên
giấy” được. Do vậy, tôi có giải pháp thực hiện ở đây là xã hội hóa giáo dục. Đầu
năm học khi nhận lớp chủ nhiệm, tôi thường gửi cho từng phụ huynh lá thư với nội
dung trao đổi với phụ huynh về nội dung, chương trình học và những định hướng
tốt đẹp mà nhà trường và trực tiếp là giáo viên sẽ thực hiện với học sinh. Mục đích
của lá thư sẽ là cầu nối ban đầu giữa giáo viên và phụ huynh, kết hợp sau này là
buổi họp phụ huynh học sinh đầu năm. Giáo viên có tâm ắt phụ huynh
19


đồng cảm, đồng lòng, tất cả vì con em mình. Vì vậy, vấn đề khó khăn về kinh
phí đã được giải quyết ổn thỏa. Ngoài ra kết hợp với việc kết nối với các tổ chức
kinh tế, xã hội ở địa phương để nhờ giúp đỡ khi học sinh thực địa, học tập, thực
hành, thực nghiệm … nên kinh phí cũng được giúp đỡ một cách đáng kể.
Bước 2: Xây dựng kế hoạch dự án học tập
Lập kế hoạch thực hiện dự án là công việc quan trọng, có ý nghĩa quyết
định lớn tới khả năng thực hiện thành công dự án. Kế hoạch càng chi tiết, đầy đủ
thì quá trình thực hiện càng dễ dàng, việc kiểm soát, đánh giá hoạt động thực
hiện dự án của học sinh càng thuận lợi.
Nhiệm vụ chủ yếu của giáo viên với vai trò là người tổ chức dự án ở bước này
là giúp cho người học nắm bắt được đầy đủ các công việc cần thực hiện trong dự

án, các giai đoạn thực hiện, thời gian thực hiện, yêu cầu về sản phẩm đầu ra cho
mỗi công việc. Thậm chí giáo viên phải giúp người học hình dung ra cả những khó
khăn, trở lực mà họ sẽ phải đối mặt trong quá trình thực hiện, những phương thức
để thảo gỡ, các nguồn lực hỗ trợ…bằng cách đặt những câu hỏi để người học trả
lời. Khi thảo luận các câu hỏi định hướng, tham gia góp ý kiến, xây dựng kế hoạch
thực hiện, phân công nhiệm vụ cho nhau, người học nhận thức được nhiệm vụ, yêu
cầu công việc và trách nhiệm của mình trong dự án. Chính vì thế, trong giai đoạn
thiết kế dự án, giáo viên chỉ hoạch định các ý tưởng chính trong phần lập kế hoạch
thực hiện. Còn những nội dung chi tiết thì để cho chính người học được tự quyết.
Việc để cho người học có phần tự chủ trong khâu lập kế hoạch thực hiện dự án là
một cách hữu hiệu rèn luyện kĩ năng xã hội cho người học, đặc biệt là nhóm kĩ
năng nhận thức xã hội và nhóm kĩ năng giao tiếp, ứng xử xã hội trong quá trình
tương tác với bạn học và các thành viên khác trong dự án.

Các nội dung chính học sinh cần thảo luận để thống nhất trong kế hoạch
thực hiện dự án bao gồm:
1/ Các nhiệm vụ, công việc cần thực hiện;
2/ Phân công người thực hiện;
3/ Phương thức tiến hành;
4/ Dự kiến sản phẩm (sản phẩm đầu ra của hoạt động);
5/ Thời gian thực hiện, thời hạn hoàn thành;
6/ Những khó khăn và nguồn lực hỗ trợ.
20


Kết thúc hoạt động này, giáo viên và học sinh phải có được một bản kế
hoạch hành động chi tiết, sắp xếp theo bảng như sau:
Bảng 4. Kế hoạch hoạt động của dự án

Nhiệm vụ


Công việc Sản
phẩm/
cụ thể
kết quả

Cách

Người

thực hiện

thực hiện

Thời gian

Khó khăn/
Phương án


Chuẩn bị phương tiện, công cụ và các nguồn lực khác phục vụ việc
thực hiện dự án của học sinh:
Việc xác định công cụ, phương tiện phục vụ cho việc thực hiện dự án của
học sinh về cơ bản đã được giáo viên trù liệu khi thiết kế dự án. Ở bước này, sau
khi học sinh thảo luận để liệt kê các phương tiện, công cụ cần thiết để thực hiện
nhiệm vụ, giáo viên sẽ bổ sung những phương tiện còn thiếu để học sinh nắm
bắt được. Giáo viên cùng học sinh thảo luận để chuẩn bị các phương tiện, phân
công và tìm kiếm sự hỗ trợ từ các lực lượng xã hội, cùng học sinh liên hệ các tổ
chức xã hội sẽ trợ giúp, phối hợp trong quá trình thực hiện, thống nhất kế hoạch
thực hiện và yêu cầu công việc…

Bước 3: Tổ chức thực hiện dự án
Đây là giai đoạn học sinh bắt tay vào việc thực hiện dự án, giải quyết các
nhiệm vụ, công việc cụ thể theo các giai đoạn đã hoạch định để tạo ra sản phẩm
theo yêu cầu. Quá trình thực hiện dự án đôi khi học sinh sẽ làm việc trên lớp
học, nhưng sẽ rất thường xuyên các em học tập nghiên cứu ở phạm vi ngoài lớp
học như trên thư viện, phòng máy tính của trường, ngoài thiên nhiên, thực địa,
thậm chí tại gia đình.
Trong quá trình thực hiện dự án, học sinh không chỉ lĩnh hội được tri thức
khoa học mà còn phát triển được các kĩ năng sống quan trọng, đặc biệt đối với
những dự án học tập mà học sinh phải thực hiện trong những điều kiện mới lạ,
hoàn toàn ngoài khuôn khổ quen thuộc ở gia đình và nhà trường, với những đối
tượng mới, không quen biết khi điều tra, khảo sát, từ thiện…
Khó khăn lớn nhất giáo viên phải đối mặt khi tổ chức cho học sinh học tập
thông qua dự án là hoạt động học tập của học sinh thường diễn ra trong khoảng thời
gian khá dài, một vài tuần, có khi lên đến cả tháng với nhiều dạng hoạt động khác
nhau, ở nhiều địa điểm khác nhau nên việc kiểm soát sẽ gặp khó khăn. Do đó, giáo
viên cần trang bị cho học sinh kĩ năng quản lí dự án (trình bày bên dưới). Về cơ bản
học sinh, các nhóm học sinh sẽ độc lập thực hiện dự án, song vai trò
21


của giáo viên ở đây là người tổ chức, điều khiển để học sinh thực hiện tốt các
nhiệm vụ học tập đã đề ra. Học sinh tự quản lí dự án theo bảng kiểm soát đã
thiết kế trước khi tiến hành dự án và xin sự hỗ trợ khi cần thiết.
Giáo viên tổ chức kiểm tra, đánh giá theo hình thức cho học sinh báo cáo
định kì tiến độ và kết quả học tập của cá nhân, nhóm; phối hợp với các tổ chức
tham gia hỗ trợ học sinh học tập để giám sát, đánh giá. Việc giám sát và đánh giá
thường xuyên hoạt động học tập sẽ tạo động lực để học sinh tích cực hoạt động.
Các chỉ dẫn hiệu chỉnh kịp thời của giáo viên giúp cho quá trình học tập trong
dự án luôn đi đúng hướng để tạo ra sản phẩm. Khi học sinh tự quản lí dự án,

thiết lập các quan hệ xã hội giữa các thành viên dự án cũng là cơ hội để thực
hành, luyện tập nhóm kĩ năng giao tiếp và ứng xử xã hội.
Quản lí dự án là một trong số những kĩ năng cần thiết hình thành cho học sinh
trong quá trình dạy học theo dự án. Kĩ năng này giúp cho học sinh kiểm soát được
hoạt động học tập của bản thân và của nhóm theo các dự án. Như đã mô tả trên đây,
trong mỗi dự án học tập thường có nhiều nhiệm vụ khác nhau. Mỗi nhiệm vụ trong
số đó lại được thực hiện bởi một hay nhiều người trong nhóm và thực hiện vào
những thời điểm khác nhau trong quá trình thực hiện dự án. Chính vì thế, các công
việc học sinh cần thực hiện khi quản lí dự án bao gồm:
1/ Dự án học tập gồm bao nhiêu nhiệm vụ hay công việc;
2/ Mỗi công việc đó ai thực hiện; 3/ Tiến độ thực hiện
mỗi công việc.
Để quản lí được cả ba trường thông tin đó cùng lúc, đòi hỏi giáo viên phải
hướng dẫn học sinh cách lập bảng để quản lí dự án. Các bảng này có hình thức
như sau:
Bảng 5: Theo dõi tiến độ thực hiện dự án
Tên công việc
Thời gian thực hiện Người thực hiện
1. Nguyễn Văn A
Việc 1: ………

2. …

Các bước tiến hành hướng dẫn học sinh quản lí dự án:
1/ Xác định các nhiệm vụ cần thực hiện trong dự án và phân công nhiệm vụ
Xác định các nhiệm vụ trong một dự án thường được giáo viên tổ chức triển
khai trong những buổi học đầu tiên khi giới thiệu dự án tới học sinh. Khi ấy, những
nhiệm vụ cụ thể mà mỗi nhóm học sinh cần thực hiện đã được giáo viên cho thảo
luận và phân công. Tiếp theo là tổ chức cho học sinh thảo luận trong nhóm để phân
công các công việc cụ thể cho từng thành viên trong nhóm. Bước thảo luận trong

nhóm để xác định lại các nhiệm vụ và phân công công việc này rất có giá trị đối với
học sinh, giúp cho mỗi thành viên đều nắm rõ nhiệm vụ chung của nhóm, các
nhiệm vụ cụ thể và định hướng về sản phẩm cần hoàn thành. Đây
22


cũng là lúc mỗi nhóm thể hiện tinh thần đoàn kết, lòng quyết tâm chung sức,
hợp lực để hướng tới mục tiêu chung của toàn nhóm. Chính vì thế, mặc dù bước
này do các nhóm chủ động thực hiện, song giáo viên phải có biện pháp để chắc
chắn rằng các em sẽ thực hiện và thực hiện hiệu quả. Chính vì thế việc chọn lựa
và huấn luyện các vị trí trong nhóm như nhóm trưởng, quản lí thời gian, thư kí
của nhóm có ý nghĩa quan trọng.
2/ Lập bảng theo dõi
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh lập bảng theo dõi tiến độ của dự án hay
còn gọi là bảng kiểm. Người quản lí bảng kiểm này là nhóm trưởng, hoặc một
thành viên được cử ra. Đối với những dự án nhỏ, ít nhiệm vụ hoặc thực hiện
trong thời gian ngắn thì nhìn chung việc lập và sử dụng bảng theo dõi tiến độ
không thực sự cần thiết. Song đối với những dự án nhiều nhiệm vụ và thực hiện
trong thời gian dài thì đây là một phần công việc trong dự án và nó rất có giá trị
trong giáo dục học sinh về tính kế hoạch, tư duy khoa học.
3/ Thực hiện dự án và theo dõi tiến độ
Công việc còn lại liên quan tới quản lí dự án đơn giản là trong quá trình thực
hiện, học sinh sẽ theo dõi và đánh dấu trạng thái: chưa thực hiện, đang thực hiện, đã
hoàn thành vào các thời điểm xác định. Đây cũng có thể được xem là cách thức tổ
chức cho học sinh tự đánh giá thường xuyên quá trình học tập thông qua dự án.

Giáo viên cũng cần hướng dẫn học sinh, trong quá trình thực hiện dự án,
nếu một phần việc nào đó bị chậm tiến độ hoặc chưa đạt yêu cầu thì cần có biện
pháp để xử lí. Chính những điều chỉnh trong quá trình học tập thông qua dự án
sẽ làm tăng cơ hội hợp tác và tư duy phê phán cho học sinh, đồng thời cũng tạo

ra tính linh hoạt mềm dẻo, cơ động trong quá trình học tập của học sinh
Bước 4 và 5: Trưng bày sản phẩm và đánh giá dự án
Kết thúc dự án luôn là giai đoạn rất có ý nghĩa đối với học sinh. Đây là lúc các
em nhìn lại thành quả làm việc của cả cá nhân và nhóm. Thành quả ấy kết tinh
trong sản phẩm chung mà nhóm đã tạo ra. Chính vì thế, nguyên tắc cốt lõi trong
đánh giá sản phẩm ở đây là tôn trọng và nâng đỡ. Có thể sản phẩm chưa hoàn hảo,
chưa được như mong muốn nhưng những người đánh giá phải trân trọng sự nỗ lực
làm việc của các cá nhân, tinh thần hợp tác của nhóm để tạo ra sản phẩm.

Các bước tiến hành trong trưng bày và đánh giá sản phẩm:
1) Trưng bày sản phẩm của dự án:
23


Phương thức phổ biến và đem lại hiệu quả nhất trong trưng bày sản phẩm là tổ
chức theo kiểu “phòng tranh”. Tức là sản phẩm của mỗi nhóm được xếp đặt tại góc
học tập của nhóm mình để mọi thành viên trong lớp học đều có thể quan sát được
thuận tiện. Trong nhiều dự án, các nhiệm vụ học tập được thiết kế theo kiểu chuỗi
nối tiếp. Mỗi nhóm học sinh nhận một phần việc trong một dự án lớn; kết thúc dự
án chỉ tạo ra một sản phẩm vật chất chung của cả lớp, thì khi ấy sản phẩm được
trưng bày ở không gian chung. Tuy nhiên giáo viên vẫn nên yêu cầu các nhóm viết
một báo cáo về kết quả thực hiện dự án của nhóm để trình bày trước lớp.

2) Giới thiệu, thuyết minh sản phẩm của dự án:
Mỗi nhóm cần cử đại diện giới thiệu cho cả lớp biết về sản phẩm của nhóm
mình. Đây là cơ hội để học sinh phát triển được kĩ năng thuyết trình, sự tự tin
khi nói trước đám đông nên có thể tạo cơ hội để nhiều bạn trong nhóm được
tham dự. Phần giới thiệu này học sinh không chỉ tập trung vào việc nói về sản
phẩm tức là kết quả của dự án, mà cả quá trình các em đã phối hợp làm việc
cùng nhau như thế nào để tạo ra được sản phẩm.

3) Đánh giá và bình chọn sản phẩm:
Việc làm này nhằm mục đích ghi nhận sự nỗ lực, cố gắng của các cá nhân và
nhóm khi kết thúc dự án, đặc biệt đối với những nhóm có thành tích xuất sắc. Từ
những sản phẩm của các nhóm trong lớp, giáo viên và học sinh sẽ chọn ra sản phẩm
tốt nhất để trưng bày trong góc học tập của lớp, phòng truyền thống của nhà trường.

4) Phát triển các ý tưởng của dự án:
Kết thúc một dự án không phải là đóng lại hoạt động học tập mà đó là lúc mở
ra những cơ hội học tập mới từ chính những ý tưởng của dự án vừa hoàn thành. Vì
thế, sau khi hoàn thành nhiệm vụ học tập trong dự án, giáo viên cần tổ chức cho
học sinh trong nhóm và cả lớp cùng thảo luận để rút ra bài học kinh nghiệm, đồng
thời tìm kiếm những ý tưởng mới như vận dụng kiến thức học được từ quá trình
thực hiện dự án vào trong thực tế đời sống, hoặc từ những sản phẩm mới được tạo
ra, các em có thể làm gì tiếp theo dựa vào sản phẩm ấy… Các ý tưởng mới này có
thể triển khai thành những nhiệm vụ học tập tiếp theo hoặc cá nhân hay nhóm học
sinh tiếp tục theo đuổi trên cơ sở tự nguyện, mà không có sự áp đặt hay ràng buộc
gì từ phía giáo viên. Khi ấy, việc tìm hiểu, học tập trở thành nhu cầu tự thân nên giá
trị và ý nghĩa của nó tăng lên rất nhiều. Khi trưng bày và đánh giá sản phẩm, học
sinh phải quan sát, lựa chọn cách tốt nhất để trình bày sản phẩm của nhóm mình,
lắng nghe và hiểu các nhận xét đa chiều từ các nhóm bạn khác,
24


hiểu rõ hơn về bản thân và các bạn, học cách giao tiếp thể hiện sự tôn trọng
người khác nhưng vẫn bảo vệ chính kiến của mình nếu hợp lí. Đó chính là việc
rèn luyện nhóm kĩ năng nhận thức xã hội và giao tiếp và ứng xử xã hội được
thực hiện ở bước này của dự án.
Cách đánh giá một dự án học tập
* Các yêu cầu bắt buộc phải đạt được với một dự án
- Dự án phải gắn với nội dung dạy học của chương trình

- Dự án phải gắn với thực tiễn đời sống.
- Thiết kế được các hoạt động (việc làm) cụ thể cho người học.
- Qua hoạt động của dự án người học tiếp thu được kiến thức của môn học.
- Có tính khả thi (phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của người học).
- Có các sản phẩm cụ thể.
Ai là người đánh giá quá trình thực hiện dự án?
Đánh giá dự án do cả giáo viên và học sinh thực hiện nhằm đánh giá quá
trình thực hiện và kết quả cũng như kinh nghiệm đạt được.
- Giáo viên và người học đánh giá quá trình thực hiện và kết quả dự án dựa
trên những sản phẩm thu được, tính khúc chiết và hợp lý trong cách thức trình
bày của các em.
- Giáo viên hướng dẫn người học rút ra những kinh nghiệm cho việc thực
hiện các dự án tiếp theo.
Học sinh có thể: Tự đánh giá sản phẩm dự án của nhóm. Hoặc đánh giá sản
phẩm dự án của các nhóm khác theo tiêu chí đã đưa ra.
* Để đánh giá được hướng phát triển của dự án, cần phải trả lời các câu hỏi:
- Dự án vừa thực hiện có cho phép một sự học tập tích cực hay không?
- Trong tương lai dự án có thể thực hiện khác được không?
- Hướng phát triển tiếp theo của dự án là gì?
Do đó cần tiến hành hoạt động xem xét lại dự án: trở lại dự án để thực hiện
việc tổng kết và đưa ra các kết luận rộng hơn. Nó có thể xoay quanh câu hỏi: Mục
đích học tập đạt được hay chưa? Liệu sản phẩm của dự án có dùng được hay
không? Những thiếu sót gì đã bỏ qua? Các yếu tố khác như cảm giác thoải mái của
học sinh trong quá trình hoạt động nhóm – thời gian thực hiện dự án – các
25


×