Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

SKKN cách làm các dạng đề so sánh trong văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.12 KB, 33 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC
TRƯỜNG THPT SÁNG SƠN
=====***=====

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến: “ Cách làm các dạng đề so sánh trong văn học ”

Tác giả sáng kiến: BÙI THỊ THU HƯƠNG
Mã sáng kiến: 18.51.05

Vĩnh Phúc, năm 2019

1


MỤC LỤC
BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG SKKN………………….3
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ…………………………………...…………………...9
1. Lí do chọn đề tài……………………………………...…..…………….....….9
2. Mục đích nghiên cứu.………………...…...………..…..................................10
3. Nhiệm vụ nghiên cứu…………………………..…………………………....10
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu…………………………..……………..10
5. Phạm vi nghiên cứu…………………………..……………………………..11
6. Phương pháp nghiên cứu…………………………..………………………..11
PHẦN 2: NỘI DUNG SÁNG KIẾN…………………………………...……...12
1. Khái quát các dạng đề so sánh………………………………………………12
2. Hướng dẫn học sinh cách làm các dạng đề……………………….…………13
3. Hướng dẫn cụ thể một số đề………...………………………........................15
4. Hướng dẫn học sinh luyện tập……………………………...……………….19


5. Kiểm tra kết quả quá trình ôn tập……………………………………………24
PHẦN 3: KẾT QUẢ CỤ THỂ………...…………….........................................27

TÀI LIỆU THAM KHẢO………..……………………..………………….......29

2


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
1.1 Cơ sở lí luận:
1.1.1. So sánh là một thao tác tư duy rất cơ bản. Trong cuộc sống, khi ta tư duy,
ta đã dùng đến thao tác này rất thường xuyên như một phần tất yếu. Văn học
cũng là một lĩnh vực của tư duy, của nhận thức, mang tính đặc thù, cho nên việc
sử dụng thao tác so sánh trong sáng tác và nghiên cứu văn học là một điều hết
sức tự nhiên. Từ khi có văn học, nhất là văn học viết đến nay, các nhà nghiên
cứu đã có ý thức so sánh khi tìm hiểu văn chương, đặc biệt là khi có những hiện
tượng song hành trong văn học. Có thể nhắc đến những hiện tượng song hành
tiêu biểu trong văn học Việt Nam: NguyễnTrãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn
Du và Nguyễn Đình Chiểu, Cung Oán Ngâm và Chinh Phụ Ngâm,…. So sánh
các hiện tượng văn chương trở thành một phương pháp nghiên cứu văn chương.
Ở đây tôi không nhắc tới so sánh văn học như một bộ môn khoa học mà được
hiểu như một kiểu bài nghị luận văn học, một cách thức trình bày khi viết bài
nghị luận.
1.1.2. Khái niệm so sánh văn học cần phải được hiểu theo ba lớp nghĩa khác
nhau. Thứ nhất, so sánh văn học là “một biện pháp tu từ để tạo hình ảnh cho câu
văn” .Thứ hai, nó được xem như một thao tác lập luận cạnh các thao tác lập luận
như: phân tích, bác bỏ, bình luận đã được đưa vào sách giáo khoa Ngữ văn 11.
Thứ ba, nó được xem như “một phương pháp, một cách thức trình bày khi viết

bài nghị luận”, tức là như một kiểu bài nghị luận bên cạnh các kiểu bài nghị luận
về một đoạn trích, tác phẩm thơ; nghị luận về một đoạn trích, tác phẩm văn
xuôi… ở sách giáo khoa Ngữ văn 12. Ở đề tài này chúng ta nghiên cứu vấn đề ở
góc nhìn thứ ba.
1.1.3. So sánh là phương pháp nhận thức trong đó đặt sự vật này bên cạnh một
hay nhiều sự vật khác để đối chiếu, xem xét nhằm hiểu sự vật một cách toàn
diện,kỹ lưỡng, rõ nét và sâu sắc hơn. Tuy nhiên, so sánh văn học như một kiểu
3


bài nghị luận văn học lại chưa được cụ thể bằng một bài học độc lập, chưa xuất
hiện trong chương trình sách giáo khoa. Vì vậy, từ việc xác lập nội hàm khái
niệm kiểu bài, mục đích, yêu cầu, đến cách thức làm bài cho kiểu bài này thực
sự rất cần thiết song lại gặp không ít khó khăn.
1.1.4. Kiểu bài viết so sánh văn học yêu cầu thực hiện cách thức so sánh trên
nhiều bình diện: đề tài, nhân vật, tình huống, cốt truyện, cái tôi trữ tình, chi tiết
nghệ thuật, nghệ thuật trần thuật… Quá trình so sánh có thể chỉ diễn ra ở các tác
phẩm của cùng một tác giả, nhưng cũng có thể diễn ra ở những tác phẩm của các
tác giả cùng hoặc không cùng một thời đại, giữa các tác phẩm của những trào
lưu, trường phái khác nhau của một nền văn học.
1.1.5. Mục đích cuối cùng của kiểu bài này là yêu cầu học sinh chỉ ra được chỗ
giống và khác nhau giữa hai tác phẩm, hai tác giả, từ đó thấy được những mặt kế
thừa,những điểm cách tân của từng tác giả, từng tác phẩm; thấy được vẻ đẹp
riêng của từng tác phẩm; sự đa dạng muôn màu của phong cách nhà văn. Không
dừng lại ở đó, kiểu bài này còn góp phần hình thành kĩ năng lí giải nguyên nhân
của sự khác nhau giữa các hiện tượng văn học – một năng lực rất cần thiết góp
phần tránh đi khuynh hướng “bình tán” khuôn sáo trong các bài văn của học sinh
hiện nay. Lẽ hiển nhiên, đối với đối tượng học sinh trung học phổ thông, các yêu
cầu về năng lực lí giải cần phải hợp lí, vừa sức. Nghĩa là các tiêu chí so sánh cần
có mức độ khó vừa phải, khả năng lí giải sự giống và khác nhau cũngcần phải

hợp lí với năng lực của các em.
1.2 Cơ sở thực tiễn:
1.2.1.Hiện nay trên thị trường có rất nhiều các tài liệu hướng dân ôn thi đại học:
Những bộ đề văn, Giới thiệu đề thi tuyển sinh đại học cao đẳng, quyển các bài
văn mẫu…các em ở những lớp tôi dạy có nhiều em có những quyển sách như
vậy để tham khảo thêm nhưng trong các tài liệu đó chỉ đưa ra các đề và giải,
thậm chí làm sẵn các đề đó mà không đưa ra cách làm và hướng dẫn học sinh ôn
tập. Vì vậy, nếu giáo viên chỉ trang bị kiến thức mà không hướng dẫn các em

4


ôn tập để các em tự ôn tập dựa vào tài liệu thì sẽ dẫn đến tình trạng thụ động
trong học tập cũng như trong thi cử.
Hơn nữa, trong chương trình SGK Ngữ văn 12 có các bài học riêng về các
kiểu bài nghị luận: Nghị luận về một đoạn trích, một tác phẩm thơ; Nghị luận về
một đoạn trích, một tác phẩm văn xuôi. Còn dạng đề so sánh (một kiểu bài nghị
luận) lại là một kiểu bài nghị luận khó thì chưa được cụ thể bằng một bài học
độc lập. Vì vậy, từ việc xác lập nội hàm khái niệm kiểu bài, mục đích, yêu cầu
đến cách thức làm bài cho kiểu bài này thực sự rất cần thiết.
Về phía giáo viên và học sinh – những nhân tố quyết định thì hầu như chỉ
chú trọng đến học bài mới, học nội dung chính chứ chưa chú trọng đến ôn tập.
Hoặc ôn tập một cách đại khái, sơ sài hay chỉ dừng lại ở khái quát nội dung
chính, ở những vấn đề cụ thể trong từng tác phẩm. Ví dụ: ôn tập đến “Vợ nhặt”
của Kim Lân giáo viên chỉ hướng học sinh nhớ lại hoàn cảnh ra đời, nội dung
chính, nghệ thuật, phân tích các nhân vật mà không hướng dẫn cho học sinh có
thể liên hệ thấy được giữa tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân và “Chí Phèo” của
Nam Cao đều nói về tình cảnh của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám,
giữa nhân vật người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa
của Nguyễn Minh Châu) đều ẩn chưa những vẻ đẹp khuất lấp hay người vợ nhặt

và Mị (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài) đều toát lên khát vọng sống, khát vọng hạnh
phúc hoặc ở nhân vật bà cụ Tứ giáo viên có thể khái quát lên những phẩm chất
của người phụ nữ Việt Nam: nhân hậu, giàu lòng vị tha, đức hi sinh. Nếu giáo
viên ôn tập có nói những vấn đề đó và đưa ra những đề văn có sự liên hệ các tác
phẩm, nhân vật như vậy thì học sinh sẽ được cung cấp những kiến thức sâu hơn,
rộng hơn. Và các em sẽ hứng khởi hơn khi ôn tập văn học, tránh được tình trạng
chủ quan, đơn giản, xem nhẹ khi nghĩ đến ôn tập văn trong quan niệm của học
sinh lâu nay.
Mặt khác nhiều giáo viên khi ôn tập chỉ đưa ra các đề trong mỗi tác phẩm
và yêu cầu học sinh làm (hoặc lập dàn ý) các đề đó. Tức là giáo viên chỉ chú
trọng các đề và làm đề. Giáo viên không khái quát thành các dạng đề và khái
5


quát thành các cách làm. Như vậy, sẽ không phát huy được sự chủ động, sáng
tạo của học sinh. Điều này dẫn đến tình trạng học sinh lúng túng khi gặp các đề
khác và sẽ không biết phải làm như thế nào.
Ngoài ra, dạng đề so sánh là một dạng đề khó và mới nên nhiều giáo viên
chủ quan, ít chú trọng đến dạng đề này. Do vậy, trong quá trình ôn tập không đề
cập tới hoặc có đề cập thì chỉ mang tính chất giới thiệu một cách qua loa. Vì vậy,
nhiều học sinh rất ngại khi phải tiếp xúc với dạng đề này. Các em mơ hồ với
kiểu bài, cách làm và làm bài thì rối rắm, sơ sài.
Bản thân tôi là giáo viên trường THPT Sáng Sơn, trường thuộc khu vực
miền núi nên chất lượng đầu vào học sinh thấp. Hầu hết các em chỉ dừng lại ở
học lực yếu, trung bình, có rất ít học sinh khá mà học sinh khá lại học ở những
lớp khối A, B. Vì vậy, dạng đề so sánh đối với học sinh của tôi là một dạng đề
khó. Cho nên, trong quá trình dạy và ôn tập nếu giáo viên không hướng dẫn mà
để học sinh tự phát hiện thì các em không thể liên hệ, so sánh các tác phẩm,
nhân vật, chi tiết với nhau. Do đó, bên cạnh việc trang bị kiến thức thì khâu ôn
tập, tôi rất chú trọng tới dạng đề so sánh, hướng dẫn cho các em cách làm để các

em biết cách tự làm khi gặp các đề tương tự. Điều đó giúp các em chủ động, tự
tin khi đứng trước dạng đề này.
1.2.2. Dạng đề so sánh văn học đã xuất hiện thường niên trong các kì thi đại
học, cao đẳng, các kì thi học sinh giỏi. Thậm trí trong các nhà trường phổ thông
trung học dạng đề này cũng thường xuyên được các thầy cô sử dụng cho các bài
kiểm tra định kì của các trường THPT. Minh chứng cho điều này tôi giới thiệu
vắn tắt một số câu hỏi thuộc phần 5 điểm trong SGK Ngữ văn 11, 12, trong các
đề thi học sinh giỏi tỉnh Vĩnh Phúc và một số câu hỏi trong đề thi đại học, cao
đẳng trong vài năm gần đây của Bộ giáo dục đào tạo:
- Đề thi học sinh giỏi môn Văn tỉnh Vĩnh Phúc : (Câu 2- 7 điểm)
+ Năm học 2012-2013:
Đánh giá về văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 có ý kiến cho rằng:
“Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đã làm cho văn học giai đoạnnày
6


thấm nhuần tinh thần lạc quan, đồng thời đáp ứng được những yêu cầu phản
ánh hiện thực đời sống trong quá trình vận động và phát triển cách
mạng.”(SGK Ngữ văn, Ban cơ bản, NXB giáo dục Việt Nam, 2010, trang 14).
Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ bằng việc phân tích các
tác phẩm “Tây Tiến” (Quang Dũng), “Việt Bắc” (Tố Hữu) và “Đất nước”(trích
trường ca “Mặt đường khát vọng” – Nguyễn Khoa Điềm).
+ Năm học 2015-2016:
Cổ nhân từng nói: “Thi trung hữu họa”, “Thi trung hữu nhạc”.
Anh/ chị hiểu ý kiến trên như thế nào ? Bằng sự hiểu biết của mình về bài thơ
Tây Tiến ( Quang Dũng) và Việt Bắc (Tố Hữu), hãy làm sáng tỏ.
- Đề thi đại học, cao đẳng của Bộ giáo dục:
+ Đề thi tuyển sinh đại học năm 2009, khối D (câu 3a) như sau:
Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người vợ nhặt (Vợ nhặt Kim Lân) và nhân vật người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn
Minh Châu).

+ Đề thi tuyển sinh đại học khối C năm 2009: Cảm nhận của anh/chị về hai
đoạn văn sau:
“Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình,..... lừ lừ cái
màuđỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”
(Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12 Nâng cao)
“Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, .....
.....“sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” nhưngười Huế thường miêu tả”
(Ai đã đặt tên cho dòng sông –Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12 Nâng cao)
+ Đề thi Tuyển sinh đại học khối D (câu 3b) năm 2010: Cảm nhận của anh/chị
về chi tiết “bát cháo hành” mà nhân vật thị Nở mang cho Chí Phèo (Chí Phèo –
Nam Cao) và chi tiết “ấm nước đầy và nước hãy còn ấm” mà nhân vật Từ dành
sẵn cho Hộ (Đời Thừa – Nam Cao).
7


+ Đề thi Tuyển sinh đại học khối D năm 2012: Truyện ngắn Chí Phèo của Nam
Cao kết thúc bằng hình ảnh:
Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà
cửa,và vắng người lại qua…
(Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.155).
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân kết thúc bằng hình ảnh:
Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…
(Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, tr.32)
Cảm nhận của anh/chị về ý nghĩa của những kết thúc trên.
1.2.3. Các đề thi trong khoảng 5 năm trở lại đây xuất hiện với mật độ dày như
vậy, chúng tôi chưa tính đến thực tế trong các trường phổ thông nhiều bài viết
thường xuyên và định kì giáo viên cũng ra dạng đề này. Đặc biệt trong sách giáo
khoa của lớp 11 và lớp 12 cũng xuất hiện các đề so sánh yêu cầu giáo viên và
học sinh tìm hiểu, điển hình như:
Bài viết số 2 Nghị luận văn học lớp 11, SGK giới thiệu đề thuộc so sánh văn học

Hình ảnh người phụ nữ Việt nam thời xưa qua các bài Bánh trôi nước, Tự tình
(II) của Hồ Xuân Hương và Thương Vợ của Trần Tế Xương.
Bài Ôn tập phần văn học lớp 12 học kì I đưa ra hệ thống câu hỏi trong đó có
3câu hỏi với kiểu đề so sánh để thầy cô và các em tìm hướng giải quyết.
Câu 8: Phân tích vẻ đẹp của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của
Quang Dũng, so sánh với hình tượng người lính trong bài thơ Đồng chí của
Chính Hữu.
Câu 9: Những khám phá riêng của mỗi nhà thơ về đất nước quê hương qua bài
thơ Đất nước (Nguyễn Đình Thi) và đoạn trích Đất Nước trong trường ca Mặt
đường khát vọng(Nguyễn Khoa Điềm)

8


Câu 12: So sánh Chữ người tử tù (Ngữ văn11, tập một) với Người lái đò Sông
Đà,nhận xét những điểm thống nhất và khác biệt của phong cách nghệ thuật
NguyễnTuân trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945).
Bài viết số 6 trong SGK Ngữ văn 12 cũng có đề so sánh về hai bài thơ của
Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm
1.2.4. Thực trạng đề thi có dạng so sánh xuất hiện phong phú như vậy nhưng
trong chương trình sách giáo khoa môn Ngữ văn của trung học phổ thông lại
không có một kiểu bài dạy riêng để hướng dẫn cho thầy cô giáo cũng như các
em học sinh nắm được phương pháp làm dạng đề này một cách hiệu quả nhất.
Chính vì vậy mà nhiều em học sinh tỏ ra rất lúng túng khi đứng trước đề bài so
sánh văn học, còn không ít thầy cô thì băn khoăn về phương pháp làm bài. Đứng
trước thực trạng đó, bằng kinh nghiệm của bản thân qua những năm dạy đội
tuyển học sinh giỏi, dạy chuyên đề đại học cũng như trao đổi với đồng nghiệp,
tôi đề xuất cách làm dạng đề so sánh này.
2. Tên sáng kiến: “ Cách làm các dạng đề so sánh trong văn học ”
3. Tác giả sáng kiến:

- Họ và tên: Bùi Thị Thu Hương.
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Sáng Sơn – xã Đồng Thịnh – huyện
Sông Lô – tỉnh Vĩnh Phúc.
- Số điện thoại: 0389881998.
- Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
- Cá nhân GV Bùi Thị Thu Hương – Trường: THPT Sáng Sơn.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
- Áp dụng trong giảng dạy và học tập môn Ngữ văn phần Cách làm các dạng
đề
so sánh trong văn học.

.

9


6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: áp dụng trong giảng dạy chuyên đề
“Cách làm các dạng đề so sánh trong văn học” trong tháng 9/2016.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1/ Về nội dung sáng kiến:
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài:
Văn học không chỉ là một môn khoa học mà còn là một món ăn tinh
thần không thể thiếu trong đời sống con người. Văn học cung cấp kiến thức về
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Văn học còn bồi bổ tâm hồn, giúp cho tâm hồn
con người phong phú hơn, tinh tế hơn giúp họ biết sẻ chia, cảm thông, sống nhân
ái và vị tha. Ngoài ra, văn học còn có chức năng giải trí, giúp con người quên đi
những căng thẳng, mệt mỏi. Điều đó chứng tỏ văn học cũng như môn văn có vị
trí quan trọng không chỉ trong nhà trường mà còn cả xã hội. Thế nhưng một thực

tế, trong những năm gần đây tình trạng học sinh ngại học văn ngày càng nhiều.
Một phần là do văn học là một môn khoa học khó chiếm lĩnh, dù các em có thích
văn nhưng tiếp thu cũng không dễ dàng, phải có năng khiếu văn mới cảm thụ
được nhưng số lượng học sinh có năng khiếu học văn giảm sút. Phần khác, do
xu hướng phát triển của thời đại, người ta chuộng các môn khoa học tự nhiên
hơn các môn khoa học xã hội, do yêu cầu xã hội, nghề nghiệp, gia đình...định
hướng cho các em học những môn khối A sẽ có nhiều trường thi, công việc sau
khi ra trường dễ dàng hơn và thu nhập cao hơn. Chính vì vậy dẫn đến tình trạng
các em xem thường, coi nhẹ, xa lánh môn văn.
Thực tế đó đòi hỏi người giáo viên đặc biệt là những giáo viên văn không
thể buông xuôi, chấp nhận theo xu thế mà tâm huyết nghề nghiệp lúc nào cũng
cần hơn hết. Ngoài việc chuẩn bị giáo án, thiết kế những bài giảng thật hay còn
phải truyền đạt truyền cảm, lôi cuốn học sinh để học sinh yêu thích môn văn và
giúp các em thấy văn học khác với các môn khác bởi nó gần gũi với con người,
cho các em thấy mình trong văn học và văn học còn dạy các em cách sống.
10


Và điều đặc biệt trong quá trình dạy văn, ngoài việc cung cấp kiến thức
thì khâu ôn luyện cho học sinh cũng rất quan trọng. Ôn tập giúp củng cố kiến
thức, giúp học sinh khắc cốt ghi tâm và biết vận dụng vào làm các đề văn trong
khi thi cử. Việc ôn tập, đặc biệt là ôn thi đại học, giáo viên không chỉ ôn tập kiến
thức, các dạng đề trong từng tác phẩm riêng rẽ mà còn phải nhóm các tác phẩm
cùng thể loại, thời đại, tác giả, đề tài...để chỉ ra những điểm giống và khác,
những mặt kế thừa, những điểm cách tân của từng tác giả, từng tác phẩm. Đây là
dạng đề so sánh tổng hợp.
Trong những năm gần đây xu hướng thi theo kiểu dạng đề so sánh rất
nhiều. Vì vậy, trang bị kiến thức về dạng đề so sánh, chỉ ra các dạng đề so sánh
và cách làm dạng đề này để học sinh biết cách vận dụng là rất quan trọng.
Ngoài ra, dạng đề so sánh văn học là một dạng đề khó. Dạng đề này cần

kiến thức tổng hợp, khái quát nhưng chỉ một số học sinh có thể khái quát được
còn đại bộ phận thì rất mơ hồ, lúng túng. Hơn nữa, lâu nay các em chỉ quen với
những dạng đề phân tích từng tác phẩm, nhân vật, hình ảnh, chi tiết còn kết hợp
nhiều tác phẩm, nhân vật, hình ảnh, chi tiết … để có cái nhìn tổng hợp về nền
văn học, từng thời kì, trào lưu văn học thì không phải em nào cũng làm được. Vì
vậy, nếu không có sự hướng dẫn ôn tập của giáo viên thì học sinh sẽ không làm
được dạng đề này hoặc có làm thì cũng không bao hàm hết ý, không logic và
không khái quát được.
Thấy rõ xu hướng, tính thiết thực và ý nghĩa của vấn đề cho nên trong
quá trình dạy và đặc biệt là ôn tập tôi luôn chú trọng tới dạng đề so sánh.
2. Mục đích nghiên cứu:
2.1. Chỉ ra các dạng đề so sánh trong phần văn xuôi
2.2. Hướng dẫn cách làm qua các bước và hướng dẫn cụ thể một số đề
2.3. Hướng dẫn học sinh luyện tập áp dụng
2.4. Kiểm tra, đánh giá mức độ hiểu, biết và áp dụng của học sinh
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
11


Để thực hiện tốt đề tài nghiên cứu bản thân tôi đã thực hiện các nhiệm vụ
sau:
- Thao giảng, dự giờ đồng nghiệp có trao đổi, rút kinh nghiệm qua từng tiết dạy.
- Nghiên cứu sách giáo khoa, sách giáo viên, sách tham khảo, sách chuẩn kiến
thức kĩ năng, sách kiểm tra thường xuyên và định kì, các tư liệu văn học trên
mạng Internet.
- Kiểm tra đánh giá kết quả học sinh để từ đó có điều chỉnh và bổ sung hợp lí.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Học sinh các lớp khối C và D mà tôi đã được phân công giảng dạy từ năm
2016 đến nay tại trường THPT Sáng Sơn.

- Lớp 12A2, 12A3 khóa học 2016-2017.
- Lớp 12A2, 12A3 khóa học 2017-2018.
4.2. Khách thể nghiên cứu:
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu Cách làm các dạng đề so sánh trong văn
học.

.

5. Phạm vi nghiên cứu
Do dung lượng SKKN có hạn nên đề tài chỉ xin đề cập đến dạng đề so sánh
trong phần văn xuôi. Phần văn xuôi có các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn
11 và 12.
* Chương trình Ngữ văn 11:
- Hai đứa trẻ (Thạch Lam)
- Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)
- Hạnh phúc của một tang gia (Trích Số đỏ - Vũ Trọng Phụng)
- Chí Phèo (Nam Cao)
- Đời thừa (Nam Cao)
12


* Chương trình Ngữ văn 12
- Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)
- Vợ nhặt (Kim Lân)
- Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành)
- Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi)
- Một người Hà Nội (Nguyễn Khải)
- Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)
6. Phương pháp nghiên cứu
Chủ yếu là phương pháp thực nghiệm. Đề tài là hướng dẫn học sinh lớp 12 ôn

thi đại học nên đối tượng chủ yếu của đề tài là các em học sinh theo các khối lớp
C và D. Vì vậy, tôi tận dụng tối đa các tiết ôn tập có được trong những giờ học
chính khóa và chủ yếu là các buổi học bồi dưỡng để có thời gian hướng dẫn học
sinh ôn tập củng cố kiến thức. Ngoài việc dạy học, hướng dẫn học sinh ôn tập tôi
còn kết hợp với kiểm tra, đánh giá mức độ hiểu biết, vận dụng của học sinh.
PHẦN 2: NỘI DUNG SÁNG KIẾN
I. Khái quát các dạng đề so sánh
Các đề so sánh trong phần văn xuôi rất nhiều từ nội dung, nghệ thuật đến
hình ảnh, chi tiết, nhân vật…Nhưng trong quá trình dạy, tôi chỉ khái quát những
đề chính có tính chất chung, tổng hợp để học sinh nắm được kiến thức cơ bản
tránh bị lúng túng khi đứng trước quá nhiều đề vụn vặt. Tôi khái quát lại so sánh
trong phần văn xuôi có những dạng đề cụ thể như sau:
1. So sánh các tác phẩm có điểm tương
đồng Đề 1:
Vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng Cách mạng qua hai tác phẩm “Rừng xà
nu”của Nguyễn Trung Thành và “Những đứa con trong gia đình”của Nguyễn
Thi.

13


Đề 2:
So sánh cách thể hiện số phận con người qua hai tác phẩm “Vợ chồng A
Phủ” của Tô Hoài và “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
Đề 3:
Tình cảnh người nông dân trước Cách mạng tháng Tám qua hai tác phẩm
“Chí Phèo” của Nam Cao và “Vợ nhặt” của Kim Lân.
Đề 4:
Nghệ thuật miêu tả tương phản của Nguyễn Tuân và Thạch Lam trong hai
tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân và “Hai đứa trẻ” của Thạch

Lam.
2. So sánh các nhân vật có điểm tương
đồng Đề 1:
Cảm nhận của anh (chị) về những vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người vợ
nhặt (Vợ nhặt – Kim Lân) và nhân vật người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền
ngoài xa- Nguyễn Minh Châu).
(Đề tuyển sinh đại học khối C năm học 2009-2010)

Đề 2:
So sánh vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng qua hai nhân vật: Việt
(Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi) và Tnú (Rừng xà nu – Nguyễn
Trung Thành).
Đề 3:
Cảm nghĩ của anh (chị) về vai trò của truyền thống đối với hiện tại qua hai
nhân vật cụ Mết trong truyện ngắn Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành) và nhân
vật chú Năm trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi).
14


3. So sánh các chi tiết nghệ thuật hoặc những câu nói đặc sắc thể hiện tư
tưởng của tác phẩm.
Đề 1:
Cảm nhận của anh (chị) về chi tiết “bát cháo hành” mà nhân vật Thị Nở
mang cho Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao) và chi tiết “ấm nước đầy và nước
hãy còn ấm” mà nhân vật Từ dành sẵn cho Hộ (Đời thừa – Nam Cao).
(Đề thi tuyển sinh đại học khối D năm học 2010-2011.
Đề 2:
Cảm nhận của anh (chị) về chi tiết “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá!”
mà nhân vật Chí Phèo cảm nhận được sau đêm gặp thị Nở (Chí Phèo - Nam
Cao, Ngữ văn 11) và chi tiết “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi” mà

nhân vật Mị nghe được trong đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài,
Ngữ văn 12).
Đề 3:
Sau khi nhận được bát cháo hành từ tay Thị Nở, Chí Phèo bảo với thị:
- Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui. (Chí Phèo – Nam Cao – Ngữ
văn 11)
Trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân (Ngữ văn 12), sau khi
đãi người đàn bà bốn bát bánh đúc, Tràng cười và nói với thị:
- Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng
về. Cảm nhận của anh (chị) về ý nghĩa những câu nói trên.

II. Hướng dẫn học sinh cách làm các dạng đề
1. Ở dạng đề thứ nhất và dạng đề thứ hai có thể nhóm lại một cách làm
như sau:
a) Mở bài
15


- Dẫn dắt vấn đề (mở bài trực tiếp không cần)
- Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh
b) Thân bài
- Khái quát điểm chung của hai tác phẩm, hai nhân vật (Ví dụ: cùng nói về vẻ
đẹp khuất lấp thì phải nói rõ vẻ đẹp khuất lấp là gì, cùng nói về chủ nghĩa anh
hùng cách mạng thì phải làm rõ chủ nghĩa anh hùng cách mạng là gì hoặc nghệ
thuật miêu tả tương phản thì phải nói rõ nghệ thuật miêu tả tương phản là gì).
- Làm rõ đối tượng thứ nhất (kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là
phân tích) để làm rõ biểu hiện các mặt của đối tượng.
- Làm rõ đối tượng thứ hai (kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là
phân tích) để làm rõ biểu hiện các mặt của đối tượng.
- So sánh: nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện

nội dung và hình thức nghệ thuật (bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập
luận nhưng chủ yếu là phân tích và so sánh)
- Lí giải sự khác biệt (do bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại,
phong cách nhà văn...)
c) Kết bài:
- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu
- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân
2. Dạng đề thứ ba có thể làm như sau:
a) Mở bài
- Khái quát về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu và trích dẫn chi tiết, câu nói
b) Thân bài
- Làm rõ đối tượng thứ nhất về hai đặc điểm: nội dung và nghệ thuật
+ Sự xuất hiện chi tiết, câu nói
16


+ Chi tiết, câu nói có ý nghĩa gì
+ Giá trị nghệ thuật của chi tiết, câu nói
- Làm rõ đối tượng thứ hai về hai đặc điểm: nội dung và nghệ thuật
+ Sự xuất hiện chi tiết, câu nói
+ Chi tiết, câu nói có ý nghĩa gì
+ Giá trị nghệ thuật của chi tiết, câu nói
- So sánh điểm tương đồng và khác biệt
c) Kết bài:
- Đánh giá về giá trị của chi tiết hoặc câu nói
- Có thể nêu cảm nghĩ bản thân
III. Hướng dẫn cụ thể một số đề
Sau khi đưa ra các dạng đề, hướng dẫn học sinh cách làm dạng đề đó, tôi
hướng dẫn học sinh một số đề tiêu biểu. Đương nhiên là không phải giáo viên

làm cho học sinh mà giáo viên chỉ đưa ra đề, gợi ý cho học sinh và để cho học
sinh phát huy sự chủ động, sáng tạo của mình bằng cách phát biểu xây dựng dàn
ý, sau đó giáo viên khái quát thành các ý chính.
1. Ở dạng đề thứ nhất và thứ hai tôi hướng dẫn cụ thể đề
sau: Đề bài:
Vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng qua hai tác phẩm “Rừng xà
nu”của Nguyễn Trung Thành và “Những đứa con trong gia đình”của Nguyễn
Thi.
Hướng dẫn:
a) Mở bài:
- Dẫn dắt vấn đề
- Giới thiệu về hai tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” và “Rừng xà
nu” và chủ nghĩa anh hùng cách mạng qua hai tác phẩm.
17


b) Thân bài
* Những nét cơ bản của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam:
- Dũng cảm, kiên cường, bất khuất trong cuộc đấu tranh gìn giữ đất nước
- Sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc, nhân dân
- Giàu tình cảm với gia đình, với quê hương, với Tổ quốc
- Anh hùng, vĩ đại mà giản dị, khiêm nhường.
* Phân tích
1. “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành:
- Hình ảnh những cánh rừng xà nu bất diệt, vừa mang nghĩa tả thực vừa tượng
trưng cho con người Tây Nguyên:
+ Những cánh rừng xà nu bạt ngàn bị đạn đại bác của giặc tàn phá, xà nu mang
nhiều thương tích trên mình nhưng nó là loại cây có sức sống mãnh liệt, sinh sôi
nảy nở.
+ Cây xà nu tượng trưng cho số phận, phẩm chất của người dân Tây Nguyên:

tượng trưng cho những mất mát, đau thương, cho tấm lòng tha thiết yêu cách
mạng, sự bất khuất, kiên cường của người dân Tây Nguyên.
- Hình ảnh tập thể anh hùng làng Xô Man: Cụ Mết, Tnú, Dít, Heng…là những
con người anh dũng, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giàu tình
nghĩa với quê hương.
- Nhân vật Tnú- nhân vật chính, là biểu tượng, niềm tự hào của người dân Tây
Nguyên đánh Mĩ thể hiện những phẩm chất tiêu biểu của chủ nghĩa anh hùng
cách mạng: kìm nén đau thương, đi lực lượng để được cầm súng giết giặc và
chính Tnú đã dùng đôi bàn tay tàn tật của mình để bóp chết thằng chỉ huy đồn
giặc ở Xô Man.
2 .“Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi.
- Một gia đình nông dân Nam bộ giàu truyền thống yêu nước, yêu Cách mạng từ
ba, má, chú Năm đến chị em Chiến, Việt.
18


- Nhân vật chính: Việt, Chiến thể hiện những phẩm chất của chủ nghĩa anh hùng
Cách mạng: anh dũng, kiên cường, sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc, căm thù giặc
sâu sắc, giàu tình cảm với quê hương và Cách mạng.
- Có sự kế thừa và phát huy giữa khúc sông trước: ba, má, chú Năm và khúc
sông sau: Việt, Chiến. Khúc sông sau Việt, Chiến chảy xa hơn, mạnh hơn khúc
sông trước.
3. Sự tương đồng và khác biệt:
- Tương đồng: Đều trát lên những phẩm chất của chủ nghĩa anh hùng thời đại
chống Mĩ cứu nước: anh dũng, kiên cường, sẵn sàng xả thân vì đất nước, giàu
tình cảm với gia đình, quê hương và Cách mạng. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng
biểu hiện qua nhiều thế hệ, mang tính truyền thống dân tộc, cả hai tác phẩm thế
hệ đi sau đều đang kế thừa xuất sắc truyền thống yêu nước, cách mạng của thế
hệ đi trước.
- Khác biệt:

+ Số phận một con người gắn với buôn làng trong chặng đường đau thương mà
anh dũng của làng Xô Man anh hùng trong “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung
Thành.
+ Câu chuyện về một gia đình Nam bộ giàu truyền thống cách mạng, thế hệ
những đứa con đang tiếp nối truyền thống của gia đình một cách xứng đáng qua
nhân vật Việt - Chiến. Sự gắn bó giữa gia đình với đất nước, dân tộc và nhân
loại.
c) Kết bài:
- Khái quát chung về vẻ đẹp chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam qua hai
tác phẩm.
- Suy nghĩ của bản thân.
2. Ở dạng đề thứ ba tôi hướng dẫn đề
sau: Đề bài:
19


Cảm nhận của anh/chị về chi tiết “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá!”
mà nhân vật Chí Phèo cảm nhận được sau đêm gặp thị Nở (Chí Phèo - Nam
Cao, Ngữ văn 11) và chi tiết “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi” mà
nhân vật Mị nghe được trong đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài,
Ngữ văn 12)
Hướng dẫn:
a) Mở bài: Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và chi tiết
- Nam Cao, cây bút hiện thực xuất sắc và thấm đẫm tinh thần nhân đạo. “Chí
Phèo” (1941) là kiệt tác đã kết tinh cao nhất cho đặc điểm nghệ thuật của nhà
văn. Chi tiết “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá!” là một trong những chi tiết
đặc sắc thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm.
- Tô Hoài là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông đã đạt
nhiều thành tựu rực rỡ khi viết đề tài miền núi, trong đó có tác phẩm “Vợ chồng
A Phủ” . Thể hiện rõ điều đó có lẽ phải kể đến chi tiết “Mị nghe tiếng sáo vọng

lại, thiết tha bổi hổi”.
b) Thân bài
1. Về chi tiết “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá!” trong tác phẩm Chí
Phèo
của Nam Cao:
- Về nội dung:
+ Cuộc gặp gỡ bất ngờ với Thị Nở và trận ốm đã làm cho con quỷ dữ có sự thay
đổi hẳn cả về tâm sinh lí.
+ Từ khi đi tù về đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm Chí hết say, hoàn toàn
tỉnh táo và có được một khoảng ngưng lặng để nghe được những âm thanh quen
thuộc của cuộc sống. Những âm thanh ấy chính là tiếng gọi tha thiết của cuộc
sống trong anh.
+ Âm thanh đó đã đánh thức trong Chí những cảm xúc của con người. Chí nhớ
về quá khứ, ý thức được hiện tại và nghĩ đến tương lai.
20


- Về nghệ thuật:
+ Là chi tiết quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa
sâu sắc nét tính cách tâm lí và bi kịch của nhân vật.
+ Tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc bất ngờ của ngòi bút Nam Cao,
nhà văn thấy được phẩm chất con người, tính người bên trong con người tưởng
như đã trở thành quỷ dữ.
2. Về chi tiết “Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi” mà nhân vật Mị
nghe được trong đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài)
- Về nội dung:
+ Mùa xuân trên miền núi Tây Bắc được miêu tả rất đẹp, sắc màu của những
chiếc váy hoa, tiếng cười nói của đám trẻ chơi quay đợi tết, đặc biệt là tiếng sáo
da diết xoáy sâu vào trái tim tưởng như băng giá của Mị.
+ Mị nhớ về quá khứ; nhận thức được hiện tại, thấm thía thân phận và dẫn đến

hành động (uống rượu, lấy váy hoa để đi chơi,…)
+ Âm thanh đó đã làm thức dậy trong Mị ý thức về tình yêu, hạnh phúc và lòng
khát khao cuộc sống tự do.
- Về nghệ thuật:
+ Là một chi tiết góp phần làm thay đổi trạng thái tâm lí của nhân vật.
+ Tài nghệ miêu tả tâm lí sống động cũng như tấm lòng nhân đạo (phát hiện ra
sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị) của nhà văn.
3. So sánh:
- Sự tương đồng:
+ Đó là những âm thanh hết sức diệu kì, nó len lỏi vào tận sâu tâm hồn vốn
tưởng như đã chết của nhân vật để khơi dậy trong họ niềm ham sống và khát
khao sống mãnh liệt.
+ Đấy cũng chính là những chi tiết đặc sắc góp phần khẳng định giá trị nhân đạo
sâu sắc mới mẻ trong hai tác phẩm.
21


- Sự khác biệt:
+ Ở tác phẩm Chí Phèo là những âm thanh quen thuộc của cuộc sống xung
quanh “hôm nào chả có” nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy vì bây giờ mới hết
say...đây là âm thanh của khát khao được sống, được làm người lương thiện của
một người không có quyền làm người.
+ Chi tiết ở tác phẩm Vợ chồng A Phủ đến trong mùa xuân trên bản Hồng Ngài
là âm thanh Mị từng nghe thủa chưa về nhà Thống Lí Phá Tra. Đây là tác nhân
quan trọng giúp cho Mị từ một con người tê dại, vô cảm về tâm hồn giờ đã
“thấy phơi phới trở lại”.
c) Kết bài:
Đánh giá lại giá trị của chi tiết: là những chi tiết đặc sắc, góp phần thể
hiện chiều sâu tâm trạng của nhân vật, đồng thời cũng thể hiện cái nhìn nhân đạo
của hai nhà văn: Nam Cao và Tô Hoài.

IV. Hướng dẫn học sinh luyện tập
Giáo viên nếu chỉ khái quát, hướng dẫn mà không yêu cầu học sinh luyện
tập thì các em sẽ không bao giờ khắc sâu được kiến thức nên sau mỗi phần học
không chỉ là ôn tập dạng đề so sánh phần văn xuôi, tôi đều yêu cầu học sinh
luyện tập. Trong giảng dạy cũng như luyện tập, tôi luôn chú ý đến đổi mới
phương pháp, cách thức để tạo ra sự hứng khởi cho học sinh. Chẳng hạn như sau
khi học xong phần : thơ, kí, kịch, văn xuôi...tôi hướng dẫn học sinh luyện tập
bằng những cách khác nhau. Có phần tôi vận dụng phương pháp khăn phủ bàn
để ôn luyện, mỗi nhóm một tờ Ao, các thành viên lập dàn ý vào các ô bên cạnh
và sau khi thống nhất thì ghi dàn ý ra ô lớn ở giữa tờ giấy. Hoặc vận dụng
phương pháp sơ đồ tư duy, mỗi nhóm lập dàn ý bằng sơ đồ tư duy...sau đó giáo
viên nhận xét, bổ sung. Có phần tôi vận dụng phương pháp thảo luận nhóm, mỗi
nhóm một đề, thảo luận, đại diện trình bày, giáo viên nhận xét, đánh giá, bổ
sung. Với những cách làm như vậy học sinh sẽ không thấy nhàm chán trong các
phần ôn tập mà lại phát huy được sự sáng tạo của học sinh. Với việc luyện tập
dạng đề so sánh phần văn xuôi tôi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm. Tôi
22


chia lớp thành 2 nhóm, mỗi nhóm một đề tiêu biểu, học sinh thảo luận, lập dàn
ý, sau đó đại diện trình bày. Cụ thể như sau :
Đề 1 : (Nhóm 1) : Lập dàn ý cho đề sau
Cảm nhận của anh (chị) về những vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người vợ
nhăt (Vợ nhặt – Kim Lân) và nhân vật người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền
ngoài xa- Nguyễn Minh Châu).
Đề 2 : (Nhóm 2) : Lập dàn ý cho đề sau
Sau khi nhận được bát cháo hành từ tay Thị Nở, Chí Phèo bảo với thị:
- Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui. (Chí Phèo – Nam Cao –
Ngữ văn 11)
Trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân (Ngữ văn 12), sau khi

đãi người đàn bà bốn bát bánh đúc, Tràng cười và nói với thị:
- Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng
về. Cảm nhận của anh (chị) về ý nghĩa những câu nói trên.
Sau khi đại diện của nhóm trình bày, tôi yêu cầu các nhóm khác nhận xét,
bổ sung. Cuối cùng, tôi nhận xét những ưu điểm, hạn chế và chốt lại những
điểm cơ bản của đề mà học sinh cần phải làm sáng tỏ.
Dàn ý đề 1 :
a) Mở bài:
- Dẫn dắt vấn đề
- Giới thiệu về hai tác giả, hai tác phẩm và hai nhân vật: người vợ nhặt và người
đàn bà hàng chài họ đều tiềm ẩn những vẻ đẹp khuất lấp.
b) Thân bài
* Khái quát về vẻ đẹp khuất lấp
Là vẻ đẹp tiềm ẩn bị che lấp bởi hoàn cảnh. Cả người vợ nhặt và người
đàn bà hàng chài đều ẩn chứa những vẻ đẹp khuất lấp, đằng sau cái vẻ xấu xí,
23


rách rưới ...là những con người hiền hậu, biết điều, ý tứ, giàu đức hi sinh, thấu
hiểu lẽ đời.
* Phân tích
1) Nhân vật người vợ nhặt:
- Giới thiệu chung: Tuy không được miêu tả thật nhiều nhưng người vợ nhặt vẫn
là một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc họa
sống động, theo lối đối lập giữa bề ngoài và bên trong, ban đầu và về sau.
- Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu:

+ Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, là một lòng ham sống mãnh liệt.
+ Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáng, lại là một người biết điều, ý tứ.
+ Bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, lại là một người phụ nữ hiền hậu,

đúng mực, biết lo toan.
2) Nhân vật người đàn bà hàng chài
- Giới thiệu chung : Là nhân vật chính có vai trò quan trọng với việc thể hiện tư
tưởng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc họa sắc nét theo lối tương phản
giữa bề ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất.
- Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu :
+ Bên trong ngoại hình xấu xí, thô kệch là một tấm lòng vị tha, độ lượng, giàu
đức hi sinh.
+ Phía sau vẻ cam chịu, nhẫn nhục là một người có khát vọng hạnh phúc, can
đảm và cứng cỏi.
+ Phía sau vẻ quê mùa, thất học lạo là một người phụ nữ thấu hiểu, sâu sắc lẽ
đời.
3) Sự tương đồng và khác biệt
- Tương đồng:

24


Cả hai nhân vật đều là những thân phận nhỏ bé, nạn nhân của hoàn cảnh.
Vẻ đẹp đáng trân trọng của họ đều bị đời sống cơ cực, lam lũ làm khuất lấp. Cả
hai đều được khắc họa bằng những chi tiết chân thực.
- Khác biệt:
+ Vẻ đẹp thể hiện ở nhân vật người vợ nhặt chủ yếu là những phẩm chất của
một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh trong nạn đói
thê thảm.
+ Vẻ đẹp được khắc sâu ở người dần bà hàng chài là những phẩm chất của một
người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính, trong tình
trạng nạn bạo lực gia đình.
4) Lý giải sự khác biệt:
+ Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển, biến

đổi từ thấp đến cao (cảm hứng lãng mạn), trong khi đó người đàn bà hàng chài
lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại (cảm hứng thế sự đời tư trong khuynh hướng nhận thức lại).
+ Sự khác biệt giữa quan niệm con người giai cấp (Vợ nhặt) với quan niệm con
người đa dạng, phức tạp (Chiếc thuyền ngoài xa) đã tạo ra sự khác biệt này.
* Kết bài:
- Khái quát hai nhân vật: Hai người phụ nữ ở hai thời đại nhưng đều mang
những vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
- Suy nghĩ của bản thân.
Dàn ý đề 2:
a) Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về hai tác giả, hai tác phẩm.
- Giới thiệu và trích dẫn hai câu nói.
b) Thân bài:
25


×