Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SKKN tìm hiểu thể loại truyền thuyết trong truyện an dương vương và mị châu trọng thuỷ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.64 KB, 25 trang )

MỤC LỤC

1. Lời giới thiệu

1

2. Tên sáng kiến

1

3. Tác giả sáng kiến

1

4. Chủ đầu tư sáng kiến

1

5. Lĩnh Vực sáng kiến

1

6. Ngày đầu được áp dụng sáng kiến

2

7. Mô tả bản chất của sáng kiến

2

7.1 .Đặt vấn đề


7.1. 1. Lí do lựa chọn đề tài

2

7.1.2. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu

2

7.1.3 Mục đích nghiên cứu

2

7.1.4. Phương pháp nghiên cứu

3

7.1.5 Nhiệm vụ nghiên cứu

3

7.1.6 Thời gian, địa điểm nghiên cứu

3

7.2. Nội dung

3

7.2.1.Cơ sở lí luận


3

7.2.2. Cơ sở thực tiễn

6

7.3. Thiết kế giáo án dạy học tác phẩm

13

7.4.Kết quả cụ thể

19

7.5. Kết luận và đề xuất

20

7.5.1.Kết luận

20

7.5.2. Đề xuất

20

1


8.Những thông tin cần được bảo mật


20

9.Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến

20

10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến

20

10.1. Đánh giá lợi ích thu được được do áp dụng sáng kiến theo

20

ý kiến của tác giả:
10.2. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến
của tổ chức, cá nhân

2

21


3


BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Là một giáo viên, hẳn không ai trong chúng ta không mong muốn một ngày

nào đó những lớp học sinh thân yêu gặt hái thành công trong học tập, đặc biệt là đối
với các giáo viên dạy môn Ngữ văn ở trường phổ thông. Có thể nói , môn Ngữ văn
là một trong hai môn học chính trong nhà trường , thế nhưng hiện nay học sinh có
phần lơ là đối với việc học văn . Vậy làm thế nào để học sinh yêu thích môn học
này thì người quyết định chính là giáo viên trực tiếp giảng dạy phải lựa chọn được
phương pháp thích hợp , đổi mới phương pháp dạy học. Làm thế nào để học sinh
đạt kết qủa cao nhất trong môn Ngữ văn? Một câu hỏi lớn vốn là sự trở trăn của
những nhà giáo dục có tâm huyết.
Xuất phát từ mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá theo
hướng phát triển năng lực học sinh trên tinh thần về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo về việc hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn về đổi mới phương pháp
dạy học và kiểm tra, đánh giá qua các bước như sau: xây dựng chuyên đề dạy học;
biên soạn câu hỏi/bài tập; thiết kế tiến trình dạy học; tổ chức dạy học và dự giờ;
phân tích, rút kinh nghiệm bài dạy. Xuất phát từ thưc tiễn giảng dạy : Năm học
2018-2019, tôi đã vận dụng phương pháp tiếp cận truyền thuyết theo đặc trưng thể
loại để học sinh chủ động tiếp cận tác phẩm tốt hơn. Cũng qua đó, chúng ta mới
đánh giá được năng lực của từng đối tượng để có phương pháp hỗ trợ các em trong
quá trình thâm nhập bài học.
2. Tên sáng kiến
“ Tìm hiểu thể loại truyền thuyết trong Truyện An Dương Vương và Mị ChâuTrọng Thuỷ ”
3. Tác giả sáng kiến
- Họ và tên: Hoàng Thị Hồng
- Địa chỉ: Yên Thạch – Sông Lô – Vĩnh Phúc
- Số điện thoại: 0972 208 933
- Email:
4. Chủ đầu tư sáng kiến
Họ và tên: Hoàng Thị Hồng
5. Lĩnh Vực áp dụng sáng kiến
- Dạy học Ngữ văn
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu

Ngày 8 tháng 9 năm 2018.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
4


- Nội dung của sáng kiến:
7.1. Đặt vấn đề
7.1.1. Lý do chọn đề tài
- Xuất phát từ thực tiễn giảng dạy: Năm học 2018-2019 tôi đã vận dụng phương
pháp tiếp cận truyền thuyết theo hướng tích cực. Trong quá trình thực hiện dạy ,
bản thân tôi nhận thấy mỗi tác phẩm văn học là một chỉnh thể có sự kết hợp hài hòa
giữa nội dung và nghệ thuật. Đến với một tác phẩm văn học không thể từ một cái
nhìn phiếm diện mà đưa ra được cái nhìn chính xác về giá trị của tác phẩm
- Căn cứ trên các yếu tố cụ thể của nội dung và nghệ thuật của tác phẩm để đánh
giá giá trị của tác phẩm văn học là một việc làm bắt buộc mang tính khoa học.
- Thể loại của tác phẩm văn chương là một căn cứ rất quan trọng để từ đó xem xét,
bình giá tác phẩm văn chương. Dạy học tác phẩm văn chương cần khai thác triệt
để đặc điểm của loại thể để. Bám vào loại thể của tác phẩm văn chương sẽ thấy
được một cách rõ ràng về giá trị của tác phẩm và từ đó, có hướng triển khai dạy học
về tác phẩm chính xác, khoa học.
- Thưc tiễn dạy học ở trường phổ thông cho thấy một số hạn chế. Nhiều giáo viên
chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của việc dạy học tác phẩm theo loại thể, và
không phải giáo viên nào cũng nắm chắc vấn đề loại thể văn học dẫn đến lúng túng
trong soạn giáo án và giảng dạy. Để đạt hiệu quả cao nhất trong việc dạy học văn
thì phải tiến hành sao cho phù hợp với đặc trưng bộ môn vừa là một môn khoa học
vừa là một môn nghệ thuật. Muốn thực hiện được như vậy đòi hỏi mỗi giáo viên
phải xác định dạy học theo thể loại là vấn đề mấu chốt trong dạy học tác phẩm văn
chương nắm chắc các đặc trưng của thể loại.
- Trong chương trình Ngữ văn 10, truyện dân gian chiếm vị trí quan trọng, Việc dạy
truyện dân gian như thế nào để các em có thể cảm hiểu sâu sắc ý nghĩa truyện và

nghệ thuật kể chuyện, trên cơ sở đó khi thác các tác phẩm truyện sau này có kết cấu
phức tạp hơn đạt hiệu quả tốt là cả một vấn đề lớn. Là một giáo viên dạy lớp 10, tôi
thấy được rất rõ vai trò của bộ phận văn học truyện dân gian và vấn đề dạy tác
phẩm truyện dân gian theo đặc trưng thể loại
Xuất phát từ những lí do trên , tôi chọn đề tài “Tìm hiểu thể loại truyền
thuyết trong Truyện An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy ”
7.1.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 10 – THPT Sáng Sơn.
-Tác phẩm “Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy” trong chương
trình ngữ văn 10
7.1.3. Mục đích nghiên cứu
5


Đọc hiểu các tác phẩm truyện nói chung và truyện dân gian nói riêng, hiểu sâu về
truyện “Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy”
7.1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
-Phương pháp: thống kê, đối chiếu, phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp gợi mở
- Phương pháp thực nghiệm trên lớp học.
7.1.5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống các kiến thức về đặc trưng loại thể truyện,Từ đó chỉ ra hướng tiếp cận
hướng “Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy”
7.1.6. Thời gian- địa điểm nghiên cứu.
Thời gian nghiên cứu: Từ tuần 2 đến tuần 6 năm học 2018- 2019.
Địa điểm nghiên cứu: Tại trường THPT Sáng Sơn phân hiệu 2
7.2. NỘI DUNG
7.2.1.CƠ SỞ LÍ LUẬN:
7.2.1.1 Các khái niệm

- Các tác phẩm trong kho tàng văn học luôn có những nét chung về nội dung
và nghệ thuật. Có nét chung rộng hơn, có nét chung hẹp hơn. Nội dung tác phẩm có
thể thay đổi không ngừng nhưng các nét chung này vẫn ít nhiều có tính ổn định.
Đây là cơ sở và điều kiện để phân chia tác phẩm văn học thành các loại thể.
- Loại thể là những nét chung về mặt cấu tạo nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm. (Tất nhiên ranh giới giữa các loại thể không phải lúc nào cũng rạch ròi)
Việc phân chia loại thể là kết quả của sự trừu tượng hoá, khái quát hoá thực
tế tác phẩm sinh động. Nó giúp ích cho việc phân tích, nhận thức và cảm thụ từng
tác phẩm cụ thể riêng lẻ.
-Tiêu chuẩn và căn cứ hợp lí nhất để phân chia thể loại văn học chính là
phương thức kết cấu tác phẩm văn học, trước hết là kết cấu hình tượng hoặc hệ
thống hình tượng của tác phẩm.
Nếu hình tượng thiên nhiều về mặt biểu hiện tư tưởng , tình cảm của tác giả,
ta sẽ có tác phẩm trữ tình.
Nếu hình tượng thiên về mặt phản ánh con người, sự việc trong cuộc sống, ta
sẽ có tác phẩm tự sự
Tác phẩm tự sự tập trung, cô đọng đến mức độ bản thân nhân vật, sự việc,
câu chuyện có thể tự mình bộc lộ không cần người dẫn chuyện ta sẽ có tác phẩm
kịch
Trong lòng mỗi loại và trên biên giới của các loại sẽ nảy sinh rất nhiều thể
khác nhau.
6


-Nhưng thực tế sự phân chia trên là có tính chất tương đối. Tác phẩm thì rất
sinh động, các loại tự sự, trữ tình, kịch thường xâm nhập vào nhau để thể hiện khả
năng vô tận trong việc miêu tả hiện thực và bộc lộ nội tâm con người (ta vân
thường nghe nói: thiên truyện, vở kịch này giàu chất thơ, hoặc bài thơ, thiên truyện
kia giàu kịch tính là vậy. Ví dụ: Truyện Kiều là tự sự, là kể chuyện nhưng không
phải là kể chuyện lạnh lùng như Lep Tônxtôi kể Chiến tranh và hoà bình. Nguyễn

Du đã không thể kìm được lòng mình bộc lộ ra trên trang sách, ông thương ai, ghét
ai, vui gì, buồn gì… qua kể có thể thấy rõ thái độ. Nhìn Thuý Kiều bị Tú Bà đánh,
Nguyễn Du xuýt xoa đau đến tận gang ruột:
Thịt da ai cũng là người
Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau!
Và không chỉ như vậy, yếu tố trữ tình còn bộc lộ ở tâm trạng của nhân vật chính.
Câu nói của Kiều mà cũng là câu nói của Nguyễn Du cất lên như một tiếng than
đầy nước mắt của bao số kiếp thương đau:
Đau đớn thay phận đàn bà
Tuy nhiên việc nhấn mạnh tính tướng đối của loại thể không được dẫn đến sự
đánh đồng, xoá nhoà mọi sự khác nhau về loại thể
Mô hình
Trữ tình

Loại
(loại hình)

Tự sự

Kịch
7.2.1.2. Đặc điểm thể loại truyện, hướng khai thác và các ví dụ cụ thể:
* Đặc điểm của thể truyện:
- Có câu chuyện, tình tiết (sự việc, biến cố đang vận động phát triển)
- Nhân vật, sự tồn tại và hoạt động của nhân vật giữa hệ thống các sự việc, các biến
cố của cốt truyện.
- Lời kể của tác giả hay của người kể chuyện như là cái nền ngôn ngữ trên đó dệt
nên hình tượng của tác phẩm tự sự, đồng thời cũng là nơi bộc lộ tư tưởng, tình cảm,
cá tính, phong cách của nhà văn.
Phân tích truyện phải nắm vững được sự phát triển của tình tiết trong tác
phẩm, tức là nắm được cốt truyện; cảm thụ sâu sắc, đánh giá đúng đắn nhân vật

7


trong tác phẩm; cảm và hiểu được cái ý vị trong lời kể của tác giả (hay của người
kể chuyện).
* Phương pháp giảng dạy truyện:
- Làm cho HS nắm vững được sự phát triển của tình tiêt trong tác phẩm,
tức là nắm được cốt truyện.
+ Đối với truyện dân gian, yêu cầu hS nắm tình tiết bằng cách kể lại. Truyện dân
gian có cốt truyện đơn giản mà hấp dẫn, học sinh sẽ đễ nhớ cốt truyện. Học sinh có
thể kể bằng lời nói, văn viết, kể theo sát lời kể trong sách hoặc theo sự sáng tạo
trong ngôn ngữ của mình.
+ Phân tích các chặng đường phát triển của tình tiết.
- Cảm thụ, đánh giá sâu sắc nhân vật:
Nhân vật là nơi tập trung biểu hiện tư tưởng, tình cảm của tác phẩm và tác
giả. Nhân vật là hình tượng của những con người đang sống, suy nghĩ, cẩm xuác,
hành động, có quá trình, có vận mệnh, bản sắc, tính cách. Phải gắn liền nhân vật
với tình tiết.
+ Phân tích nhân vật không chỉ bình xét, đánh giá, mà cần tìm trong lai lịch,
diện mạo, ý nghĩ, cảm xúc, cử chỉ, hành động, thái độ để phát hiện ra mỗi vấn đề,
mỗi bài học.
+ Nhân vật trong truyện dân gian nhiều khi mang những tính cách rât sinh
động và ý nghĩa thâm trầm sâu sắc. Cho học sinh nhận xét, phê phán về những
nhân vật như An Dương Vương , Mị Châu, có thể giúp các em rút ra bài học về tinh
thần cảnh giác…
+ Quá trình phân tích nhân vật phải đi từ cụ thể đến khái quát.
+ Cho học sinh lưu ý đến các chi tiết miêu tả, tự sự, nhận xét về nhân vật
trong bài văn.
+ Phát hiện và ựa chọn các chi tiết tiêu biểu, sắp xếp phân loại chúng theo
trình tự hợp lí nhằm làm sáng tỏ tính cách của nhân vật.

+ Cuối cùng tổng hợp các mặt phân tích về nhân vật thànhmột nhận định
khái quát, nêu bật được ý nghĩa, tác dụng nhận thức cũng như giáo dục của nhân
vật, gợi ra những vấn đề liên hệ, suy nghĩ, thảo luận, tranh luận về nhân vật.
- Làm cho học sinh cảm và hiểu được cái ý vị trong lời kể của tác giả (hay
người kể chuyện):
Cảm hiểu được cái hay trong lời kể như tự nhiên, nhuần nhị, sinh động,
truyền cảm. Cảm nhận lời kể xen với lờì tả, lời bình…Người đọc phải tưởng tượng
ra nhờ sự khơi gợi của lời kể.
Lời kể có thể vừa miêu tả được thế giới bên ngoài vừa khắc họa được sự vận
động nội tâm thầm kín bên trong. Nên khi phân tích lời kể cần chỉ ra được sức
8


mạnh gợi tả của ngôn ngữ, chỉ rõ các từ ngữ câu văn cách viết, lối kể đã làm hiển
hiện được cảnh, việc, nười như thế nào và đồng thời làm rõ được xúc cảm ra sao.
Tóm lại, kết quả và thành công của việc giảng dạy truyện không chỉ ở việc
nắm vững đặc trưng và cách đọc hiểu truyện, mà còn phụ thuộc vào năng lực
hướng dẫn cảm thu văn chương của giáo viên và năng lực cảm thụ của Hs
* Đặc trưng của truyện truyền thuyết:
- Truyền thuyết là thể loại tự sự dân gian kể về các sự kiện và nhân vật
lịch sử(hoặc có liên quan đến lịch sử) theo hướng lí tưởng hóa, thể hiện sự
ngưỡng mộ, tôn vinh đối với những người có công đối với đất nước.
- Cốt truyện của truyền thuyết gắn với cốt lõi lịch sử, nhưng đó không phải là
sự ghi chép lịch sử một cách khô cứng , mà đằng sau việc phản ánh những sự kiện,
nhân vật lịch sử là thái độ tình cảm, cách đánh giá của nhân dân. Đó là lịch sử được
phản hiếu qua lăng kính nghệ thuật của nhân dân, có chức năng nhận thức và thẩm
mĩ to lứn.Cốt lõi lịch sử và yếu tố hư cấu tưởng tượng là hai đặc trưng không thể
thiếu của truyền thuyết dân gian.
- Nhân vật truyền thuyết là do lịch sử tạo ra, nhưng cũng không phải là bản
sao của nhân vật lịch sử, mà mang ý nghĩa biểu trưng cho lịch sử khái quát của dân

tộc. Hoặc có những nhân vật có thật trong lịch sử vừa phản ánh hiện thực vừa lí
tưởng hóa hân vật qua đóa gửi gắm thái độ, tình cảm của người dân.
- Các mô-típ quen thuộc trong truyện truyền thuyết khi xây dựng hình tượng
nhân vật như: Hoàn cảnh xuất thân , sinh nở thần kì hoặc có đăc điểm lạ trên cơ
thể, hoặc tài năng nhân vât…Sự nghiệp nhân vật chính thường có vũ khí thần kì,
chiến công lớn.. Kết thúc nhân vật thường hóa thân, được thờ phụng, gia phong…
7.2.2.Cơ sở thực tiễn
7.2.2.1 Vận dụng tri thức về dạy học tác phẩm Truyền thuyết: “Truyện An
Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ”:
“Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ” là một trong những
truyền thuyết tiêu biểu hấp dẫn và có ý nghĩa nhất trong chuỗi truyền thuyết về Âu
Lạc và An Dương Vương trong kho tàng văn học dân gian phong phú của dân tộc
ta. Trong tác phẩm, bằng chí tưởng tượng phong phú, kết hợp giữa những yếu tố hư
cấu với các yếu tố lịch sử, ông cha ta đã đưa ra cách lí giải của riêng mình về
nguyên nhân mất nước Âu Lạc; bày tỏ tình cảm, thái độ và cách đánh giá về An
Dương Vương, Trọng Thuỷ, Mị Châu, những nhân vật của một thời kì lịch sử.
Đồng thời, thông qua tác phẩm, ông cha ta cũng để lại những bài học lịch sử cho
con cháu muôn đời trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

9


7.2.2.2 Về nhân vật An Dương Vương.
a. Công lao, vài trò của An Dương Vương trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
đất nước Âu Lạc.
An Dương Vương vừa là một vị vua có thực trong cổ sử Việt Nam, vừa là
nhân vật gắn với nhiều hư cấu li kì trong truyền thuyết. Truyền thuyết kể lại rằng,
Hùng Vương thứ 18 thấy Thục Phán là người có tài, nghĩ mình không có con trai,
nên theo lài khuyên của Sơn Tinh đã truyền lại ngôi báu cho Thục Phán. Cũng theo
truyền thuyết, sau khi được truyền ngôi báu, An Dương Vương đã dời đô từ vùng

núi Nghĩa Lĩnh về vùng đồng bằng Cổ Loa. Việc làm đó đã thể hiện ý chí và quyết
sách sáng suốt của An Dương Vương, thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của nhà vua.
(Bởi về đồng bằng là xu thế tất yếu trong sự phát triển của đất nước. Đồng bằng với
đất đai màu mỡ, nguồn nước dồi đào, thuận lợi cho việc trồng lúa nước. Đồng bằng
với sông ngòi ngang dọc trùng xếp, đi thuyền, đi bộ đều dễ dàng. Nếu nội lực chưa
đủ mạnh thì rừng núi hiểm yếu chính là chỗ dựa an toàn nhất, nhưng muốn phát
triển thì rừng núi không phải là nơi đắc địa.)
Dời đô là quốc sách, nhưng cũng có nghĩa là phơi lưng ra giữa đồng bằng,
thách thức đối phương. An Dương Vương thấy trước mối đe doạ đó, nên ngay sau
khi quyết định dời đô về giữa Cổ Loa trống trải, người đã cho xây thành đắp lũy,
sẵn sằng phòng thủ giặc ngoại xâm. Công việc xây thành của nhà vua gặp rất nhiều
khó khăn, thành “hễ cứ đắp tới đâu lại lở tới đấy”, “tốn nhiều công sức mà không
thành” nhưng với lòng yêu nước, với bản lĩnh vững vàng, không sợ khó, sợ khổ,
không nản chí trước thất bại tạm thời, nhà vua đã không bỏ cuộc mà kiên trì, quyết
tâm xây thành giữ nước. Việc An Dương Vương lập đàn trai giới cầu đảo bách thần,
việc nhà vua đón mời cụ già có tướng lạ vào điện hỏi kế sách, ra tận cửa Đông đón
xứ Thanh Giang , dùng xe bằng vàng rước Rùa Vàng vào thành đã thể hiện quyết
tâm đó của nhà vua.
Được sự giúp đỡ của Rùa Vàng, An Dương Vương đã xây được Loa Thành
kiên cố, là thành trì vững chắc để chống lại kẻ thù xâm lược. Tuy nhiên, tồn tại
ngay giữa đồng bằng vắng vẻ, hơn ai hết An Dương Vương là người hiểu rõ, có
thành cao hào sâu cũng chưa chắc giúp được Âu Lạc đã chống lại được kẻ thù nếu
như không có vũ khí lợi hại. Đó cùng là điều mà nhà vua băn khoăn nhất sau khi
xây được Loa Thành. Cảm động trước tấm lòng vì dân, vì nước của nhà vua, Rùa
Vàng đã cảm động tháo vuốt của mình cho An Dương Vương để làm lẫy nỏ thần.
Vua lại sai Cao lỗ lào nỏ, lấy vuốt rùa làm lẫy thành nỏ thần có sức mạnh ghê gớm.
Nhờ có Quỷ Long Thành- một hệ thống phòng thủ vô cùng kiên cố, có “Linh quang
Kim thần cơ”, một loại vũ khí tấn công từ xa hiệu nghiệm, An Dương Vương đã
10



đánh tan quân Triệu Đà khi chúng sang xâm lược Âu Lạc, khiến chúng thua lớn
“chạy về Trâu Sơn đắp luỹ không dám đối chiến, bèn xin hoà”.
Phản ánh các sự kiện lịch sử có liên quan tới An Dương Vương trong truyền
thuyết, nhân dân ta đã phần nào kì ảo hoá các yếu tố lịch sử khách quan. Và chính
việc sáng tạo nên những yếu tố kì ảo đan xen với các yếu tố lịch sử đã khiến cho
câu chuyện thêm lung linh, kì ảo, tăng trính khái quát , ý nghĩa biểu trưng của các
chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm. Chi tiết nhà vua xây thành được rùa vàng giúp
đỡ, chi tiết rùa vàng cho vuốt để An Dương Vương chế tạo nỏ thần đã khẳng định
việc làm của An Dương Vương được làng dân, hợp lòng trời nên được cả thần và
người cùng giúp đỡ. Đó là một cách để nhân dân ta ngợi ca công đức của nhà vua,
tự hào về những chiến công và thành tựu của nhân dân thời Âu Lạc.
Như vậy ở phần đầu của tác phẩm, với vị trí là vua nước Âu Lạc, là người lãnh đạo
cao nhất của một quốc gia, An Dương Vương đã khẳng định vai trò và công lao to
lớn của mình trong buổi đầu xây dựng và bảo vệ đất nước. Là một vị vua yêu nước,
luôn có tinh thần trách nhiệm trước đất nước, nhà vua xứng đáng được nhân dân
đời đời mến phục ngợi ca.
b. Trách nhiệm của An Dương Vương trước bi kịch nước mất, nhà tan.
Bi kịch nước mất, nhà tan là trọng tâm trong phần thứ hai của tác phẩm. Trong
phần này, tác giả dân gian tập trung phản ánh và khắc hoạ những nguyên nhân dẫn
tới việc mất nước Âu Lạc và thể hiện thái độ, tình cảm của mình trước trách nhiệm
của mỗi nhân vật liên quan.
Về phía An Dương Vương, nhà vua là người xuất hiện từ đầu đến cuối tác
phẩm, là người có công lao to lớn trong sự nghiệp dựng nước nhưng cũng mắc sai
lầm nghiêm trọng, là một trong những nguyên nhân chính đẩy Âu Lạc rơi vào thảm
kịch ngàn năm Bắc thuộc, lịch sự không thể tha thứ.
Khi đánh giá trách nhiệm của An Dương Vương trong sự thất bại của Âu Lạc, một
số người cho rằng, An Dương Vương sai lầm ngay từ khi nhận lời cầu hôn của
Triệu Đà, gả con gái mình cho con trai hắn. Nhà vua đã chủ quan, mơ hồ không
nhận rõ âm mưu của kẻ thù xâm lược. Nhưng trong lịch sử Việt Nam và thế giới

cũng đã có không ít những cuộc hôn nhân chính trị như vậy mà mục đích thtường
là để mang lại sự bình an cho đất nước. Xưa, nhà Hán ở Trung Quốc có Chiêu
Quân cống Hồ,. Sau này, ở nhà Trần Việt Nam có Huyền Trân công chúa được gả
cho vua Chiêm Thành,... Như vậy có thể nói, trong chính trị, hôn nhân nhiều khi
chính là giao ước liên minh trong hoà bình, nhất là khi đó Âu Lạc đã từng trải qua
nhiều năm chiến tranh, một cuộc hôn nhân làm giảm bớt lửa binh đao chẳng phải là
hay hơn cho cư dân hai nước? An Dương Vương nhận lời cầu hôn của cha con
Triệu Đà ccó lẽ cũng vì hi vọng xây dựng một liên minh tốt đẹp trong hoà bình.
11


Tiếc rằng liên minh đó đã không thành bởi An Dương Vương thực lòng còn cha
con Triệu Đà lại có sẵn âm mưu xâm lược.
Một số người khắc lại cho rằng, An Dương Vương gả con gái mình cho
Trọng Thuỷ, lại nhận lời cho Thuỷ ở rể Âu Lạc là “nuôi ong tay áo”. Đó là sự mất
cảnh giác trầm trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho kẻ thù tự do vào thám thính đất
nước. Nhưng từ xưa đến nay nhiều tộc người trên mảnh đất Việt Nam này từng có
phong tục trọng mẫu, đàn ông lấy vợ phải ở rể bên nhà vợ. Phải chăng vì phong tục
đó mà Trọng Thuỷ có thể điềm nhiên sang ở nhà vợ - nước Âu Lạc, mà việc đó
không bị coi là khác thường? An Dương Vương đã nhận lời cầu hôn của người
phương Bắc thì cũng không thể tránh được việc phải làm theo phong tục phương
Nam, nhận rể ở ngay trong nhà mình. Nhưng nếu cho Trọng Thuỷ ở rể mà cả cha
con An Dương Vương đều cảnh giác, giữ kín bí mật quốc gia thì liệu âm mưu của
cha con Triệu Đà có điều kiện thực hiện được không? Vậy sai lầm của An Dương
Vương nghiêm trọng từ đâu? Nguyên nhân nào đã đưa Âu Lạc đến diệt vong và cha
con An Dương Vương bị “tan đàn, xẻ nghé”? Có thể nói, sai lầm nghiêm trọng nhất
của An Dương Vương là nhà vua đã quá chủ quan, khinh địch. Nhà vua không
những đã không giám sát, đề phòng Trọng Thuỷ khi hắn ở rể Âu Lạc mà khi hay tin
Đà phát binh đánh Âu Lạc, An Dương Vương ỷ vào sức mạnh của nỏ thần, vẫn
điềm nhiên ngồi đánh cờ, chủ quan tự mãn, cười mà nói rằng: “Đà không sợ nỏ

thần sao? Những sai lầm nghiêm trọng của người đứng đầu đất nước không còn cơ
hội sửa chữa. An Dương thảm bại. Nước Âu Lạc rơi vào tay Triệu Đà, muôn dân
chìm đắm trong kiếp nô lệ lầm than. Sự nghiệp dựng nước, công lao xây thành, chế
tạo vũ khí để giữ nước kết tinh tù trí tuệ, mồ hôi, công sức của muôn dân, vì sai lầm
của An Dương Vương, phút chốc tan tành. An Dương Vương đã phải bỏ cả thành
trì để chạy thoát thân, đem theo Mị Châu hi vọng giữ lại một chút hạnh phúc gia
đình. Nhưng nước đã mất thì nhà cũng tan, đến bước đường cùng, nhà vua cũng đã
được Rùa Vàng cho biết: “kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc”. Hành động của An
Dương Vương tuốt kiếm tự tay chém đầu con gái là hành động trừng phạt nghiêm
khắc,dứt khoát của An Dương Vương đứng về phía công lí và quyền lợi dân tộc để
trừng trị kẻ đắc tội với non sông. Đặt quyền lợi của quốc gia lên trên lợi ích của gia
đình, chứng tỏ nhà vua đã có sự tỉnh ngộ dù đó là sự tỉnh ngộ muộn màng, không
có gì còn có thể cứu vãn, nhưng chính trong cái giờ phút thử thách quyết liệt ấy,
càng khẳng định lòng yêu nước của nhà vua trước sau không thay đổi. Chính vì
vậy, tuy nhà vua có mất cảnh giác chính trị để đến nỗi “cơ đồ đắm bể sâu”, nhưng
trong tâm thức của dân gian, An Dương Vương vẫn mãi là một ông vua yêu nước,
được nhân dân đời đời mến phục, ngợi ca. Việc không để An Dương Vương Vương
tụ tử ở biển Đông như trong sử sách mà để thần Kim Quy hiện lên trao sừng tê bảy
12


tấc cho An Dương Vương rẽ nước đi xuống biến Đông, hoà vào cõi bất tử cùng non
sông, đất nước đã khẳng định tình cảm đó cua nhân dân ta đối với nhà vua.
7.2.2.3 Về nhân vật công chúa Mị Châu.
Mị Châu là con gái của An Dương Vương Thục Phán, là một cô công chúa lá
ngọc, cành vàng, có tâm hồn ngây thơ trong trắng, nhẹ dạ, cả tin và không có một
chú gì về ý thức công dân. Xuất hiện ở phần sau của tác phẩm, Mị Châu cũng là
người phải chịu trách nhiệm lớn trước bi kịch “nước mất nhà tan”.
Khi đánh giá về nhân vật này, đã xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau, người lên án, kẻ
bênh vực.

Những người bênh vực thì đã lấy đạo “tam tòng” (tại gia tòng phụ, xuất giá
tòng phu, phu tử tòng tử), một quan điểm đạo đức thời phong kiến để bênh vực cho
nàng. Theo họ, Mị Châu là người con gái hiền thục, trọn đạo hiếu, vâng lời cha lấy
chồng, lấy chồng thì một lòng tin yêu chồng. Sao có thể trách nàng mất cảnh giác
với cả chồng mình được? Vì vậy việc Mị Châu không giấu giếm Trọng Thuỷ điều
gì là vô tội. Nhưng họ đã quên rằng, trong một đất nước nhiều giặc giã, một nàng
công chúa lại chỉ biết làm trọn chữ “tòng” mà vô tình với vận mệnh quốc gia là có
tội. Mị Châu tin yêu chồng không có gì đáng trách nhưng nàng đã vi phạm nguyên
tắc “bí mật quốc gia” của một người dân đối với đất nước, đặt tình riêng lên trên
việc nước dù đó chỉ là do sự nhẹ dạ, vô tình. Nếu sự mất cảnh giác của ADV là
nguyên nhân gián tiếp thì sự nhẹ dạ, ngây thơ của Mị Châu là nguyên nhân trực
tiếp gây lên hoạ nước mất. Mị Châu tin yêu chồng bằng một tình yêu mù quáng.
Nhân dân ta đã sáng tạo nên hình ảnh áo lông ngỗng là chi tiết nghệ thuật tài tình
để thể hiện sáng rõ sự mù quáng đáng trách của Mị Châu. Trọng Thuỷ đánh tráo nỏ
thần, trước khi về nước đã hỏi Mị Châu: “Ta nay trở về thăm cha ... làm giấu.” Mị
Châu đáp: “Thiếp có ... làm dấu”. Trọng Thuỷ vừa về nước, chiến tranh hai nước
xảy ra, lẫy nỏ không còn, phải lên ngựa bỏ chạy cùng vua cha, lẽ ra phải biết đó là
âm mưu của Trọng Thuỷ, thế mà Mị Châu vẫn nhẹ dạ, mù quáng, không suy xét sự
tình, vẫn rắc lông ngỗng làm dấu, có khác gì chỉ đường cho giặc đuổi theo mình.
Việc làm đó của nàng đã trực tiếp dẫn tới bi kịch nhà tan. Vì vậy, không thể cho
rằng làm một người vợ thì Mị Châu phải tuyệt đối nghe và làm theo lời chồng.
Không thể cho rằng nàng là người vô tội, không phải chịu bất cứ trách nhiệm gì
trước bi kịch nước mất nhà tan. Tội lỗi của nàng là hết sức nặng nề. Chính vì vậy,
nhân dân ta không đánh giá nàng theo quan điểm đạo đức phong kiến thông thường
mà đứng trên quan điểm của quốc gia, dân tộc để kết tội nàng.Với những lỗi lầm
không thể tha thứ của một người dân đối với đất nước, nhân dân ta không những đã
để cho Rùa Vàng (đại diện cho công lí của nhân dân) kết tội đanh thép, không
13



khoan nhượng gọi nàng là giặc mà còn để cho Mị Châu phải chết dưới lưỡi kiếm
nghiêm khắc của vua cha.
Song thái độ, cách đánh giá của nhân dân vừa thấu tình, vừa đạt lí. Mị Châu có tội
nhưng những tội lỗi mà nàng gây ra không phải là chủ ý của nàng mà do nàng quá
nhẹ dạ, yêu chồng bị lừa dối mà mắc tội. Hơn nữa, cuối cùng, nàng cũng đã tỉnh
ngộ nhận ra kẻ thù và chấp nhận một cái chết đau đớn. Mị Châu có tội nàng đã phải
đền nhưng nỗi oan của nàng cũng cần được giải. Sáng tạo nên chi tiết thần kì, ứng
nghiệm với lời cầu khấn trước khi chết của Mị Châu, nhân dân ta đã bày tỏ thái độ
bao dung, niềm cảm thông mà minh oan cho nàng. Đồng thời, thông qua chi tiết
thần kì đó, ông cha ta cũng thể hiện thái độ nghiêm khắc của mình và truyền lại
một bài học lịch sử muôn đời cho con cháu trong việc giải quyết mối quan hệ riêng
- chung.
7.2.2.4.Nhân vật Trọng Thuỷ.
Trọng Thuỷ là một trong ba nhân vật chính của tác phẩm. Hắn là con trai của
Triệu Đà, con dể của An Dương Vương, là chồng của Mị Châu công chúa. Sang Âu
Lạc theo mưu kế nham hiểm của cha mình, Trọng Thuỷ lấy Mị Châu không phải vì
tình yêu mà chỉ để lợi dụng nàng thực hiện một mưu đồ chính trị, để hoàn thành
nhiệm vụ gián điệp được cha hắn giao phó mà thôi. Và với danh nghĩa một người
chồng, Trọng Thuỷ đã hoàn thành xuất sắc vai trò gián điệp ấy. Hắn đã lợi dụng Mị
Châu, lợi dụng sự nhẹ dạ, cả tin, lừa gạt tình cảm của nàng để đánh cắp nỏ thần và
nham hiểm hỏi Mị Châu một câu hỏi đầy dụng ý trước khi về nước với mục đích để
biết cách tìm đường đuổi theo An Dương Vương nếu nhà vua chạy trốn. Chính
những việc làm này của hắn là những nguyên nhân trực tiếp dẫn tới bi kịch nước
mất nhà tan của cha con An Dương Vương và nhân dân Âu Lạc. Hắn chính là kẻ
thù của nhân dân Âu Lạc, là một kẻ rất đáng bị vạch mặt, lên án, tội lỗi đời đời.
Tuy nhiên, xét ở một góc độ khác, Trọng Thuỷ cũng chỉ là nạn nhân của một
cuộc chiến tranh xâm lược. Trong tay của Triệu Đà, Trọng Thuỷ không hơn không
kém cũng chỉ là một con bài chính trị mà thôi. Hơn nữa, mặc dù là một kẻ độc ác,
Trọng Thuỷ cũng không phải hoàn toàn đã mất hết nhân tính của một con người.
Chính lời nói của Trọng Thuỷ với Mị Châu trong lúc chia tay, hành động tự vẫn sau

chuỗi ngày sống trong sự dày vò, ân hận của hắn đã nói lên điều đó
Trước lúc chia tay về nước dâng lẫy nỏ thần cho Triệu Đà, Trọng Thuỷ đã
nói với Mị Châu: “Tình vợ chồng ... làm dấu”. Đây không hoàn toàn là những lời
dối trá, lạnh lùng mà nó ẩn chứa ít nhiều tình cảm bùi ngùi, một nỗi đau li biệt.
Tính người của Trọng Thuỷ còn được thể hiện rõ hơn rất nhiều ở phần cuối
cùng của tác phẩm khi tác giả dân gian miêu tả tâm trạng của Trọng Thuỷ sau cái
chết của Mị Châu. Không đắm mình trong hào quang, danh vọng, trong hạnh phúc
14


của sự thống trị uy quyền, sau khi Mị Châu chết, Trọng Thuỷ luôn sống trong nỗi
niềm thương nhớ, trong nỗi ân hận dày vò và cuối cùng bế tắc, cùng đường hắn đã
tự tìm cho mình cái chết. Trọng Thuỷ quyên sinh không phải chỉ là hành động sám
hối cho một sai lầm mù quáng, mà còn là sự thức tỉnh của nhân tính, sự phủ nhận
chiến tranh, sự từ chối mọi vinh quang quyền lực tìm về với cõi thiên thu để có
được một tâm hồn thanh thản.
7.2.2.5. Suy nghĩ về mối tình Trọng Thuỷ - Mị Châu.
+ Mối tình Mị Châu – Trọng Thuỷ không phải là tình yêu lứa đôi đích thực.
+ Đó là một tình yêu bi kịch.
+Ý nghĩa: sáng tạo câu chuyện tình Mị Châu – Trọng Thuỷ ông cha ta nói
lên tiếng nói chống chiến tranh xâm lược.
7.2.2.6. Hình ảnh ngọc trai – giếng nước.
- Là hình ảnh đẹp, kết tinh của mối tình thuỷ chung Trọng Thuỷ - Mị Châu?
bởi viên ngọc (vốn là máu Mị Châu chảy xuống biển , trai ăn phải mà thành) đem
rửa vào nước giếng (nơi Trọng Thuỷ đã nhảy xuống tự tử) thì càng trong sáng hơn.
Thậm chí có nhà thơ đã từng viết: “ Nước mắt thành mặt trái của lòng tin – Tình
yêu đến cùng đường là cái chết – Nhưng người đẹp dẫu rơi đầu vẫn đẹp – Tình yêu
bị dối lừa vẫn nguyên vẹn tình yêu”. Có phải tình yêu bị lừa dối vẫn là một tình yêu
đẹp? Và phải chăng nàng Mị Châu trong trắng, thuỷ chung dẫu chết rồi vẫn chung
thuỷ không biết đến đổi thay? Trước khi chết, Mị Châu đã kịp nhận ra mình bị

Trọng Thuỷ lừa dối. Hơn nữa, sự nhẹ dạ của nàng đã phải trả giá rất đắt bằng chính
sinh mạng của nàng, sinh mạng của người cha thân yêu và số phận của cả dân tộc.
Vì vậy, nếu có kiếp sau, liệu Mị Châu có thể tiếp tục mù quáng mà chung tình với
một kẻ đã lừa mình như thế được không? Hơn nữa, trước khi chết, Mị Châu đã ý
thức được tội lỗi nặng nề của mình, nặng đến mức nàng không dám xin tha chết mà
chỉ xin được: “biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù”. Liệu sau một lần
tỉnh ngộ, nàng còn có thể nhanh quên tội, tiếp tục thuỷ chung với kẻ thù của mình
như vậy được không?
- Không phải là hình ảnh ngợi ca tình yêu Mị Châu – Trọng Thuỷ. Nó là:
+ Lời minh oan, chiêu tuyết cho Mị Châu.
+ Chứng nhận Trọng Thuỷ đã tìm được sự tha thứ trong tình cảm của Mị
Châu ở thế giới bên kia.
Như vậy, “ngọc trai – giếng nước” là hình ảnh mang ý nghĩa của sự hoá giải
hận thù, nói lên truyền thống ứng xử bao dung, đầy nhân hậu của dân gian đối với
hai nạn nhân tỉnh ngộ muộn màng của cuộc chiến tranh xâm lược.
7.2.2.7 Nghệ thuật
15


- Xây dựng nhân vật vừa gắn với “cốt lõi sự thật lịch sử” vừa lung linh yếu tố
hoang đường, kì ảo tạo nên “chất thơ và mộng” tràn đầy trong tác phẩm.
- Các chi tiết nghệ thuật, ngôn ngữ và hành động được chọn lọc để khắc sâu hình
tượng nhân vật.
- Xây dựng hình ảnh nghệ thuật giàu chất tư tưởng - thẩm mĩ.
7.3. THIẾT KẾ GIÁO ÁN DẠY HỌC TÁC PHẨM TRUYỆN “AN DƯƠNG
VƯƠNG VÀ MỊ CHÂU, TRỌNG THỦY” THEO ĐẠC TRƯNG THỂ LOẠI:
Ngày soạn:
9/2018
Tiết 11, 12 Đọc văn
TRUYỆN AN DƯƠNG VƯƠNG VÀ

MỊ CHÂU - TRỌNG THUỶ
Ngày dạy:
STT
1
2

Lớp
10A9
10A10

Ngày dạy

Sĩ số

HS vắng

I. TRỌNG TÂM KIẾN THỨC, KĨ NĂNG ,MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
1. Trọng tâm kiến thức ,kĩ năng
- Thấy được những công lao, sai lầm và thất bại của An Dương Vương. Sai lầm, tội
lỗi và sự đáng thương, đáng cảm thông của Mị Châu.
- Biết được bài học về tinh thần cảnh giác với kẻ thù, cách xử lí đúng đắn mối
quan hệ giữa riêng- chung, giữa gia đình- đất nước, giữa cá nhân- cộng đồng.
Nhân vật ADV trong xây thành , chế nỏ giữ nước
2. Mục tiêu bài học cần đạt
- Về kiến thức :Nắm được các đặc trưng cơ bản, giá trị, ý nghĩa, môi trường sinh
thành, biến đổi và diễn xướng của truyền thuyết.Những chiến công và sai lầm của
An Dương Vương ,Mị Châu.
-Về kỹ năng :Rèn kĩ năng phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự.
-Về thái độ :Giáo dục lòng yêu nước, ý thức đề cao cảnh giác trước kẻ thù
II. PHƯƠNG PHÁP, PHƯƠNG TIỆN,THIẾT BỊ DẠY HỌC

1.Phương pháp: đọc sáng tạo, gợi mở, phát vấn, thảo luận…
2. Phương tiện dạy học cần sử dụng
- GV: + Nghiên cứu sgk, sgv,và các tài liệu tham khảo khác về văn học Việt Nam
+ Thiết kế bài dạy
16


- HS: Đọc và soạn bài
III. THỰC HIỆN DẠY HỌC
1.Ổn định tổ chức lớp
2. Kiểm tra bài cũ
3. Bài mới
Hoạt động 1: Tạo tâm thế cho Hs
Nhà thơ Tố Hữu, trong bài thơ Tâm sự đã viết:
“Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu,
Trái tim lầm chỗ để trên đầu.
Nỏ thần vô ý trao tay giặc,
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu.”
Đó là cách đánh giá của ông về một nhân vật trong truyền thuyết đặc sắc: Truyện
An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy. Trải qua hàng nghìn năm đến nay, câu
chuyện ấy vẫn đem lại cho chúng ta những bài học sâu sắc. Hôm nay, chúng ta sẽ
cùng tìm hiểu về câu chuyện đó.
Hoạt động 2 : Hình thành kiến thức mới
Hoạt động của Gv và Hs
Hs đọc phần tiểu dẫn trong sgk.
- Nhắc lại khái niệm về truyền
thuyết?
- Các đặc trưng cơ bản của truyền
thuyết?
Gv cung cấp cho hs nhận xét của

cố thủ tướng Phạm Văn
Đồng:“Những truyền thuyết dân
gian thường có một cái lõi là
sự ..”

Nội dung ghi bảng/ Trình chiếu
I. Tiểu dẫn
1. Giới thiệu chung về truyền thuyết:
a. Đặc trưng:
- Là tác phẩm tự sự dân gian kể về sự kiện và
nhân vật lịch sử (có liên quan đến lịch sử) theo
xu hướng lí tưởng hóa.
- Thể hiện nhận thức, quan điểm đánh giá, tình
cảm của nhân dân lao động đối với các sự kiện,
nhân vật lịch sử ấy" Yếu tố lịch sử và yếu tố
tưởng tượng thần kì hòa quyện.
b. Môi trường sinh thành, biến đổi và diễn
- Theo em, môi trường sinh thành, xướng:
biến đổi và diễn xướng của truyền Lễ hội và các di tích lịch sử có liên quan.thuyết là gì?
Làng Cổ Loa- giới thiệu:
+ Truyện Rùa Vàng- trong Lĩnh
+ Di tích LS Cổ Loa.
Nam chích quái (Những chuyện
+ ND truyền thuyết thành Cổ Loa
quái dị ở đất Lĩnh Nam) do Vũ
- Xuất xứ: Trích truyện “ Rùa Vàng” trong tác
Quỳnh và Kiều Phú sưu tập, biên phẩm “ Lĩnh Nam chích quái”( những câu
soạn bằng chữ Hán vào cuối thế
chuyện ma quái ở phương Nam) bằng chữ hán
17



kỉ XV, được Đinh Gia Khánh và
Nguyễn Ngọc San dịch.
+ Thục kỉ An Dương Vươngtrong Thiên Nam ngữ lục.
+ Mị châu- Trọng Thủy- truyền
thuyết ở vùng Cổ

- Em hãy tìm bố cục của truyện?

Gv hướng hs đến cách phân tích
nhân vật.
- Nhân vật An Dương Vương đã
lập nên những chiến công nào?
Quá trình xây thành của An
Dương Vương được miêu tả ntn?

do Vũ Quỳnh và Kiều Phú sưu tập và biên
soạn.
- Cuối thế kỉ 15
2. Truyền thuyết An Dương Vương và Mị
Châu- Trọng Thủy:
- Văn bản: 3 bản kể:
II. Đọc- hiểu văn bản:
1. Đọc.
2.Bố cục: 4 phần
+ (1) An Dương Vương xây thành, chế nỏ và
chiến thắng Triệu Đà.
+ (2) Trọng Thủy lấy cắp lẫy nỏ thần.
+ (3) Triệu Đà lại phát binh xâm lược, An

Dương Vương thất bại, chém Mị Châu, theo
Rùa Vàng xuống biển.
+ (4) Kết cục bi thảm của Trọng Thủy, hình
ảnh ngọc trai- nước giếng.
3.Tìm hiểu văn bản:
3.1. Nhân vật An Dương Vương:
a. Những chiến công xây thành, chế nỏ, chiến
thắng Triệu Đà lần một:
- Xây thành Cổ Loa:
+ Thành đắp đến đâu lại lở đến đó.
+ Lập đàn cầu đảo bách thần, trai giới.
+ Nhờ cụ già mách bảo, sứ Thanh Giang giúp
" xây thành xong trong nửa tháng.
" Nhận xét: Quá trình xây thành gian nan, khó
nhọc cũng giống như quá trình dựng
nước"Quyết tâm , kiên trì cao độ của nhà vua..

- Ý nghĩa của các chi tiết thần kì:
An Dương Vương được một cụ
già mách bảo, sứ Thanh Giang
giúp xây thành?
- Xây thành xong, khi Rùa Vàng
từ biệt, An Dương Vương đã nói
gì với Rùa Vàng? Qua đó, em có
suy nghĩ gì về An Dương Vương?
- Tại sao An Dương Vương lại dễ - Ý nghĩa của các chi tiết thần kì:
dàng chiến thắng kẻ thù xâm lược + Lí tưởng hóa việc xây thành.
trong giai đoạn này?
+ Nét đẹp của truyền thống Việt Nam: cha ông
luôn ngầm giúp đỡ con cháu đời sau trong

- Tại sao An Dương Vương lại dễ công cuộc dựng nước và giữ nước.
dàng chiến thắng kẻ thù xâm lược - Khi Rùa Vàng từ biệt, An Dương Vương:
18


trong giai đoạn này?
Gv dẫn dắt: Do mắc phải nhiều
sai lầm nên An Dương Vương ko
mãi đứng trên đỉnh vinh quang
của chiến thắng mà đã gặp phải
những thất bại cay đắng...

- Vì sao An Dương Vương nhanh
chóng thất bại thê thảm khi Triệu
Đà cất quân xâm lược lần 2?
- Hành động điềm nhiên chơi cờ
ung dung và cười “Đà ko sợ nỏ
thần sao?” nói lên điều gì về nhân
vật này?

- Bài học nghiêm khắc và muộn
màng mà nhà vua rút ra được là
gì? Khi nào?
- Sáng tạo những chi tiết về Rùa
Vàng, Mị Châu, nhà vua tự tay
chém đầu con gái mình,... nhân
dân muốn biểu lộ thái độ, tình

+ Cảm tạ Rùa Vàng.
+ Băn khoăn“Nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà

chống?”
" ý thức trách nhiệm cao với đất nước và tinh
thần cảnh giác.Tàm nhìn xa trông rộng của
người anh minh.
- An Dương Vương chiến thắng quân xâm lược
do:
+ Có thành ốc kiên cố.
+ Có nỏ thần kì diệu trăm phát trăm trúng.
+ Đặc biệt là có tinh thần cảnh giác cao độ.
b.“Cơ đồ đắm biển sâu”- Sự thất bại của An
Dương Vương:
- Nguyên nhân thất bại:
+ Chủ quan, lơ là, mất cảnh giác, ko nhận ra dã
tâm nham hiểm của kẻ thù.
+ Phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng:
Nhận lời cầu hoà của Triệu Đà.
" Nhận lời cầu hôn" cho Trọng Thuỷ ở rể mà
ko giám sát, đề phòng.
" Lơ là việc phòng thủ đất nước, ham hưởng
lạc.
" Chủ quan khinh địch.
"Nhận xét:
Các sai lầm nghiêm trọng, liên tiếp của An
Dương Vương chứng tỏ ông đã tự đánh mất
chính mình. Ông ko còn là một vị vua anh
minh, oai hùng như thuở trước nữa. Ông đã
quá chủ quan, tự mãn, mất cảnh giác cao độ, ko
hiểu được kẻ thù, ko lo phòng bị nên đã tự
chuốc lấy bại vong.
- Bài học từ sự thất bại: Tinh thần cảnh giác

với kẻ thù.
- Ý nghĩa của những hư cấu nghệ thuật:
+ Thể hiện lòng kính trọng của nhân dân đối
với thái độ dũng cảm, kiên quyết đặt nghĩa
19


cảm gì với nhân vật lịch sử An nước (cái chung) lên trên tình nhà (cái riêng)
Dương Vương và việc mất nước của An Dương Vương.
Âu Lạc?
+ Là lời giải thích cho lí do mất nước nhằm
xoa dịu nỗi đau mất nước của một dân tộc yêu
- Em có suy nghĩ gì về ý nghĩa nước nồng nàn nay lần đầu tiên bị mất nước
của chi tiết An Dương Vương + Rùa Vàng- hiện thân của trí tuệ sáng suốt, là
theo Rùa Vàng xuống thủy phủ? tiếng nói phán quyết mạnh mẽ của cha ông.
So sánh với hình ảnh Thánh - An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc theo
Gióng bay về trời, em thấy thế Rùa Vàng xuống biển" Sự bất tử của An
nào?
Dương Vương.
Hs thảo luận, trả lời.
" Lòng kính trọng, biết ơn những
công lao to lớn của An Dương Vương của nhân
dân ta.
2. Nhân vật Mị Châu:
- Mị Châu lén đưa cho Trọng Thủy xem nỏ
thần là chỉ thuận theo tình cảm vợ chồng mà bỏ
quên nghĩa vụ với đất nước. Bởi:
Em đánh giá ntn về chi tiết Mị + Nỏ thần thuộc về tài sản quốc gia, là bí mật
Châu lén đưa cho Trọng Thủy quân sự. Vì thế, Mị Châu lén cho Trọng Thủy
xem nỏ thần?

xem nỏ thần là việc vi phạm vào nguyên tắc
Hs thảo luận, phát biểu.
của bề tôi với vua cha và đất nước, biến nàng
Gv định hướng hs hiểu theo thành giặc, đáng bị trừng phạt.
nghĩa thứ nhất.
+ Tình yêu, tình cảm vợ chồng (trái tim) ko thể
- Tìm những chi tiết biểu lộ sự cả đặt lầm chỗ lên trên lí trí, nghĩa vụ với đất
tin, ngây thơ đến mức khờ khạo nước (đầu). Nước mất dẫn đến nhà tan nên ko
của Mị Châu?
thể đặt lợi ích cá nhân (cái riêng) lên lợi ích
Hs thảo luận, tìm các chi tiết, cộng đồng (cái chung). Nàng đã gián tiếp tiếp
phân tích.
tay cho kẻ thù nên đã bị kết tội, bị trừng phạt
Gv nhận xét, bổ sung.
nghiêm khắc.
- Mị Châu cả tin, ngây thơ đến mức khờ khạo:
- Mị Châu có phần nào đáng + Tự ý cho Trọng Thủy biết bí mật quốc gia,
thương chăng? Vì sao? Thái độ và xem nỏ thần.
tình cảm của nhân dân đối với Mị + Mất cảnh giác trước những lời chia tay đầy
Châu qua những chi tiết hư cấu ẩn ý của Trọng Thủy
tưởng tượng: máu nàng hoá thành + Đánh dấu đường cho Trọng Thủy lần theo"
ngọc trai, xác nàng hoá thành chỉ nghĩ đến hạnh phúc cá nhân, mù quáng vì
20


ngọc thạch?

- Người xưa nhắn gửi bài học gì
đến thế hệ trẻ qua nhân vật Mị
Châu?

Gv nêu các ý kiến đánh giá về
nhân vật Trọng Thủy cho hs thảo
luận:
+ Trọng Thủy là một tên gián điệp
nguy hiểm, một người chồng nặng
tình với vợ?
+ Trọng Thủy là nhân vật truyền
thuyết với mâu thuẫn phức tạp:
giữa nghĩa vụ và tình cảm, vừa là
thủ phạm vừa là nạn nhân?
+ Trọng Thủy là một người con
bất hiếu, một người chồng lừa
dối, một người con rể phản bộikẻ thù của nhân dân Âu Lạc?
- ý kiến nào khái quát, xác đáng
nhất về nhân vật này?

yêu.
- Có phần đáng thương, đáng cảm thông:
Những sai lầm, tội lỗi đều xuất phát từ sự vô
tình, tính ngây thơ, nhẹ dạ, cả tin đến mức mù
quáng, đặt tình cảm lên trên lí trí, thực sự bị
“người lừa dối”.
- Bài học:
+ Cần đặt cái chung lên trên cái riêng, đặt lợi
ích của quốc gia, dân tộc lên trên quyền lợi của
cá nhân, gia đình.
+ Biết cảm xúc bằng lí trí, suy nghĩ bằng trái
tim- giải quyết mối quan hệ giữa lí trí và tình
cảm đúng mực.
3. Nhân vật Trọng Thủy

a.Giai đoạn đầu
- Lợi dụng sự ngây thơ của Mị Châu đã đánh
tráo lẫy nỏ thần theo âm mưu của cha mình
- Tấn công nước Âu Lạc và đuổi theo cha con
An Dương Vương
à Là tên gián điệp nguy hiểm, kẻ thù của dân
tộc, trực tiếp gây ra bi kịch mất nước và cái
chết của hai cha con An Dương Vương.
b.Sau khi Mị Châu chết
- Ôm xác vợ khóc lóc thương nhớ
- Lao đầu xuống giếng tự tử
à Tình cảm với vợ thực sự xuất hiện, nhưng
đã quá muộn .
è Là nạn nhân của của chiến tranh xâm lược
phi nghĩa

 Hình ảnh ngọc trai – giếng nước:
- Là hình ảnh có giá trị nghệ thuật, thẩm mĩ
 Chi tiết ngọc trai đem rửa cao.
nước giếng lại càng sáng đẹp - Hình ảnh ngọc trai: phù hợp với lời ước
hơn cần được hiểu như thế nào? nguyện của Mị Châu à chứng minh cho tấm
lòng trong sáng của nàng
21


- Chi tiết nước giếng có hồn Trọng Thuỷ à là
Với hình ảnh “ngọc trai – giếng chứng nhận cho sự hối hận và ước muốn hoá
nước” này, nhân dân ta đã thể giải tội lỗi của Trọng Thuỷ
hiện cách phán xét ntn?
- Chi tiết ngọc trai đem rửa nước giếng lại

càng sáng đẹp hơn àTrọng Thuỷ đã tìm được
sự hoá giải của Mị Châu ở thế giới bên kia.
=> Sự phán xét thấu lí đạt tình, vừa nghiêm
khắc vừa nhân ái của nhân dân
(rộng lòng tha thứ cho những người vô tình
phạm tội như Mị Châu hay những kẻ biết ăn
năn hối hận như Trọng Thuỷ)
III. Tổng kết bài học:
1. Giá trị nội dung:
2.Giá trị nghệ thuật
4. Củng cố kiến thức
-Nêu những chi tiết liên quan đến nhân vật An Dương Vương? Qua những chi tiết
đó, em có nhận xét như thế nào về nhân vật lịch sử này?
- Nhân vật Mị Châu đã phạm phải những sai lầm nào? Do đâu? Kết cục của nhân
vật này như thế nào? Nhân dân ta có thái độ như thế nào về Mị Châu?
- Đánh giá về nhân vật Trọng Thuỷ. Theo em, hình ảnh “Ngọc trai – giếng nước’ có
nhằm ca ngợi mối tình chung thuỷ của hai người không? Ý kiến của em?
5. Dặn dò và bài tập về nhà
? Chỉ ra nhũng hư cấu nghệ thuật trong truyền thuyết và phân tích ý nghĩa của
chúng?
- Đọc trước bài: Lập dàn ý cho bài văn tự sự.
7.4. Kết quả cụ thể:
Tổng
Lớp 10a9
38

Tổng

Số học sinh đạt yêu
cầu

số
Số học
Tỉ lệ (%)
sinh
37
97,4%

Số học sinh không đạt yêu
cầu
Số học sinh
1

Tỉ lệ (%)
2.6%

Số học sinh đạt yêu cầu Số học sinh không đạt yêu
22


Lớp 10a10

số
38

Số học sinh
35

Tỉ lệ (%)
92.1%


cầu
Số học sinh
3

Tỉ lệ (%)
7.9%

7.5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
7.5.1.Kết luận
Truyện dân gian là phần tác phẩm có vị trí quan trọng trong chương trình cấp
phổ thông. Cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, phương pháp tiếp cận khác
nhau đối với các tác phẩm này. Thế nhưng trong quá trình giảng dạy của các giáo
viên vẫn còn nhiều tranh cãi dẫn đến gây khó khăn cho quá trinh tiếp nhận của học
sinh.
Với hướng tiếp cận mới này, tôi hi vọng sẽ cung cấp thêm một lượng kiến thức cơ
bản để học sinh có cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về tác phẩm. Và các đồng nghiệp
cũng có cơ hội tiếp xúc với một hướng tiếp cận văn bản mới
7.5.2. Đề xuất
* Đối với giáo viên:
- Giáo viên giảng dạy bộ môn không ngừng trau dồi phẩm chất, thái độ, đổi mới
phương pháp dạy học tích cực hơn. Nâng cao năng lực chuyên môn, năng lực sư
phạm.
- Chú trọng đến từng đối tượng học sinh để có những cách thức tiếp cận vấn đề
phù hợp với đặc điểm và trình độ của học sinh.
- Khuyến khích các em tự học nhóm, tự tìm tài liệu học tập, phát huy tính tự giác
trong học tập của các em.
- Liên hệ vấn đề giảng dạy với thực tiễn cuộc sống để tạo hứng thú trong giờ học
cho học sinh.
* Đối với học sinh:
- Học sinh phải nhận thức đúng đắn tầm quan trọng, ý nghĩa của môn học đối với

bản thân, cuộc sống và công việc sau này của mình. Chú ý nghe thầy cô giáo gợi
mở , giảng giải và linh hoạt hơn trong kiến thức thực tế.
- Phải biết tự giác trong học tập, đọc và tìm hiểu kĩ văn bản trước khi lên lớp.
- Biết tham khảo và xử lí tài liệu.
-Tích cực xây dựng bài học, mạnh dạn đề xuất những ý kiến, đóng góp mới mẻ,
những băn khoăn, thắc mắc cần giải đáp.
8. Những thông tin cần được bảo mật : Không
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
- Cần chuẩn bị đầy đủ sách giáo khoa, vở soạn, tài liệu liên quan
23


- Phải được sự ủng hộ nhất trí của GV
- HS phải tích cực học tập.
10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến
10.1. Đánh giá lợi ích thu được được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác
giả:
- Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về đổi mới dạy học, đề tài này
đã cụ thể hóa một trong những bước cơ bản của đổi mới dạy học là đổi mới khâu
biên soạn câu hỏi để tổ chức tốt hoạt động của học sinh, từ đó đem lại hiệu quả cho
việc dạy học .
- Đề tài này phục vụ thiết thực cho giáo viên trong quá trình dạy học truyện dân
gian nói chung và truyền thuyết nói riêng, đáp ứng xu thế đổi mới dạy học như hiện
nay.
10.2. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức,
cá nhân:
Qua thời gian nghiên cứu và thử nghiệm dạy học về truyền thuyết đã hình
thành và nâng cao kĩ năng đọc –hiểu cho học sinh lớp 10 trường THPT Sáng Sơn,
có thể đưa ra một số kết luận như sau :
Bước đầu áp dụngýáng kiến sẽ giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức và rèn luyện

kĩ năng , không mang tính áp đặt để giúp các em đọc – hiểu những tác phẩm được
học chính thức trong sách giáo khoa và cả những tác phẩm ngoài sách giáo khoa
nhưng cùng một chủ đề (nghĩa là không nằm trong sách giáo khoa nhưng vẫn nằm
trong chương trình học)
Kích thích hứng thú đối với học sinh, gợi sự tìm tòi và suy nghĩ để hướng tới
sự đa dạng hóa các hoạt động của người học.
11. Danh sách cá nhân đã áp dụng thử
Số Tên tổ chức/cá
TT
nhân

Địa chỉ

Phạm vi/Lĩnh vực
áp dụng sáng kiến

1

Nguyễn Thị
Thuý Hằng

Trường THPT Sáng Sơn
– Huyện Sông Lô – Vĩnh Phúc

Áp dụng cho học sinh khối
10 trường THPT Sáng Sơn

2

Bùi Thị Thu

Hương

Trường THPT Sáng Sơn
– Huyện Sông Lô – Vĩnh Phúc

Áp dụng cho học sinh khối
10 trường THPT Sáng Sơn

Sông Lô, ngày tháng 02 năm 2019
Thủ trưởng đơn vị

Sông Lô, ngày 28 tháng 01 năm 2019
Tác giả sáng kiến
24


Hoàng Thị Hồng

25


×