Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học ca dao năm 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.72 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
1.Lời giới thiệu
2.Mô tả bản chất của sáng kiến:
2.1. Giới thiệu tổng quan về vấn đề:
a. Cơ sở lí luận
b. Cơ sở thực tiễn
2.2. Các biện pháp góp phần tạo hứng thú cho học sinh trong

Trang 2
Trang 4
Trang 4
Trang 5
Trang 5

giờ đọc hiểu Ca dao (Ngữ văn 10 – Tập 1)
a. Tạo không khí thoải mái, phấn khởi thân thiện khi

Trang 7

bước vào giờ học
b. Đọc diễn cảm văn bản
c. Linh hoạt trong phương pháp
d. Đưa ra các tình huống có vấn đề

Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10

e. Sử dụng lời bình hay hợp lí
g. Ứng dụng công nghệ thông tin trong giờ học đọc hiểu



Trang 10

Ca dao
h. Lồng ghép trò chơi trong giờ học
i. Hợp tác trong nhóm nhỏ
2.3. Giáo án thực nghiệm
3. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do

Trang 11
Trang 11
Trang 14
Trang 14

áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả
4 . Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử

Trang 18

hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu
5. Phần Tài liệu tham khảo

Trang 19
Trang 22

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu:

1



Khổng Tử đã từng nói: “ Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà
học không bằng say mà học”. Vậy niềm yêu thích say mê chính là động lực thúc
đẩy, nuôi dưỡng sự cố gắng, nỗ lực học tập không ngừng của mỗi người. Vì thế với
vai trò tổ chức, hướng dẫn và điều khiển quá trình học tập của HS, hơn ai hết việc
phải tìm ra nhiều biện pháp để phát huy cao nhất tính tích cực sáng tạo của người
học, gây niềm hứng thú say mê học tập ở các em chính là nhiệm vụ quan trọng đối
với mỗi người GV.
Nhưng phải thừa nhận một thực tế rằng trong thời kì đất nước đang chuyển
mình hội nhập quốc tế, bên cạnh rất nhiều mặt tích cực thì cũng nảy sinh không ít
những khó khăn thách thức. Theo đó, chất lượng môn Văn và vai trò môn văn trong
nhà trường hiện nay đang có quá nhiều bất ổn. Đa số học sinh coi nhẹ vai trò của
môn Văn trong chương trình học và cả trong định hướng trong tương lai của các
em. Chính điều này đã tác động không nhỏ đến tâm lí học sinh, làm giảm niềm yêu
thích hứng thú của các em với môn Ngữ văn. Càng học lên lớp trên, các em càng ít
hứng thú học môn Ngữ văn. Hay nói cách khác, môn Văn trở thành gánh nặng, áp
lực nặng nề, thậm chí trở nên nhàm chán và nỗi ám ảnh trong học sinh. Đứng
trước bối cảnh đó, bên cạnh việc trau dồi nâng cao năng lực chuyên môn vững
vàng, người dạy Ngữ Văn cần thiết phải có nghệ thuật đứng lớp cao hơn, linh hoạt
hơn, sáng tạo hơn mới có thể tạo được niềm hứng thú cho học sinh. Làm thế nào
để thổi vào tâm hồn các em sự yêu thích, niềm hứng thú môn Văn, đưa môn Văn
trở về đúng quỹ đạo thực sự của việc học văn là học làm người, bởi “Văn học là
nhân học” là trách nhiệm của người giáo viên đứng lớp và lương tâm của nhà
giáo?
Trong ba phân môn của bộ môn Ngữ văn được giảng dạy trong nhà trường Phổ
thông: Đọc văn, Tiếng Việt, Làm văn thì Đọc văn chiếm một vị trí khá quan trọng,
có vai trò to lớn để học sinh được bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, năng lực

2



thẩm mĩ đồng thời cũng có thêm kiến thức để thực hành Làm văn và học Tiếng
Việt.
Phần Văn học dân gian là một bộ phận không thể tách rời của nền văn học
Việt Nam, là nền tảng của nền văn học viết. Học văn học dân gian không chỉ hình
thành kiến thức văn học và kĩ năng làm văn của HS mà còn giáo dục về một tryền
thống văn hóa lâu đời của dân tộc Việt. Những câu chuyện cổ tích, đặc biệt là
những làn điệu dân ca ( gồm ca dao kế hợp với âm nhạc khi diễn xướng) đã gắn bó
với tất cả chúng ta từ khi còn nằm trong nôi. Nó gắn bó máu thịt và trở thành huyết
mạch chảy trong mỗi con người. Trên thực tế HS vẫn còn thờ ơ, chưa nhận rõ được
giá trị được bộ phận văn học này.
Xuất phát từ những vấn đề trên, với mong muốn góp một phần vào
việc hình thành cho HS sự hứng thú, tìm tòi tích cực, khao khát khám phá kiến thức
mới trong mỗi giờ học Đọc văn nói chung, giờ đọc hiểu ca dao nói riêng để sau này
trở thành những công dân đủ tài, đủ đức phục vụ cho đất nước, tôi đã quyết định
chọn đề tài “Nâng cao hứng thú cho học sinh trong giờ dạy học ca dao”
Qua việc nghiên cứu để viết sáng kiến kinh nghiệm " Nâng cao hứng thú cho
học sinh trong giờ dạy học ca dao”, tôi cũng đã tự nâng cao năng lực chuyên môn
của bản thân, đồng thời qua đây cũng muốn trao đổi với đồng nghiệp để làm sao
tạo hứng thú cho học sinh trong mỗi giờ đọc hiểu văn bản văn học nói chung, giờ
đọc hiểu phần ca dao nói riêng không thể để tiếp diễn tình trạng học sinh coi giờ
học học văn là giờ "ru ngủ", học sinh chỉ việc ngồi nghe thầy cô "thôi miên", tay
ghi chép, về nhà học thuộc, đi thi chép y nguyên lại lời thầy, nhiều khi có không
đồng ý với một số nhận định của thầy đã "áp đặt" cũng không dám nói. Hi vọng đề
tài này sẽ được đồng nghiệp đón nhận để góp phần cải thiện tình trạng dạy học Ngữ
văn hiện nay.
Có nhiều biện pháp góp phần tạo hứng thú cho học sinh THPT trong giờ học
Đọc hiểu, nhưng trong phạm vi đề tài này tôi chỉ tập trung vào các biện pháp thông
3



dụng nhất: đọc diễn cảm văn bản, sử dụng lời bình hay hợp lí, lồng ghép trò chơi,
ứng dụng công nghệ thông tin hiệu quả, vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy
học tích cực. Dù vấn đề này có thể đã có người nghiên cứu, song đây là kinh
nghiệm riêng mà tôi đã thực hiện và đạt được kết quả tốt, chất lượng bộ môn tăng
lên rõ rệt, các em nhớ kiến thức và thuộc nhiều ca dao dân ca, yêu thích những làn
điệu dân ca của đất nước.
-

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
Để thực hiện đề tài này, tôi đã thu thập thông tin, đúc kết kinh nghiệm từ

thực tế giảng dạy Ngữ văn trên nhiều đối tượng HS trong các năm học trước và
thực nghiệm đối chứng trong năm học 2018-2019 với lớp 10a10 là lớp có năng lực
nhận thức chưa tốt như những lớp khác.
2. Tên sáng kiến: “Nâng cao hứng thú cho học sinh trong giờ dạy học ca dao ”
(Ngữ văn 10)
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Nguyễn Thị Thúy Hằng
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Sáng Sơn
- Số điện thoại: 0985221577
E_mail:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Thúy Hằng
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phương pháp giảng dạy Ngữ văn
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 01/09/2018
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1 Giới thiệu tổng quan về vấn đề:
a. Cơ sở lí luận:
Luật Giáo dục, Điều 28.2 đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát

huy tích tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm
từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo
4


nhóm, rèn kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem
lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Tài liệu bồi dưỡng cán bộ quản lí và giáo viên về biên soạn đề kiểm tra, xây
dựng thư viện câu hỏi và bài tập cũng đã viết: "Hoạt động giáo dục chỉ đạt hiệu
quả cao khi tạo lập được môi trường sư phạm lành mạnh, bầu không khí thân thiện,
pháthuy ngày càng cao vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của HS". Theo Từ điển
Tiếng Việt – Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 2000, “ hứng thú là sự ham thích”. Rõ
ràng khi có được sự say mê hứng thú, con người sẽ làm việc tự nguyện có hiệu quả
hơn, thành công hơn. Hứng thú còn có tác dụng chống lại sự mệt mỏi. Học sinh
cũng vậy. Khi có hứng thú, các em sẽ kiên trì làm bài tập, không nản chí trước câu
hỏi khó, không những thế còn hăng hái trả lời, nhận xét bổ sung câu trả lời của bạn,
chủ động nêu câu hỏi, đưa ra những thắc mắc để các bạn cùng trả lời, thầy cô giải
thích thấu đáo, thậm chí còn có cả sự sáng tạo. Vì vậy, mỗi thầy cô khi lên lớp,
không phải "chăm chăm ôm bảng giảng", quan trọng hơn người thầy cô phải không
ngừng tìm tòi nhiều biện pháp hơn nữa để gây hứng thú cho học sinh, có như vậy
mới phát huy được tính tích cực chủ động, độc lập sáng tạo của người HS đúng như
định hướng giáo dục hiện nay.
b. Cơ sở thực tiễn:
Chúng ta phải thừa nhận rằng hiện nay học sinh ít còn hứng thú với những giờ
học môn Ngữ văn chủ yếu là học đối phó. Những giờ học Đọc hiểu có khi chỉ là
giờ thông tin kiến thức một chiều, khô cứng và nhạt nhẽo. Học xong một giờ đọc
văn, học sinh thu được cái mà họ cần quá ít ỏi, thậm chí cá biệt có em không thu
hoạch được gì. Chính điều đó dẫn đến kiến thức thực tế về văn học của các em còn
nghèo nàn, dùng từ ngữ trong giao tiếp một cách thiếu chính xác, đặc biệt trong các
bài Tập làm văn thường mắc lỗi chính tả, câu văn viết chưa đúng ngữ pháp, cách

diễn đạt vụng về, sáo mòn, lệ thuộc vào sách tham khảo. Số lượng hồ sơ

5


khối C thi tuyển sinh vào các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp trong cả nước
cũng ngày một giảm.
Trong chương trình Ngữ văn 10 có phần văn học dân gian rất đặc sắc, đặc
biệt là phần ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa, ca dao hài hước.Đó không chỉ
là vốn văn học giá trị mà nó còn là bản sắc văn hóa, là nét tâm hồn của người Việt,
củng cố tình yêu quê hương đất nước, tinh thần nhân đạo của con người. Tuy vậy,
nhiều Hs chưa thấy được giá trị của phần văn học này, vẫn thấy những bài ca khô
cứng, chưa thực sự hấp dẫn đối với các em.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh THPT không hứng thú trong
giờ đọc ca dao, theo tôi có những nguyên nhân cơ bản sau:
* Về phía GV: Trong những năm gần đây, ngành luôn đề cao việc đổi mới
phương pháp dạy học, nhưng thật sự việc đổi mới ở các giáo viên dạy Ngữ văn còn
gặp khá nhiều khó khăn, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy cũng
chưa đạt được kết quả mong muốn, do vậy ngoài các tiết dự thi, thao giảng, dạy tốt,
thanh tra, đa phần tiết dạy Ngữ văn là tiết "dạy chay", thầy vẫn giữ phương pháp cũ
là thuyết giảng, thầy đọc trò chép. Chính điều đó đã làm giảm rất nhiều sự hào
hứng, sáng tạo của HS. Một nguyên nhân nữa xuất phát từ trình độ chuyên môn của
giáo viên, nhất là đa số những giáo viên mới ra trường, mỗi khi lên lớp chưa thật
làm chủ kiến thức, chỉ lo làm sao truyền thụ hết những gì được soạn từ giáo án
thấy đã khó, nói chi đến việc mở rộng, nâng cao, kích thích sự hứng thú của học
sinh.
* Về phía HS: Môn Ngữ văn là một môn học khó, mang tính đặc thù. Khác với các
môn học khác, kết quả của tiết học được đánh giá rõ ràng, rành mạch, còn kết quả
thu được của môn văn dường như khó định nghĩa thật sự, và tất nhiên những cảm
xúc, rung động khi tiếp cận một văn bản không phải ai cũng dễ dàng hiểu và đạt

được.

6


Trong mỗi giờ học Đọc hiểu ca dao, học sinh chưa thực sự thấy được vẻ đẹp
và sức hấp dẫn của các bài ca dao vốn rất quen thuộc với người dân Việt. Các em
cũng chỉ coi nó như những bài thơ khó khác mà không thấy được sự gần gũi quen
thuộc . Một lí do nữa là các em đã quen với lối học thụ động, đi học chép rồi học
thuộc máy móc, đi thi thì cũng chỉ chép lại lời thầy, chưa bộc lộ suy nghĩ cảm thụ
riêng của bản thân nên chưa phát huy tính tích cực chủ động của bản thân.
Mặt khác, mặt trái của thời đại công nghệ 4.0 làm cho học sinh trở nên xa rời
với vốn văn hóa truyền thống, đặc biệt là đối với vốn văn hóa, văn học dân gian,
chỉ thích văn học hiện đại hợp với tâm lí lứa tuổi, thích âm nhạc hiện đại chứ chưa
thích dân ca.
Vào những năm học trước, tôi được phân công giảng dạy dạy môn Ngữ văn tại
một số lớp 10. Qua khảo sát ở các lớp giảng dạy tôi nhận thấy điểm chung là học
sinh ít có hứng thú với giờ Ngữ văn nói chung và giờ Đọc hiểu văn bản ca dao nói
riêng. Từ đó, tôi luôn băn khoăn trăn trở làm sao để học sinh yêu thích môn Ngữ
văn hơn, thích vốn văn học dân gian đặc biệt là ca dao dân ca, làm sao để kết quả
học tập của học sinh được cải thiện hơn, khiến các em thích và quay trở về với vốn
văn học truyền thống. Và hơn hết là làm sao tạo cho học sinh niềm hứng thú, đam
mê môn Văn? Một câu hỏi tưởng chừng rất đơn giản nhưng là nỗi niềm của tất cả
các giáo viên dạy văn hiện nay.
7.2. Các biện pháp góp phần tạo hứng thú cho học sinh trong giờ đọc hiểu
Ca dao ( Ngữ văn 10 – Tập 1)
a. Tạo không khí thoải mái, phấn khởi thân thiện khi bước vào giờ học:
Khi lên lớp, người giáo viên đóng vai trò chủ đạo để điều tiết không khí lớp
học. Do đó, thái độ, tâm lý, tác phong của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến tâm
lý của học sinh. Chính vì thế mà hiện nay ngành giáo dục đang phát động phong

trào “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” có nghĩa là cần tạo bầu không khí
thân thiện, gần gũi với học sinh và đồng thời cũng phát động phong trào “Mỗi giáo
7


viên là một tấm gương sáng để học sinh học tập và làm theo”. Vậy để làm được
điều đó, đòi hỏi giáo viên khi lên lớp dạy cần phải chú ý về thái độ và tác phong
của chính mình nhất là giáo viên Văn.
- Về thái độ của giáo viên: Thái độ của giáo viên cũng rất quan trọng trong
việctạo sự hứng thú cho học sinh. Nếu giáo viên có thái độ thân thiện, tích cực sẽ
tạo nên sự gần gủi, thân tình, yêu mến, các em sẽ không còn cảm giác bị áp lực mỗi
khi đến giờ học môn Ngữ văn. Và khi các em có thái độ yêu mến thầy cô giáo nào
thì cũng đồng nghĩa các em sẽ yêu thích môn học đó. Ngược lại, nếu giáo viên tỏ
thái độ lạnh nhạt, xem thường học sinh, thiếu thiện cảm với học sinh thì các em sẽ
ngại giao tiếp trong học tập và xa lánh giáo viên đó, khi đó chúng ta chưa đạt được
mục đích của giáo dục.
- Về tâm lý của giáo viên: Trong cuộc sống không phải lúc nào cũng vui vẻ,
thoải mái, vô tư, mà còn phải nhiều sự lo toan, bộn bề của cuộc sống đời thường.
Nhưng chúng ta cần phải biết cách khắc phục để tạo ra tâm lí thoải mái, nhất là
trước khi bước lên bục giảng không nên mang những tâm lý nặng nề của mình đến
lớp học, vì nếu như vậy sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng của giờ dạy học. Bởi tâm
lý học sinh THPT rất nhạy cảm. Và nếu tình trạng đó không được khắc phục kịp
thời sẽ làm cho học sinh cũng có những suy nghĩ không tốt và thậm chí sẽ buồn
theo, chán nản theo tâm lý của thầy cô giáo. Như vậy mỗi giáo viên cần tạo một
không khí vui vẻ trước khi tiến hành bài học sẽ tạo sự hưng phấn cho học sinh.
- Tạo tâm thế vào bài mới:
Khi chuẩn bị vào bài mới, GV có thể hát một bài ca dao dân ca quen thuộc, hoặc
cho các em nghe một bài dân ca, hoặc có thể cho các em thi hát dân ca…
b. Đọc diễn cảm văn bản:


Mỗi văn bản văn học cần có một giọng điệu

đọc riêng. Tác phẩm trữ tình đọc khác với tác phẩm tự sự, đọc một đoạn đối
thoại khác với đoạn độc thoại nội tâm, đọc văn tả khác với văn kể, văn tường thuật,
đọc văn chính luận khác với tùy bút ... Giáo viên dạy Ngữ văn phải nắm bắt
8


đúng giọng điệu đó. Bên cạnh đọc đúng quy tắc ngữ pháp, đúng với đặc trưng
thể loại, điều quan trọng là giáo viên phải thể hiện được cảm xúc của tâm hồn, sự
xúc động chân thành của bản thân. Có như vậy việc đọc diễn cảm văn bản mới có
hiệu quả thực sự, tạo ra những bất ngờ hứng thú, giúp các em có những cảm nhận
mới mẻ, kích thích khả năng liên tưởng tưởng tượng để thâm nhập vào thế giới
nghệ thuật của tác phẩm văn học.
- GV có thể đọc mẫu, không chỉ đơn thuần là hướng dẫn học sinh cách đọc
đúng, đọc hay mà còn phải bước đầu gieo vào tâm hồn học sinh những cảm xúc,
rung động trước cái đẹp, cái hay của tác phẩm, trước mảnh đời của nhân vật. Qua
đó, học sinh hiểu bài học hơn và khuyến khích lòng say mê ngôn ngữ, hình ảnh để
HS hình dung bức tranh được vẽ bằng nghệ thuật ngôn từ khiến văn bản trở
thành một thế giới sinh động, có hồn nhất trong cảm nhận bước đầu của học sinh.
- Khi đọc ca dao than thân phải làm cho HS cảm nhận được tiếng than thân trách
phận của cô gái trong bài ca , hay đọc bài ca dao về nỗi nhớ của cô gái trong tình
yêu phải tỏ rõ được nỗi khắc khoải da diết nhớ nhung cùng nỗi lo lắng trăm bề của
cô…
c. Linh hoạt trong phương pháp:
Giáo viên luôn vận dụng nhiều phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học,
tạo nên sự phong phú đa dạng trong các hoạt động của quá trình dạy học sẽ làm cho
học sinh cảm thấy thoải mái, không bị ức chế về mặt tâm lí bởi sự nhàm chán, mệt
mỏi vì sự đơn điệu tẻ nhạt. Ví dụ: Khi dạy phần Tiểu dẫn giáo viên cho học sinh
điền thông tin vào phiếu, hoặc ghi sẵn trên bảng và để trống phần thông tin cần

điền:
- Khái niệm:
………………………………………………………………………………………
- Phân loại:

9


+ Ca dao than thân:
……………………………………………………………………………………….
+ Ca dao yêu thương tình nghĩa:
……………………………………………………………………………………….
+ Ca dao về tình yêu qua hương, đất nước, con người:
……………………………………………………………………………………….
+ Ca dao hài hước, châm biếm:
……………………………………………………………………………………….
d. Đưa ra các tình huống có vấn đề.
Dạy học theo tình huống là giáo viên không trình bày đơn thuần nội dung bài
học mà sắp xếp lại tài liệu sao cho toàn bộ bài giảng là vấn đề lớn được chia thành
một số vấn đề nhỏ có liên quan chặt chẽ với nhau, rồi kích thích hứng thú cho học
sinh và khéo léo đưa các học sinh vào những tình huống có vấn đề. Từ đó mà bắt
đầu những phần của bài giảng. Và như thế, hứng thú sẽ được duy trì đến khi nào
chưa tìm ra được câu trả lời.
Ví dụ: Khi hướng dẫn HS đọc bài ca dao than thân , GV có thể đặt ra tình huống có
vấn đề như:
-

Tại sao người phụ nữ xưa lại hay than thở cho số phận của bản thân? Họ có

những nỗi khổ nào?

- Tại sao cô gái lại so sánh mình với tấm lụa đào hay củ ấu gai? …..
e. Sử dụng lời bình hay hợp lí:
Một lời bình hay, đúng lúc có khả năng đánh thức liên tưởng cho học
sinh, là con đường dẫn dắt học sinh thâm nhập tự nhiên vào thế giới nghệ thuật của
văn bản, khơi gợi ở các em niềm yêu thích thơ văn.
Lời bình là sản phẩm của sự xúc động sâu sắc, sự rung động của tâm hồn
trước vẻ đẹp của tác phẩm văn chương, nó cần thiết trong một giờ đọc văn. Tuy

10


nhiên, người giáo viên không được lạm dụng, bởi lẽ, nhiệm vụ chính của GV là
phảitổ chức để HS tự cảm thụ và lĩnh hội giá trị của tác phẩm văn học. Giáo viên
chỉ nên đưa ra lời bình khi học sinh cảm thụ chưa tới, chưa xác đáng, đầy đủ. Khi
bình giảng nên chú ý thay đổi ngữ điệu linh hoạt để gây chú ý, cách giải thích
thuyết phục có tính hài hước, thuyết giảng kết hợp với phương tiện dạy học, với
trao đổi ngắn với học sinh tạo nên sự cộng hưởng trong tiếp nhận cảm thụ. Có
những lời bình của giáo viên sẽ khắc sâu mãi trong tâm trí của mỗi học sinh . Vì
thế, giáo viên cũng nên kết hợp nắm bắt phản hồi của học sinh từ ánh mắt, nét mặt,
không khí lớp học để có điều chỉnh kịp thời. Có như vậy việc bình giảng của GV
mới có tác dụng hỗ trợ, khắc sâu ấn tượng thẩm mĩ cho học sinh.
g. Ứng dụng công nghệ thông tin trong giờ học đọc hiểu Ca dao:
Một trong những biện pháp góp phần thực hiện đổi mới phương pháp dạy học là
ứng dụng CNTT. Bên cạnh những điều bất cập khi ứng dụng CNTT trong giờ học
Ngữ văn như: giáo viên không phân định rạch ròi giữa nội dung giảng và nội dung
HS cần ghi chép.
Chính điều này đã gây nên sự lúng túng cho HS, HS cứ mải miết ghi mà không
tập trung để cảm thụ tác phẩm; GV quá lạm dụng CNTT trình chiếu mà không khai
thác hết, biến giờ dạy thành giờ triển lãm ảnh, không phát huy được óc
quan sát, tưởng tượng, sự cảm thụ ngôn từ của HS; lại có trường hợp GV lựa chọn

hình ảnh, âm thanh minh họa không phù hợp, dẫn đến HS chỉ ấn tượng những gì
được xem, nghe mà quên mất điều quan trọng hơn là phải tập trung cảm thụ khai
thác tác phẩm văn học qua hệ thống ngôn từ; thì nhờ việc ứng dụng CNTT, những
giờ Ngữ văn sinh động hẳn, HS hoạt động tích cực hơn, đem lại những hiệu quả
đáng ghi nhận.
Ví dụ: Dạy về ca dao có thể cho HS nghe một số bài dân ca gần gũi quen thuộc
với các em, hay cho HS xem đoạn hát đối đáp trong ca dao…
h. Lồng ghép trò chơi trong giờ học:
11


Nếu làm một việc gì đó liên tục sẽ cảm thấy rất mệt mỏi, nhàm chán, huống chi
HS phải ngồi suốt 45 phút, tay ghi chép bài, tai lắng nghe lời giảng, đầu óc tập
trung suy nghĩ nếu không có phút nghỉ ngơi sẽ cảm thấy rất mệt, dẫn tới mất tập
trung, chỉ mong hết giờ. Như vậy thì làm sao có hứng thú được. Do vậy GV cần
điều khiển lớp học thật khoa học, sinh động, tạo ra bầu không khí thi đua tích cực
giữa các em. Và việc lồng ghép trò chơi vào giờ học đọc hiểu ca dao cũng là một
cách đáng chú ý. Có nhiều trò chơi có thể lồng ghép vào giờ học . Đọc hiểu ca dao
nhằm tạo không khí lớp học sôi nổi, tạo hứng thú học tập cho các em. Tôi sẽ trình
bày một số trò chơi dễ áp dụng mà hiệu quả lại cao:
- Lồng ghép trò chơi điền bảng, thảo luận nhóm.
Việc lồng ghép trò chơi điền bảng, thảo luận nhóm khi dạy ôn tập lại kiến thức khá
phù hợp và đạt hiệu quả cao. Thay vì cho HS lập bảng thống kê bình thường, khi
ôn tập lại kiến thức, GV chia lớp thành các nhóm khác nhau, cử đại diện bốc thăm,
từng thành viên thay nhau giải quyết công việc. Như thế các HS sẽ rất hào hứng, và
không khí lớp học cũng sôi nổi lên rất nhiều.
Ví dụ: Khi dạy xong bài, GV củng cố khắc sâu kiến thức, GV chuẩn bị:
+ Chia lớp thành 4 nhóm.
+ 4 phiếu bốc thăm - mỗi phiếu có 3 đơn vị kiến thức.
+ Bảng thảo luận nhóm, 4 bút lông viết bảng xanh, đỏ, tím, đen ứng với 4 nhóm 1,

2, 3, 4.
+ Các nhóm HS nhận phiếu bốc thăm và tiến hành thảo luận để tìm ra kiến thức
phù hợp với các ô trống - ghi nội dung vào các bảng thảo luận nhóm, cử đại diện
lên dán bảng lớn
Trò chơi này giúp HS thống kê được kiến thức đã học mà không gây nhàm chán,
lại huy động được sự tham gia của cả lớp, tạo sự gắn bó giữa các thành viên.
- Lồng ghép trò chơi ô chữ.
Do đặc trưng của giờ Đọc văn nên việc vận dụng trò chơi cần ở mức độ
12


vừa phải, thường áp dụng ở mục Tìm hiểu chung, hoặc củng cố, luyện tập.
Ví dụ: thay vì dùng phương pháp phát vấn để HS lần trả lời, GV yêu cầu HS
gấp sách lại, từ sự chuẩn bị bài ở nhà, yêu cầu HS hoàn thành ô chữ. GV lần lượt
nêu các câu hỏi cho các nhóm thực hiện, bắt đầu từ nhóm 1, các nhóm có quyền lựa
chọn ô hàng ngang, nếu nhóm nào không trả lời được theo thời gian qui định thì
phải nhường lượt cho nhóm khác tiếp tục trò chơi, nhóm nào tìm được kiến thức ở
ô hàng ngang thì được cộng 2 điểm. Các câu hỏi:
+ Hàng ngang 1: Nỗi khổ của người phụ nữ trong bài ca dao thứ nhất là gì? (Số
phận chông chênh,phụ thuộc (24 chữ cái))
+Hàng ngang 2: Nỗi nhớ của cô gái trong bài ca dao số 4 được thể hiện qua những
hình ảnh nào? (khăn, đèn, mắt (10 chữ cái))
+Hàng ngang 3: tình nghĩa vợ chồng trong bài ca dao số 6 được khẳng định như thế
nào? (Sắt son, chung thủy( 15 chữ cái))….
- Thi sưu tầm các bài ca dao cùng chủ đề: Các nhóm thi sưu tầm các câu ca dao có
cùng chủ đề, nhóm nào sưu tầm được nhiều và đúng yêu cầu thì nhóm đó thắng.
* Một số lưu ý khi tổ chức trò chơi:
- Khi tổ chức trò chơi giáo viên là người hướng dẫn là trung tâm của sự thu hút học
sinh tham gia đồng thời giáo viên cũng là trọng tài của các trò chơi do vậy giáo
viên phải chững chạc, nghiêm túc nhưng lại phải hết sức vui vẻ, gần gũi, hòa đồng

với các em. Lời nói phải rõ ràng, dễ hiểu, ấn tượng, luôn tạo sự hấp dẫn và pha trộn
ít hài hước trong mỗi trò chơi, nhằm tác động đến tình cảm tâm lí đem lại niềm vui
tươi hứng thú.
- Lựa chọn trò chơi phải phù hợp với bài toán, hướng dẫn học sinh cách chơi.
- Tránh xử phạt đội thua, người thua mà chủ yếu động viên khuyến khích đội
thắng, người thắng.
- Thời gian chơi không quá 10 phút trong một tiết học.

13


Là giáo viên khi tổ chức trò chơi không nên dùng ở mức độ giải trí đơn thuần mà
phải xem trò chơi thực sự là phương tiện giáo dục có hiệu quả nhanh, dễ tiếp thu
mà các em rất thích.
i. Hợp tác trong nhóm nhỏ:
- GV sẽ chia lớp thành từng nhóm nhỏ, nhóm có thể được phân chia ngẫu nhiên
hay có chủ định, HS tập trung thảo luận hoàn thành yêu cầu, cử đại diện hoặc phân
công mỗi thành viên trình bày một phần
Ví dụ : Yêu cầu:
Ví dụ các nhóm thảo luận để so sánh 2 bài ca dao so sánh hai bài ca dao số 1 và số
2 trong chùm ca dao than thân , hoặc bài số 2,3 trong chùm ca dao hài hước. Các
nhóm thảo luận rồi ghi kết quả vào giấy A0, đại diện lên bảng thuyết trình. Phương
pháp này vừa giúp các em lĩnh hội kiến thức vừa rèn kĩ năng thuyết trình, năng lực
giao tiếp.
7.3. Giáo án thực nghiệm:
Ngày soạn: 3/10/2019
Tiết 26:
CA DAO THAN THÂN, YÊU THƯƠNG TÌNH NGHĨA ( Tiết 1)
A- Mục tiêu cần đạt:
1. Kiến thức:

- Cảm nhận được tiếng hát than thân và lời ca yêu thương tình nghĩa của
người bình dân trong xã hội phong kiến qua nghệ thuật đậm đà màu sắc dân gian
của ca dao.
- Những đặc sắc của nghệ thuật dân gian trong việc thể hiện tâm hồn người
lao động.
2. Kĩ năng: đọc- hiểu ca dao theo đặc trưng thể loại.
14


3. Thái độ:
- Trân trọng vẻ đẹp tâm hồn người lao động và yêu quí những sáng tác của
họ.
- Biết cách tiếp cận và phân tích ca dao qua đặc trưng thể loại.
B- Phương tiện, phương pháp thực hiện:
- SGK, SGV, TKBG
- Kết hợp phương pháp đọc diễn cảm, thảo luận, trả lời câu hỏi.
C- Hoạt động dạy học:
1. Ổn định lớp
2. Kiểm tra bài cũ:
Phân tích các tình huống khó xử của thầy đồ? Điều gì đã gây nên tiếng cười
ở đây?(10 điểm)
Phân tích kịch tính của truyện “Nhưng nó phải bằng hai mày”. Mục đích
của truyện?(10 điểm)
3. Hoạt động dạy học:
a/ Giới thiệu bài mới: Cho HS nghe một đoạn , bài dân ca về tình yêu lứa
đôi, tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước.
b/ Hoạt động dạy học:
Hoạt động của GV và HS

Nội dung cần đạt

I. Tìm hiểu chung về ca dao:

Gọi HS đọc tiểu dẫn

- Ca dao là lời thơ trữ tình dân gian,

Yêu cầu HS nhắc lại khái niệm ca dao thường kết hợp với âm nhạc khi diễn
đã được học ở bài Khái quát VHDG xướng, được sáng tác nhằm diễn tả thế
VN

giới nội tâm của con người.

GV đặt câu hỏi:

- Nội dung: diễn tả đời sống tâm hồn,

- Cho hs lên bảng điền vào chỗ trống tư tưởng, tình cảm của nhân dân trong
các đặc điểm nội dung và nghệ thuật các quan hệ lứa đôi, gia đình, quê
của ca dao.

hương, đất nước…
15


- Nghệ thuật:
+ Nội dung chủ yếu của ca dao là gì?

+ Lời ca thường ngắn gọn

+ Đặc điểm nghệ thuật của ca dao?


+ Thể lục bát hoặc lục bát biến thể
+ Ngôn ngữ gần gũi với lời nói hằng
ngày, giàu hình ảnh so sánh, ẩn dụ.
II. Đọc- hiểu văn bản:
1. Bài 1: Tiếng hát than thân của
người phụ nữ trong xã hội cũ:

Hướng dẫn HS đọc chùm ca dao than a. Thân em…cách mở đầu quen thuộc.
thân trong SGK. Chú ý giọng đọc đối Lời than thân của người phụ nữ. Gợi
với từng bài : giọng xót xa, thông cảm.

âm điệu: xót xa, ngậm ngùi

GV đặt ra tình huống có vấn đề:

- Thân em…lời chung của người phụ

-

nữ trong xã hội cũ.

-

Người than thân ở đây là ai?

Tại sao người phụ nữ xưa lại hay - Hình ảnh tấm lụa đào gợi ra vẻ đẹp

than thở cho số phận của bản thân? dịu dàng, tha thướt, quyến rũ, đầy nữ
Họ có những nỗi khổ nào?


tính.  Người phụ nữ ý thức được sắc

Tại sao cô gái lại so sánh mình với tấm đẹp, tuổi xuân và giá trị của mình.
lụa đào hay củ ấu gai? …..

- Hình ảnh so sánh gợi nên nỗi khổ cực

- Thân phận của họ có những nét chung của người phụ nữ: thân phận bị phụ
gì?

thuộc, giá trị không ai biết đến.
- Khắc họa đậm hơn tâm sự nhân vật

Liên hệ:

trữ tình:

“Lụa quấn cột cầu xem lâu cũng đẹp”

+ Khi người con gái bước vào cái tuổi

- Hình ảnh so sánh trong bài ca dao nói đẹp nhất, hạnh phúc nhất của đời mình
lên điều gì?

thì nỗi lo về thân phận lại ập đến ngay
với họ.

- Tâm sự của nhân vật trữ tình ở đây là + Sự đối lập giữa hai dòng thơ càng
16



gì?

thêm thấm thía nỗi lo và nỗi đau ấy.
Luyện tập:

- Cho HS hoạt động nhóm: nhóm thảo - So sánh bài ca dao thứ nhất và bài hai.
luận để so sánh 2 bài ca dao so sánh hai
bài ca dao số 1 và số 2 trong chùm ca
dao than thân , hoặc bài số 2,3 trong
chùm ca dao hài hước. Các nhóm thảo
luận rồi ghi kết quả vào giấy A0, đại
diện lên bảng thuyết trình.
4. Củng cố:
- Cho HS chơi trò chơi: HS hoàn thành ô chữ.
GV lần lượt nêu các câu hỏi cho các nhóm thực hiện, bắt đầu từ nhóm 1, các
nhóm có quyền lựa chọn ô hàng ngang, nếu nhóm nào không trả lời được theo thời
gian qui định thì phải nhường lượt cho nhóm khác tiếp tục trò chơi, nhóm nào tìm
được kiến thức ở ô hàng ngang thì được cộng 2 điểm. Các câu hỏi:
+ Hàng ngang 1: Nhân vật trữ tình trong bài ca dao than thân là ai? ( cô gái (5 chữ
cái ))
+Hàng ngang 2: Hai bài ca dao thứ nhất sử dụng biện pháp nghệ thuât nào? ( So
sánh (6 chữ cái))
+ Hàng ngang 3: Nhân vật trữ tình ví mình như vật gì? (Tấm lụa đào( 9 chữ cái))
+Hàng ngang 4: Tấm lụa đào bị đặt giữa chợ nói lên điều gì về thân phận con
người?( Bị đồ vật hóa ( 10 chữ cái))
+ Hàng ngang 5 : Xác định thể thơ trong bài ca dao.(Lục bát (6 chữ cái))
+ Hàng ngang 6: Nỗi khổ của người phụ nữ trong bài ca dao thứ nhất là gì? (Số
phận chông chênh,phụ thuộc (24 chữ cái))

5. Dặn dò:
- Học thuộc lòng các bài ca dao+ phân tích+ ghi nhớ
- Làm bài tập 1,2
17


- Soạn bài: “Đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết”
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tác giả:
Năm học 2017- 2018, áp dụng dạy học phần ca dao theo hình thức truyền thống, ở
phần Văn học dân gian, Ngữ Văn 10 (Cơ bản), kết quả như sau: ( Kiểm tra 15 phút
sau khi học xong phần Ca dao):
- Số lượng học sinh được kiểm tra: 35 /35 học sinh.
- Kết quả:
+ Điểm kiểm tra :
Số

HS Giỏi

tham

gia

trung

kiểm

tra:

bình


40
Số

lượng 2

Khá

Trung bình Yếu

Kém

Trên

11

17

4

1

30

31,42

48,57

11,42


2,85

85,71

(học sinh):
40
Tỉ lệ (%)

5,71

Năm học 2018- 2019, sau khi áp dụng phương pháp dạy học mới kết quả như sau:
+ Kết quả đánh giá 15 phút sau khi học xong phần Ca dao ( Ngữ văn 10 a10):
Số

HS Giỏi

tham

gia

trung

kiểm

tra:

bình

37
Số


lượng 3

(học sinh)
Tỉ lệ (%)

8,10

Khá

Trung bình Yếu

Kém

Trên

19

14

1

0

36

51,35

37,83


2,70

0

97,29

18


11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng
sáng kiến lần đầu:
Số Tên cá nhân
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17

18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28

Trần Đình An
Nguyễn Quốc Anh
Vũ Thị Lan Anh
Lê Ngọc Ánh
Kiều Thị Tuyết Chinh
Vũ Thị Kiều Chinh
Lưu Hữu Chính
Nguyễn Thị Chung
Trần Văn Chung
Bùi Thị Cúc
Lê Mạnh Cường
Trần Quốc Cường
Nguyễn Thị Mỹ Dung
Khổng Minh Đức
Trần Thị Hằng
Trần Văn Học
Dương Thị Ánh Lam
Nguyễn Văn Linh

Khổng Thị Hương Ly
Nguyễn Văn Minh
Trần Đức Minh
Nguyễn Thị Nhàn
Hà Thị Hồng Nhung
Vũ Hồng Quân
Nguyễn Xuân Quý
Trần Ngọc Sơn
Triệu Xuân Sơn
Nguyễn Tiến Sự

Địa chỉ

Phạm vi/Lĩnh vực

10A10
10A10
10A10
10A10
10A10
10A10
10A10
10A10
10A10
10A10
10A10
10A10
10A10
10A10
10A10

10A10
10A10
10A10
10A10
10A10
10A10
10A10
10A10
10A10
10A10
10A10
10A10
10A10

áp dụng sáng kiến
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy

Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy

19


29
30
31
32
33
34
35
36
37

Nguyễn Thị Minh Tâm
Nguyễn Mạnh Tiến
Lê Văn Toàn

Đỗ Anh Tú
Nguyễn Anh Tuấn
Nguyễn Công Tuyên
Lê Thế Vinh
Đặng Nguyễn Hoàng Vương
Đặng Hải Yến

10A10
10A10
10A10
10A10
10A10
10A10
10A10
10A10
10A10

......., ngày.....tháng......năm......

Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy

Sông Lô, ngày 30 tháng 1 năm 2019


Thủ trưởng đơn vị/

Tác giả sáng kiến

Chính quyền địa phương

(Ký, ghi rõ họ tên)

(Ký tên, đóng dấu)

Nguyễn Thị Thúy Hằng

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bình giảng ca dao dân ca Việt Nam

- Hoàng Tiến Tựu

2. Phương pháp dạy học văn

- Phan Trọng Luận ( chủ biên)

3. Thiết kế giảng dạy Ngữ văn 10

- Phan Trọng Luận ( chủ biên)

4. Thiết kế giảng dạy Ngữ văn 10


- Nguyễn Văn Đường ( chủ biên)

5. Giảng văn văn học Việt Nam

- Nhóm tác giả

6. Một số tài liệu tham khảo khác.

21



×