Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học ở bộ môn công nghệ 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.98 KB, 17 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Lời giới thiệu
Công nghiệp là ngành kinh tế hết sức quan trọng trong ngành kinh tế quốc
dân, nó cung cấp các vật liệu, máy móc, thiết bị, đồ dùng, chế tạo các nguồn năng
lượng,… cho các ngành sản xuất dịch vụ và nhu cầu tiêu dùng của toàn xã hội. Vì
thế, bản thân là giáo viên giảng dạy môn công nghệ 8, tôi cần lựa chọn những
phương pháp dạy học nào phù hợp nhất để giúp các em lĩnh hội tốt một số kiến thức,
kỹ năng cơ bản về kỹ thuật công nghiệp nhằm tạo mầm xanh thúc đẩy chuyển đổi cơ
cấu kinh tế nhanh chóng. Ngoài ra, nó còn góp phần hướng nghiệp cho các em sau
khi tốt nghiệp THCS. một bộ phận sẽ vào học các lĩnh vực như giáo dục phổ thông,
giáo dục nghề nghiệp, số còn lại sẽ đi vào cuộc sống lao động. Trên tinh thần đó,
môn công nghệ 8 cần trang bị cho học sinh một số kiến thức cơ bản về vẽ kĩ thuật,
cơ khí, kĩ thuật điện, gắn liền với thực tiễn sản xuất và đời sống hằng ngày, nhằm
hình thành cho các em một số kĩ năng lao động nghề nghiệp. Tõ ®ã hình thành cho
các em tác phong làm việc theo qui trình công nghệ. Mục đích của môn công nghệ ở
lớp 8 là giúp học sinh bước đầu tìm hiểu, làm quen với một số qui trình công nghệ
đơn giản của cơ khí và kĩ thuật điện, rèn luyện cho học sinh “tư duy kĩ thuật”, hình
thành tác phong công nghiệp trong lao động và trong cuộc sống, tạo cho các em
hứng thú kĩ thuật, có thói quen lao động theo kế hoạch, tuân thủ qui trình công nghệ,
an toàn lao động và bảo vệ môi trường.
Trong công tác giảng dạy, mỗi bài học có những phương pháp dạy học khác
nhau, việc lựa chọn các phương pháp dạy học phù hợp cho từng bài, từng loại kiến
thức, từng đối tượng học sinh và điều kiện thực tiễn của trường là rất quan trọng
nhưng việc vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học còn gặp nhiều khó khăn.
Hiện nay, bộ môn công nghệ ở trường trung học cơ sở vẫn còn xem là môn
phụ, cho nên học sinh không có lòng đam mê, hứng thú với môn học vì nó quá khô
khan không hấp dẫn, ít có sự ràng buộc như các môn khác như toán, văn, lý,.......
Nhưng thực tế, bộ môn công nghệ mang tính thực tiễn cao, kiến thức gần gũi
với cuộc sống, học sinh có thể vận dụng ngay vào cuộc sống sau khi đã được học.
Do đó, là giáo viên giảng dạy môn công nghệ, tôi nhận thấy phải khai thác tối đa


môn học này, phải làm cho học sinh cảm thấy hứng thú và yêu thích môn học, vận
dụng kiến thức đã học vào thực tế sinh động của cuộc sống.
1


Mặt khác, trong thực tế giảng dạy môn công nghệ 8 cho thấy nội dung của từng
bài khá dài, có quá nhiều kiến thức cần truyền tải đến học sinh, học sinh cần phải
quan sát tranh vẽ, mô hình để suy luận tìm ra kiến thức mới, đồng thời cần liên hệ
thực tế nhằm mở rộng kiến thức để học sinh hiểu sâu hơn và kích thích sự hứng thú
của học sinh. Để các đối tượng học sinh trung bình, yếu kém nắm được nội dung bài
thì mất khá nhiều thời gian, thường xuyên giảng dạy bị “cháy giáo án”. Vì thế trong
quá trình giảng dạy môn công nghệ 8 tôi thường “tận dụng hết khoảng thời gian cho
từng hoạt động lên lớp” thông qua việc chế tạo, sử dụng thiết bị, huy động được
nhiều giác quan của học sinh để học sinh có thể tiếp thu được nhiều kiến thức trong
cùng một khoảng thời gian ngắn. à một giáo viên được đào tạo theo chuyên ngành
công nghệ sau nhiều năm công tác tại trường THCS , trực tiếp giảng dạy môn Công
Nghệ 8. Bản thân tôi luôn trăn trở với việc làm như thế nào để học sinh hứng thú với
môn học này và nâng cao chất lượng môn học, phục vụ tốt hơn cho cuộc sống tương
lai của học sinh. Từ những lý do trên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Vận dụng linh
hoạt các phương pháp dạy học ở bộ môn công nghệ 8”.

2. Tên sáng kiến
“Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học ở bộ môn công nghệ 8”.
3. Tác giả sáng kiến
Họ và tên: Nguyễn Thị Thúy
Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THCS Tam Hợp - xã Tam Hợp – Huyện
Bình Xuyên – Tỉnh Vĩnh Phúc.
Số điện thoại: 0979 904 168.
Email:


4. Chủ đầu tƣ tạo ra sáng kiến
(Đồng tác giả sáng kiến)
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến

Trong phạm vi nghiên cứu của sáng kiến, lĩnh vực có thể áp dụng đạt hiệu
quả đó là: lĩnh vực giáo dục áp dụng cho giáo viên và học sinh cấp Trung học cơ sở.
2


Qua nghiên cứu cho thấy, khi sáng kiến được áp dụng giáo viên, học sinh có
thể áp dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau trong một bài học cụ thể. .
6. Ngày sáng kiến đƣợc áp dụng lần đầu hoặc áp dụng
thử Sáng kiến được áp dụng lần đầu vào tháng 8/2015
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1 Một số phƣơng pháp dạy học trong giảng dạy môn công nghệ 8:
Cũng như bao môn học khác, có nhiều phương pháp dạy học để truyền thụ
kiến thức cho học sinh. Tuy nhiên, giáo viên không thể áp dụng theo một phương
pháp nhất định, để học sinh tiếp thu tốt các kiến thức thì giáo viên cần phải lựa
chọn, vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học thích hợp với từng kiểu bài, thiết
bị dạy học, tình hình thực tế của nhà trường và phù hợp với đối tượng học sinh,…
Đối với môn công nghệ 8, thường được áp dụng các phương pháp như sau:

a. Phƣơng pháp gợi mở- vấn đáp (đàm thoại):
Là quá trình tương tác giữa GV và HS, được thực hiện qua hệ thống câu hỏi
và câu trả lời tương ứng về một chủ đề nhất định.
3






Quy trình thực hiện:

Trước giờ học:

-Bước 1: Xác định mục tiêu bài học và đối tượng dạy học. Xác định các đơn vị kiến
thức kỹ năng cơ bản trong bài học và tìm cách diễn đạt các nội dung này dưới dạng
câu hỏi gợi ý, dẫn dắt HS.
-Bước 2: Dự kiến nội dung các câu hỏi, hình thức hỏi, thời điểm đặt câu hỏi, trình
tự của các câu hỏi. Dự kiến nội dung các câu trả lời của HS, các câu nhận xét hoặc
trả lời của GV đối với HS.
-Bước 3: Dự kiến những câu hỏi phụ để tuỳ tình hình từng đối tượng cụ thể mà tiếp
tục gợi ý, dẫn dắt HS.
Trong giờ học:
-Bước 4: GV sử dụng hệ thống câu hỏi dự kiến (phù hợp với trình độ nhận thức của
từng loại đối tượng HS) trong tiến trình bài dạy và chú ý thu thập thông tin phản hồi
từ phía HS.

Sau giờ học:

GV chú ý rút kinh nghiệm về tính rõ ràng, chính xác và trật tự logic của hệ thống
câu hỏi đã được sử dụng trong giờ dạy để rút kinh nghiệm cho các tiết học sau.





Ƣu điểm- Hạn chế của PP gợi mở – vấn đáp : Ƣu điểm

- Là cách thức tốt để kích thích tư duy độc lập của HS, dạy HS cách tự suy nghĩ

đúng đắn.
- ôi cuốn HS tham gia vào bài học, làm cho không khí lớp học sôi nổi, kích thích
hứng thú học tập và lòng tự tin của HS, rèn luyện cho HS năng lực diễn đạt.
- Tạo môi trường để HS giúp đỡ nhau trong học tập.
- Duy trì sự chú ý của HS; Giúp kiểm soát hành vi của HS và quản lý lớp học.



Hạn chế:
- Khó soạn thảo và sử dụng hệ thống câu hỏi gợi mở và dẫn dắt HS theo một chủ đề
nhất quán.
- GV phải có sự chuẩn bị rất công phu, nếu không, kiến thức mà HS thu nhận thiếu
tính hệ thống, tản mạn, thậm chí vụn vặt.



Một số lƣu ý khi sử dụng phƣơng pháp:



GV không trực tiếp đưa ra những kiến thức hoàn chỉnh mà hướng dẫn HS tư duy
từng bước để tự tìm ra kiến thức mới. Câu hỏi phải có nội dung chính xác, rõ ràng,
sát với mục đích, yêu cầu của bài học.Tránh tình trạng đặt câu hỏi không rõ mục
đích, đặt câu hỏi mà HS dễ dàng trả lời có hoặc không.
4




Câu hỏi phải sát với từng loại đối tượng học sinh, nếu không nắm chắc trình độ

của học sinh thì sẽ đặt câu hỏi không phù hợp. Vì thế khi dạy không nên bám sát
giáo án mà cần uyển chuyển cho phù hợp. Cụ thể:

Loại câu hỏi có yêu cầu thấp, đòi hỏi khả năng tái hiện kiến thức, nhớ lại và
trình bày lại điều đã học nên gọi những học sinh trung bình, yếu hoăc kém để tạo
điều kiện cho các em biểu hiện khả năng của chính mình đồng thời kích thích sự
hăng say học tập của các em.

Loại câu hỏi có yêu cầu cao đòi hỏi sự thông hiểu, kỹ năng phân tích, tổng hợp, so
sánh…, thể hiện được các khái niệm, định lý nên gọi những em khá, giỏi để tránh nhàm
chán,…



Học sinh phải trả lời cụ thể, đầy đủ theo yêu cầu nội dung câu hỏi. Nếu học sinh
trả lời thừa sẽ ảnh hưởng đến các câu sau dẫn đến học sinh không nắm vững nội
dung của bài học.



Cùng một nội dung học tập, với cùng một mục đích như nhau, GV có thể sử dụng
nhiều dạng câu hỏi với nhiều hình thức hỏi khác nhau. Bên cạnh những câu hỏi
chính cần chuẩn bị những câu hỏi phụ



Hệ thống câu hỏi phải lôi cuốn học sinh vào tình huống có vấn đề để tìm cách giải
quyết vấn đề nhằm kích thích các em say mê nghiên cứu khoa học.
b. Phƣơng pháp dạy học giải quyết vấn đề:
Dựa vào mục tiêu của bài, giáo viên đưa ra một số tình huống có vấn đề như:

Dự đoán nhờ nhận xét trực quan, thực hành hoặc hoạt động thực tiễn; ật ngược vấn
đề; Xét tương tự; Khái quát hoá; Khai thác kiến thức cũ; Đặt vấn đề dẫn đến kiến
thức mới; Giải bài tập mà chưa biết thuật giải trực tiếp, tìm sai lầm trong lời giải,
phát hiện nguyên nhân sai lầm và sửa chữa sai lầm... Tuỳ thuộc vào đặc điểm của
môn học, bài học, vào đối tượng HS và hoàn cảnh cụ thể mà đưa ra các tình huống
thích hợp. Không nên yêu cầu HS tự khám phá tất cả các tri thức qui định trong
chương trình. Có thể có sự giúp đỡ của GV với mức độ nhiều ít khác nhau. HS được
học không chỉ kết quả mà điều quan trọng hơn là cả quá trình phát hiện và giải quyết
vấn đề. Học sinh tìm tòi giải quyết được một số tình huống có vấn đề đó nhằm phát
triển năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề của học sinh, tạo ra những
hoạt động phong phú, hấp dẫn, nhằm khơi dậy hứng thú, lòng ham học tập, tìm tòi,
kích thích tư duy sáng tạo của học sinh. Để áp dụng được phương pháp này thì cả
thầy và trò phải đảm bảo các yêu cầu sau:



Người thầy phải có kiến thức sâu rộng, xác định được bản chất và trọng tâm của
vấn đề, chuẩn bị tốt các điều kiện dạy học cụ thể, từ đó có thể lấy các tình huống
xảy ra khi đang giảng dạy sẽ thu hút học sinh hơn.
5




Trò phải tập trung chú ý, có hứng thú học tập, có nhu cầu học tập, có trình độ, năng
lực tiếp thu bài nhất định.
c. Phƣơng pháp trực quan:
- GV treo những đồ dùng trực quan hoặc giới thiệu về các vật dụng thí nghiệm, các
thiết bị kỹ thuật…Nêu yêu cầu định hướng cho sự quan sát của HS.
- GV trình bày các nội dung trong lược đồ, sơ đồ, bản đồ… tiến hành làm thí

nghiệm, trình chiếu các thiết bị kỹ thuật, phim đèn chiếu, phim điện ảnh…
- Yêu cầu HS trình bày lại, giải thích nội dung sơ đồ, biểu đồ, trình bày những gì thu
nhận được qua thí nghiệm hoặc qua những phương tiện kỹ thuật, phim đèn chiếu,
phim điện ảnh.
- Từ những chi tiết, thông tin HS thu được từ phương tiện trực quan, GV nêu câu hỏi
yêu cầu HS rút ra kết luận khái quát về vấn đề mà phương tiện trực quan cần chuyền
tải.



Ưu nhược điểm của phương pháp trực quan:
Ưu điểm
- Nguyên tắc trực quan là một trong
những nguyên tắc cơ bản của lí luận
dạy học.

Nhược điểm
- PP này đòi hỏi nhiều thời gian.
- Nếu sử dụng đồ dùng trực quan không
khéo sẽ làm phân tán chú ý của HS, HS

- Đồ dùng trực quan là chỗ dựa để không lĩnh hội được những nội dung
hiểu sâu sắc bản chất kiến thức.
chính của bài học.
- Đồ dùng trực quan có vai trò rất lớn - Nếu giáo viên Không định hướng cho
trong việc giúp HS nhớ kĩ, hiểu sâu
HS quan sát sẽ dẫn đến tình trạngHS sa
kiến thức
đà vào những chi tiết nhỏ lẻ, không




- Phát triển khả năng quan sát, trí quan trọng
tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của
HS

Một số lưu ý khi sử dụng phương pháp trực quan:
-Từng động tác và cử chỉ của giáo viên cũng là một phương tiện trực quan, vì thế
giáo viên cần kết hợp các động tác giảng dạy của mình phù hợp với nội dung cần
truyền đạt.
- Phải căn cứ vào nội dung, yêu cầu GD của bài học để lựa chọn đồ dùng trực quan
tương ứng thích hợp.
- Có PP thích hợp đối với việc sử dụng mỗi loại đồ dùng trực quan.
- HS phải quan sát đầy đủ đồ dùng trực quan. Phát huy tính tích cực của HS khi sử
dụng đồ dùng trực quan.
6


- Đảm bảo kết hợp lời nói sinh động với việc trình bày các đồ dùng trực quan.
- Tuỳ theo yêu cầu của bài học và loại hình đồ dùng trực quan mà có các cách sử
dụng khác nhau.
- Cần xác định đúng thời điểm để đưa đồ dùng trực quan, và cất đồ dùng trực quan
khi không sử dụng.
- Sử dụng các đồ dùng trực quan cần theo một quy trình hợp lý. Cần chuẩn bị câu
hỏi hệ thống câu hỏi dẫn dắt HS quan sát và tự khai thác kiến thức.
- Cần chú ý tận dụng thời gian đặt câu hỏi hoặc định hướng quan sát trong khi trình
bày đồ dùng trực quan hoặc chốt lại nội dung chính cần truyền tải đến học sinh trong
khi thu dọn đồ dùng trực quan. Hoặc làm bảng phụ sao cho học sinh có thể ghi câu
trả lời ngay trên đó mà có thể bôi xoá được để sử dụng cho các tiết khác và có đáp
án để đối chiếu với kết quả của học sinh nhằm tiết kiệm thời gian.

d. Phƣơng pháp thảo luận:
Giáo viên chuẩn bị một hoặc vài câu hỏi, bản vẽ hoặc vấn đề nào đó cho học
sinh thảo luận theo tổ, theo nhóm, thảo luận cặp để hoàn thành




Quy trình thực hiện

Bước 1: Làm việc chung cả lớp:

- Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức.
-Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ cho các nhóm.
- Hướng dẫn cách làm việc theo nhóm.



Bước 2: Làm việc theo nhóm
- Phân công trong nhóm, từng cá nhân làm việc độc
lập -Trao đổi ý kiến
luận, tổng kết trước toàn lớp
- Các nhóm lần , thảo luận trong nhóm
- Cử đại diện trình bày kết quả làm việc của nhóm.



Bước 3: Thảo lượt báo cáo kết quả.
- Thảo luận chung.
- GV tổng kết, đặt vấn đề cho bài tiếp theo hoặc vấn đề tiếp theo.




Ưu nhược điểm của phương pháp thảo luận :
Ưu điểm
Nhược điểm
- HS được học cách cộng tác trên nhiều - Nếu không phân công hợp lí, chỉ có
phương tiện.
một số học sinh khá tham gia còn số HS
- HS được trao đổi, bàn luận.
khác không HĐ.

- Kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững, - Ý kiến các nhóm có thể quá phân tán
dễ nhớ.
hoặc mâu thuẫn với nhau.
7


- HS tự tin, hứng thú trong học tập và
sinh hoạt.
- Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác
của HS được phát triển.



- Thời gian có thể bị kéo dài.
- Với những lớp có sĩ số đông thì khó tổ
chức hoạt động nhóm.
- Khi tranh luận dễ dẫn tới ồn ào.

Một số lưu ý:




Chỉ những hoạt động đòi hỏi sự phối hợp của các cá nhân để nhiệm vụ hoàn
thành nhanh chóng hơn, hiệu quả hơn hoạt động cá nhân mới nên sử dụng phương
pháp này.





Tạo điều kiện để các nhóm tự đánh giá lẫn nhau hoặc cả lớp cùng đánh giá.

Không nên lạm dụng hoạt động nhóm và cần đề phòng xu hướng hình thức (tránh lối
suy nghĩ: đổi mới PPDH là phải sử dụng hoạt động nhóm).



Tuỳ theo từng nhiệm vụ học tập mà sử dụng hình thức HS làm việc cá nhân hoặc hoạt
động nhóm cho phù hợp.



Để tận dụng thời gian thì giáo viên cần chuẩn bị sẵn phiếu học tập.
e. Phương pháp luyện tập thực hành:

Xác định tài liệu cho luyện tập và thực hành

Giới thiệu mô hình luyện tập hoặc thực hành


Thực hành hoặc luyện tập sơ bộ
Thực hành đa dạng
Bài tập cá nhân

Bài tập cá nhân

8


*Ƣu nhƣợc điểm của phƣơng pháp luyện tập và hực hành:
Ƣu điểm
- à phương pháp có hiệu quả dễ mở
rộng sự liên tưởng và phát triển kĩ năng.
- uyện tập và thực hành có hiệu quả
trong việc củng cố trí nhớ, tinh lọc và
trau dồi các kỹ năng đã học, tạo cơ sở
cho việc xây dựng kỹ năng nhận thức ở
mức độ cao hơn.
- à PP dễ thực hiện và được thực hiện
trong hầu hết các giờ học như môn Toán,
Thể dục, Âm nhạc, Anh văn, Công nghệ,
Hoá học...

Nhƣợc điểm
- Dễ làm cho HS nhàm chán nếu GV
không nêu mục đích một cách rõ ràng
và có sự khuyến khích cao. Dễ tạo tâm
lí phụ thuộc vào mẫu, hạn chế sự sáng
tạo.
- Do bản chất của việc nhắc đi nhắc lại

nên HS khó có thể đạt được sự lanh lợi
và tập trung, dễ tạo nên học vẹt, đặc biệt
là khi chưa xây dựng được sự hiểu biết
ban đầu đầy đủ.



Một số lƣu ý khi sử dụng phƣơng pháp luyện tập, thực hành:



Các bài tập luyện tập được nhắc đi nhắc lại ngày càng khắt khe hơn, nhanh hơn và
áp lực lên HS cũng mạnh hơn. Tuy nhiên áp lực không nên quá cao mà chỉ vừa đủ
để khuyến khích HS làm bài chịu khó hơn.



Thời gian cho luyện tập, thực hành cũng không nên kéo dài quá dễ gây nên sự nhạt
nhẽo và nhàm chán.





Cần thiết kế các bài tập có sự phân hoá để khuyến khích mọi đối tượng HS.

Có thể tổ chức các hoạt động luyện tập, thực hành thông qua nhiều hoạt động khác
nhau, kể cả việc tổ chức thành các trò chơi học tập.




Cần rèn luyện kỹ năng thực hành, rèn luyện tác phong công nghiệp, ý thức an toàn lao
động và vệ sinh môi trường nếu có.
f. Phƣơng pháp thuyết trình:
Được dùng để giải thích một khái niệm, một ký hiệu, qui ước, diễn tả các
bước tiến hành,… hoặc được dùng phối hợp với phương pháp trực quan để hướng
dẫn trên mẫu vật hoặc mô hình. Khi sử dụng phương pháp này nghệ thuật của giáo
viên có vai trò rất quan trọng, nếu giảng dạy hấp dẫn có thể làm cho học sinh có một
sắc thái độc đáo, gây ấn tượng mạnh mẽ đối với học sinh. Tuy nhiên, học sinh sẽ thụ
động trong giờ học, không phát triển khả năng tư duy, khả năng tự học, tìm tòi kiến
thức mới. Vì thế, giáo viên cần hạn chế tối đa phương pháp truyền thống này.
Giáo viên cần chuẩn bị tốt và đa dạng các phương tiện dạy học. Tuỳ trường
hợp ta có thể phối hợp phương pháp trực quan với phương pháp đàm thoại, giảng
giải hoặc thảo luận,… trong một hoạt động có thể phối hợp nhiều phương pháp để
tránh nhàm chán và kích thích sự hứng thú trong một tiết học. Ngoài các phương
9


pháp trên, còn có thể vận dụng các phương pháp khác như: Phương pháp trò chơi,
hoặc một số kĩ thuật dạy học đã tập huấn. Bên cạnh đó còn thực hiện theo quan điểm
đổi mới các phương pháp dạy học như sau:

3. Biện pháp tổ chức thực hiện:
Như đã nói trên, không có một phương pháp dạy học nào là vạn năng, không
có nhược điểm này thì cũng có nhược điểm khác. Vì thế tuỳ từng nội dung bài mà ta
lựa chọn và vận dụng phối hợp các phương pháp sao cho phù hợp. Tôi sẽ lấy một
vài ví dụ minh hoạ như sau:

Đối với bài 2: “Hình chiếu”:


Bài này có nhiều kiến thức cơ bản để sau này đọc bản vẽ. Để học sinh nắm
vững các mặt phẳng chiếu thì trong tiết dạy chuẩn bị một số đồ dùng trực quan như
tranh vẽ về các mặt phẳng chiếu (như hình 1a, 1b), giáo viên cần tự làm mô hình 3
mặt phẳng chiếu bằng bìa cứng hoặc bằng tôn cho học sinh quan sát để học sinh dễ
dàng hình dung ra vị trí các mặt phẳng chiếu trong không gian và cách trải các mặt
phẳng chiếu như thế nào để học sinh dễ dàng hình dung biểu diển các hình chiếu
trên trang giấy.
10


Đồng thời giáo viên dùng đèn pin chiếu qua vật thể vào các mặt phẳng chiếu,
bóng của vật thể in trên bìa cứng chính là hình chiếu của vật thể. Tuy nhiên, khi về
nhà học sinh sẽ không có mô hình 3 mặt phẳng chiếu để áp dụng nên việc giải các
bài tập gặp nhiều khó khăn. Vì thế, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh áp dụng
qua các động tác tay phải và lấy các vách tường trong nhà tương ứng làm các mặt
phẳng chiếu:
* Mặt phẳng chiếu đứng là mặt chính diện (giáo viên vươn tay phải về phía trước
chỉ mặt vách tường ở ngay trước mặt)
* Mặt phẳng chiếu bằng là mặt phẳng nằm ngang (tay phải chỉ về mặt đất)
* Mặt phẳng chiếu cạnh là mặt nằm cạnh bên phải mặt phẳng chiếu đứng (tay phải
vươn sang phải chỉ vách tường bên phải). Sau đó giáo viên đổi tư thế đứng về hướng
khác và hỏi học sinh về các mặt phẳng chiếu, học sinh dựa vào các động tác tay phải
để xác định chính xác các mặt phẳng chiếu, giáo viên khẳng định lại nội dung qua
các động tác tay phải của giáo viên.

Như vậy, học sinh đã có đủ các điều kiện để nghiên cứu các hình chiếu ở nhà,
từ vị trí các hình chiếu đến cách trải các mặt phẳng chiếu trên mô hình, biết được
hướng chiếu, ứng với từng mặt phẳng chiếu sẽ có từng hình chiếu tương ứng, học
sinh sẽ nhận biết được vị trí của hình chiếu trên bản vẽ:
+ Mặt phẳng chiếu bằng được trải xuống dưới cho trùng với mặt phẳng chiếu đứng

nên biết được hình chiếu bằng ở dưới hình chiếu đứng.
+ Mặt phẳng chiếu cạnh được trải sang phải nên hình chiếu cạnh ở bên phải hình
chiếu đứng.Từ đó, học sinh sẽ biết để tìm hình chiếu bằng thì sẽ chiếu từ trên xuống
11


vì mặt phẳng chiếu bằng ở dưới hình chiếu đứng; để tìm hình chiếu cạnh thì chiếu
hướng từ trái sang vì mặt phẳng chiếu cạnh ở bên phải hình chiếu đứng.

Đối với bài cƣa và dũa kim loại:

Bài này giáo viên cần kết hợp nhiều phương pháp như phương pháp thực
hành, phương pháp vấn đáp, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp trực
quan,…
-VD1: Cho học sinh quan sát 2 lưỡi cưa và cho biết tại sao răng lưỡi cưa kim loại tại
sao nhỏ và nhiều răng hơn lưỡi cưa gỗ? Hoặc tại sao thao tác đẩy thì ấn cưa và khi
kéo thì không ấn cưa?
-VD2: Giáo viên đưa ra tình huống là: úc ban đầu vật trước khi dũa thì bề mặt nó
phẳng nhưng sau 1 thời gian dũa thì bề mặt nó cong, em nào hãy giải thích hiện
tượng trên? Hoặc ở phần tư thế đứng và thao tác cưa, giáo viên cần thao tác mẫu cho
học sinh quan sát và gọi 1 vài học sinh lên thực hành và các em ở dưới quan sát để
nhận xét, từ đó học sinh nắm được các kỹ thuật dũa và rèn luyện được kỹ năng dũa
cho học sinh.
7.2 Khả năng áp dụng của sáng kiến
Sau khi sáng kiến được áp dụng thử ở khối học sinh lớp 8 tôi thấy kết quả học
tập của các em đã được có sự tiến bộ rõ rệt .Tôi thiết nghĩ nếu sáng kiến này được áp
dụng rộng rãi ở tất cả các khối lớp cấp THCS thì không những giáo viên có thể vận
dụng linh hoạt nhiều phương pháp dạy học khác nhau vào trong cùng một bài học
mà HS có thể tiếp cận kiến thức mới một cách linh hoạt,chủ động,hứng thú nhanh
nhất và kết quả học tập của các em sẽ được nâng cao rõ rệt.

8. Những thông tin cần đƣợc bảo mật
(Không)
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
Đối với giáo viên: Phải xây dựng được các hoạt động phong phú, hấp
dẫn, nhằm khơi dậy sự hứng thú, lòng ham học, tìm tòi, kích thích tư duy sáng tạo
của học sinh. Người thầy giáo đứng lớp cũng như người chỉ huy trong chiến đấu,
luôn phải quan sát đối phương và diễn biến chiến trường để ra các mệnh lệnh chiến
đấu chứ không thể dựa vào bản kế hoạch tác chiến đã vạch sẵn trước khi xảy ra
chiến sự. Để dạy tốt người thầy phải quan sát thực tế, nhạy cảm, theo dõi sự chú ý
và hứng thú của học sinh vì sự chú ý như cửa sổ tâm hồn của con người, khi cửa sổ
này khép lại thì mọi hoạt động của thầy không còn ảnh hưởng đến tâm hồn của họ
nữa.
12


Vì thế, khi lên lớp người thầy vừa quan sát lớp học, vừa giảng dạy, lúc nói,
lúc viết, lúc sử dụng tranh ảnh, sơ đồ, mô hình, lúc ra bài tập, hỏi đáp, thảo luận, lúc
làm thí nghiệm, lúc kiểm tra,… thì giọng nói của thầy cần lên bổng, xuống trầm, lúc
nhanh, lúc chậm, lúc nhấn mạnh điểm này, lúc lướt qua điểm kia, thái độ lúc kiên
quyết, lúc mềm dẻo, lúc nghiêm trang, lúc hài hước. Ngôn ngữ, phong thái của thầy
luôn kết hợp hài hoà với nhau, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ học tập và không khí
hoạt động chung của lớp học, tạo ra vẻ đẹp tự nhiên, đầm ấm và lành mạnh, lôi cuốn
các em vào môi trường học tập.
Người thầy vừa như một người chỉ huy trong chiến đấu, vừa như một nghệ sĩ
trên sân khấu, tài năng và nghệ thuật sư phạm của thầy chủ yếu diễn ra ở lúc này, khi
chúng ta làm được điều đó sẽ góp phần xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực. Vì vậy đòi hỏi người thầy phải tập trung và phát huy cao độ sự nỗ lực sáng
tạo để đạt được hiệu quả cao trong hoạt động của mình. Tuy nhiên, trong quá trình
giảng dạy cũng vấp phải một số khó khăn nhất định và tôi đã rút ra được một số bài
học kinh nghiệm sau:

+ Cần chú ý đến nhiều đối tượng học sinh để đảm bảo sự đồng đều giữa các học
sinh. Cần cho một số bài tập hoặc câu hỏi nâng cao cho một số học sinh khá giỏi để
kích thích học sinh tìm tòi nghiên cứu và một số bài tập hoặc câu hỏi đơn giản cho
học sinh yếu, kém có cơ hội phát biểu.
+ Phải thường xuyên kiểm tra kiến thức cơ bản ở các bài học trước có liên quan ở
bài mới.
+ Cần yêu cầu học sinh chuẩn bị bài trước ở nhà thông qua một số nội dung trọng
tâm hoặc câu hỏi nào đó.
+ Cần kiểm tra thường xuyên các yêu cầu mà giáo viên dặn học sinh ở tiết học
trước.
+ Giáo viên cần thường xuyên cập nhật thông tin từ báo, đài, từ hoạt động thực tiễn,
tham khảo các tài liệu chuyên môn để có được kiến thức phong phú, đủ khả năng để
liên hệ thực tế và giải quyết được nhiều tình huống trong thực tiễn dạy học.
+ Gv cần tận dụng tối đa các thiết bị sẵn có và tự làm thêm một số thiết bị phục vụ
cho việc dạy học.
Đối với học sinh: Học sinh là đối tượng áp dụng của sáng kiến, vì vậy để sáng
kiến đạt hiệu quả thì học sinh cần có tinh thần,có thái độ học tập đúng đắn. Tham gia
tích cực có hiệu quả các hoạt động dạy học trong và ngoài nhà trường.
Đối với nhà trường: Cần tổ chức các buổi chuyên đề để trao đổi kiến thức,
phương pháp, kĩ năng rút kinh nghiệm trong giảng dạy.
13


Đối với phụ huynh học sinh: Các bậc phụ huynh cần dành nhiều thời gian hơn
cho con em mình, phối kết hợp chặt chẽ với Ban giám hiệu nhà trường ,thầy cô giáo
để kết quả học tập của học sing ngày càng cao, công tác giáo dục ngày càng đạt hiệu
quả .
10. Đánh giá lợi ích thu đƣợc
10.1. Đánh giá lợi ích thu đƣợc hoặc dự kiến có thể thu đƣợc do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:

Sau khi áp dụng đề tài này tại trường THCS Tam Hợp trong học kì I năm học 2015
-2016 tôi đã thu được kết quả như sau:
+ 97% số học sinh có hứng thú học tập bộ môn.
+ 97% học sinh chủ động nghiên cứu tìm tòi kiến thức.
Chính vì vậy mà chất lượng được nâng cao, qua học kì I đã đạt được kết quả như
sau:
Xếp loại
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
ớp TS SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
8A
27
6
22.2 18
66.7 3
11.1
0
0
0
8B
25
3
12
8
32
12
48

2
8
0
Tổng 52
9
17.4 26
50
15
28.8 2
3.8
0
Qua kết quả trên bản thân tôi nhận thấy rằng: Tận dụng thời gian cho từng
hoạt động lên lớp, đổi mới và vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tuỳ theo
đối tượng học sinh đã nâng dần tỉ lệ học sinh khá, giỏi và giảm tỉ lệ học sinh yếu,
kém.
10.2. Đánh giá lợi ích thu đƣợc hoặc dự kiến có thể thu đƣợc do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……..

14


11. Danh sách cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần
đầu:
STT


Tên

Địa chỉ

Phạm vi/ ĩnh vực

tổ chức/ cá nhân
1
2

áp dụng sáng kiến

-Vận dụng linh hoạt các
phương pháp dạy học trong
Hợp–
Bình
Xuyên

-Họcsinh khối lớp
bộ môn công nghệ 8
8trườngTHCSTam Vĩnh Phúc
-NguyễnThị Thúy

Trường THCS Tam

Hợp

Tam Hợp, ngày21 tháng 02 năm 2016


Tam Hợp, ngày 15tháng02 năm 2016

Thủ trưởng đơn vị

Tác giả sáng kiến

Nguyễn Thị Thúy

15


PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÌNH XUYÊN
TRƢỜNG thcs TAM HỢP

BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU,ỨNG DỤNG
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Tên sáng kiến kinh nghiệm:VẬN DỤNG
LINH HOẠT CÁC PHƢƠNG PHÁP
DẠY HỌC Ở BỘ MÔN CÔNG NGHỆ 8
Tác giả sáng kiến: Nguyễn Thị Thúy

Tam hợp,Năm 2016

16


17




×