Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

SKKN góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.43 KB, 40 trang )

MỤC LỤC
QUY ƯỚC VIẾT TẮT …………………………………………………….3
BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1.Lời giới thiệu ……………………………………………………………..4
2. Tên sáng kiến …………………………………………………………...6
3. Tác giả sáng kiến ………………………………………………………...6
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến …………………………………………….7
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến …………………………………………….7
6. Sáng kiến được áp dụng lần đầu ………………………………………..7
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1. Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
THÔNG QUA CÁC HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP.....................7
7.1.1. Cơ sở lí luận …………….……………..……………………………
Error: Reference source not found
7.1.2. Cơ sở thực tiễn……………………………..……………….............8
7.2. Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG NHÀ
TRƯỜNG ……………………….………………………………………. 10
7.2.1. Thực trạng …………………………………………………………10
7.2.2. Nguyên nhân của thực trạng……………………………………….10
7.3.Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP MANG TÍNH KHẢ THI……..….12
7.3.1. Giáo viên giảng dạy môn GDCD cần phân biệt được sự khác nhau
giữa giáo dục pháp luật (GDPL) và dạy học pháp luật (DHPL)………..12
7.3.2. Giáo dục pháp luật thông qua các tiết giáo dục ngoài giờ lên lớp theo
quy định..................................................................................................13
7.3.3. GDPL thông qua lồng ghép với các hoạt động tập thể do nhà trường,
Đoàn thanh niên và Công đoàn tổ chức..................................................16

1


7.3.4. Kết hợp với các cơ quan tuyên truyền, công an huyện và tỉnh giáo dục


pháp luật hưởng ứng ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, tháng An toàn giao thông, chiếu phim tuyên truyền về chủ quyền biển
đảo, tổ chức thi tìm hiểu pháp luật………………………………………16
7.3.4.1. Giáo viên môn GDCD tổ chức chiếu phim tuyên truyền về biển
đảo..........................................................................................................17
7.3.4.2. . Mời các cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục
pháp luật của công an huyện và công an tỉnh thực hiện chủ đề “Học sinh với
Luật An toàn giao thông”……….………………………………………..17
7.3.4.3. Giáo dục pháp luật thông qua các cuộc thi tìm hiểu về pháp
luật………………………………………………………………………...17
7.3.5. Giáo viên môn GDCD hướng dẫn học sinh theo dõi và nắm bắt các
hiện tượng pháp luật qua các kênh thông tin nhất là trên truyền hình và
internet…………………………………………………………………….18
7.3.6. Tổ chức cho các em tham dự các phiên tòa lưu động xét xử tại địa
phương........................................................................................... .…….19
7.4. Chương 4: KIỂM CHỨNG CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ ĐƯỢC TRIỂN
KHAI………………………………………………………………………20
PHẦN KẾT LUẬN…………………………………………………………21
PHỤ LỤC………………………………………………………………….25
Phụ lục 1 : Đáp án câu hỏi phần thi “ai nhanh hơn ai” …………………26
Phụ lục 2 : Câu hỏi và đáp án cuộc thi Tìm hiểu Hiến pháp năm 2013…28
Phụ lục 3 : Mẫu khảo sát ( dành cho học sinh) ………………………….35
Phụ lục 4 : Tư liệu tham khảo ………………………………………….. 40

2


QUY ƯỚC VIẾT TẮT
CHXHCNVN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
GDCD : Giáo dục công dân.

GD & ĐT : Giáo dục và đào tạo.
GDPL : Giáo dục pháp luật.
GV : Giáo viên
GVCN : Giáo viên chủ nhiệm
HĐGDNGLL : Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
HP : Hiến pháp
HS : Học sinh
KNS : Kỹ năng sống
PL : Pháp luật
SV : Sinh viên
VNXHCN : Việt Nam xã hội chủ nghĩa
XHCN : Xã hội chủ nghĩa

3


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Trong thời đại ngày nay, khi mọi mặt của đời sống xã hội đang trong quá
trình quốc tế hóa sâu sắc, vấn đề con người trở thành trung tâm. Đối với Việt
Nam- một nước đang trên đà phát triển thì công tác giáo dục, đào tạo con
người mới càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Để làm được điều đó trong
chương trình giáo dục phải có nội dung giáo dục, giáo dưỡng phù hợp với đất
nước, con người Việt Nam, phù hợp với thời đại. Nhận thức được tầm quan
trọng đó, cùng với sự chỉ đạo của Đảng, ngành giáo dục đang tiến hành đổi
mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo. Mục tiêu là nâng cao chất lượng
nội dung giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống của cán
bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh. Tích cực đổi mới mạnh mẽ phương
pháp dạy học, kiểm tra đánh giá học sinh theo định hướng phát huy tính tích

cực, chủ động, sáng tạo và rèn phương pháp tự học của học sinh ; tăng cường
kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn.
Để làm được điều này cần có sự đóng góp của cả xã hội, trọng tâm là ngành
giáo dục – đào tạo, mà người trực tiếp làm là những giáo viên đứng lớp,
trong đó phải kể đến vai trò quan trọng của bộ môn GDCD.
Như chúng ta đều biết môn Giáo dục công dân trong trường phổ thông
có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng. Đây là môn học trực tiếp góp phần hoàn
thiện nhân cách cho thế hệ trẻ. Song hiện nay vấn đề nhận thức bộ môn còn
nhiều hạn chế do thói quen “ học – thi, thi – học”. Đa số mọi người – trong
đó có học sinh, phụ huynh và thậm chí cả một số giáo viên cho rằng Giáo
dục công dân là môn học phụ vì nó không liên quan đến chọn ngành nghề
của học sinh. Vì vậy Giáo viên, phụ huynh thì không quan tâm còn học sinh
thì không có hứng thú học tập. Chính vì vậy kết quả học tập của học sinh
chưa cao, môn GDCD không phát huy được vai trò, vị trí của mình trong
giáo dục phổ thông.
Với mục đích nhằm góp phần nâng cao nhận thức cho mọi người, đặc biệt
là cho học sinh về vai trò, vị trí của môn Giáo dục công dân đã có rất nhiều
giáo viên trực tiếp giảng dạy và những nhà khoa học giáo dục tâm huyết với
bộ môn đi sâu tìm hiểu cách làm thế nào để các em học sinh không quay
lưng lại với môn học ?. Có rất nhiều công trình nghiên cứu và sáng kiến kinh
nghiệm về phương pháp gây hứng thú và phát huy tính tích cực học tập môn
Giáo dục công dân nhằm nâng cao hiệu quả dạy học. Tuy nhiên cho đến nay
vấn đề dạy học môn học này vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn do học sinh
4


chỉ học chống đối mà chưa say mê thực sự với môn học, chưa nhận thức
được tầm quan trọng và sự cần thiết phải học tập bộ môn.
Là một giáo viên trực tiếp dạy học môn Giáo dục công dân trong trường
THPT tôi luôn trăn trở, tìm tòi các cách thức dạy học nhằm giúp các em học

sinh tích cực học tập góp phần tạo nên hứng thú trong các giờ học. Sau nhiều
năm trực tiếp đứng lớp tôi nhận ra rằng chương trình môn Giáo dục công dân
góp phần đào tạo những con người mới vừa có tri thức khoa học, vừa có đạo
đức, vừa có năng lực hoạt động thực tiễn, vừa có phẩm chất chính trị, tư
tưởng, vừa có ý thức trách nhiệm với cộng đồng, gia đình và bản thân. Song
khối lượng tri thức bộ môn Giáo dục công dân lại mang tính trừu tượng hóa
và khái quát hóa cao, học sinh rất khó tiếp thu từ đó các em không hứng thú
tích cực học tập. Vì vậy để hoàn thành tốt nhiệm vụ dạy học những người
làm công tác giáo dục phải gây hứng thú và phát huy tính tích cực học tập
của học sinh.
Lứa tuổi học sinh THPT đang có sự thay đổi về mặt tâm sinh lý, sự
thay đổi này kéo theo những suy nghĩ và hành động khác với những giai
đoạn phát triển trước đó. Sự thay đổi này ngày càng gắn liền với các chuẩn
mực đạo đức xã hội và các quy định của pháp luật. Vì vậy việc tạo môi
trường để các em định hướng đúng là một trong các nhiệm vụ của trường
THPT, trong đó có môn GDCD - môn học có lợi thế trong việc trang bị cho
các em những hiểu biết ban đầu về pháp luật như: pháp luật là gì, công dân
có những quyền cơ bản nào…. Tuy nhiên, thời lượng chính khóa dành cho
môn GDCD ở các trường THPT chỉ có 1 tiết/tuần, cả năm học cũng chỉ có 33
tiết và 2 tiết thực hành, ngoại khóa, tổng cộng thời gian dành cho các buổi
học chính khóa khoảng 24,75 giờ đồng hồ tương đương với khoảng ba ngày
làm việc theo giờ hành chính. Đối với môn GDCD lớp 12 có thể tận dụng
được cả số thời gian đó cho việc giáo dục pháp luật. Còn đối với lớp 10 và 11
chỉ có thể sử dụng một phần rất ít thời gian đó cho việc tích hợp giáo dục
pháp luật. Trong khi kiến thức pháp luật thì tương đối nhiều mà lại khô khan,
trừu tượng, chỉ với thời lượng trên lại không liên tục nên việc khắc sâu kiến
thức cho học sinh gặp nhiều khó khăn.
Giáo dục pháp luật ngoại khóa là một phần không thể thiếu của công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật trong các nhà trường. Phổ biến, giáo dục pháp luật
ngoại khóa phải đảm bảo vừa phổ biến, cung cấp kiến thức pháp luật, vừa

giáo dục, thu hút, vận động chấp hành pháp luật nhằm không ngừng nâng cao
ý thức chấp hành pháp luật trong HS. Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật
ngoại khóa cần bám sát nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục, bám sát Kế
hoạch triển khai thực hiện Đề án 1928 của giai đoạn 2013 - 2016 và thống
nhất với chương trình giáo dục pháp luật chính khóa. Vì vậy, ngày
27/1/2014, Bộ giáo dục và đào tạo ban hành quyết định số 366/QĐ-BGDĐT
5


“Chương trình phổ biến pháp luật ngoại khóa cho học sinh, sinh viên trong
các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp giai đoạn 2013-2016
và những năm tiếp theo".
Với mong muốn góp phần thực hiện Đề án 1928, quyết định 366/QĐBGDĐT đưa những kiến thức pháp luật đến với các em một cách phù hợp,
nhẹ nhàng, không khô cứng, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Góp phần nâng cao
hiệu quả giáo dục pháp luật thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp”
để:
* Góp phần hình thành và từng bước mở rộng hệ thống tri thức pháp luật cho
các em học sinh THPT.
* Góp phần giáo dục ý thức nhân cách, rèn luyện thói quen, hành vi tuân thủ
pháp luật cho cho các em:
+ Tuân thủ các quy phạm pháp luật. Kiềm chế không thực hiện các điều
pháp luật cấm.
+ Thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân.
+ Biết đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật; biết vận dụng pháp luật
để bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân khi bị xâm phạm.
Mục đích cuối cùng của giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ở mỗi học
sinh ý thức pháp luật bền vững.
Điểm mới của sáng kiến: Trong sáng kiến này, tôi mạnh dạn đưa ra một số
giải pháp để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục pháp luật
thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp.

Đóng góp của SKKN :
- Xây dựng cơ sở lí luận cho sự cần thiết phải giáo dục pháp luật thông
qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần giúp những kiến thức pháp luật trở
nên phù hợp, nhẹ nhàng, không khô cứng; giúp học sinh làm quen với kĩ
năng tổ chức các hoạt động, kĩ năng ứng xử trong một số tình huống pháp
luật.
- Có thể làm tư liệu tham khảo cho đồng nghiệp. “Góp phần nâng cao
hiệu quả giáo dục pháp luật thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp” làm
nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm của mình trong năm học này nhằm ứng
dụng có hiệu quả vào thực tiễn.
2. Tên sáng kiến : “Góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật
thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp”.
3. Tác giả sáng kiến :
- Họ và tên : ..............................................
- Đơn vị công tác : Trường THPT
- Số điện thoại : ..........................
- E-mail : .....................................
6


4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến : tác giả sáng kiến ........................
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến :
Sáng kiến sẽ được áp dụng trong dạy học môn Giáo dục công dân :
- Lớp 12 trường THPT
- Môn Giáo dục công dân trường THPT
- Môn Giáo dục công dân các trường THCS và THPT.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu : 15/9/2018
7. Mô tả bản chất của sáng kiến :
7.1. Chương 1

CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA GIÁO DỤC PHÁP LUẬT THÔNG
QUA CÁC HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP.
7.1.1. Cơ sở lí luận
HĐGDNGLL được hiểu là quá trình kết hợp có mục đích vai trò chủ đạo
của giáo viên với hoạt động của học sinh nhằm hình thành ý thức, tình cảm,
hành vi thói quen phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Qua nhiều con đường,
đặc biệt con đường dạy học và HĐGDNGLL hướng tới sự hình thành và phát
triển nhân cách tốt đẹp cho học sinh. Nếu dạy học là tạo dựng cho học sinh
hệ thống những tri thức khoa học, thông qua đó để giáo dục nhân cách và tạo
cơ sở cho toàn bộ quá trình giáo dục đạt hiệu quả cao thì HĐGDNGLL là
những hoạt động được tổ chức ngoài giờ học các môn văn hoá ở trên lớp, là
con đường gắn lí thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức
và hành động.
GDNGLL là hoạt động quan trọng đối với việc phát triển tâm hồn, trí lực,
thể lực và các năng lực khác trong quá trình hoàn thiện nhân cách học sinh.
Hoạt động ngoài giờ lên lớp có nội dung phong phú, hình thức đa dạng hấp
dẫn, phạm vi tiến hành rộng, khả năng kết hợp các lực lượng giáo dục lớn
hơn nhiều so với dạy học văn hóa. Do đó, khép kín chu trình giáo dục cả về
không gian và thời gian. Đó là điều kiện thuận lợi để học sinh phát huy vai
trò chủ thể của mình, tính tự giác, tính tích cực chủ động sáng tạo trong mọi
hoạt động.
Công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
đòi hỏi có những con người mới, có tri thức khoa học, có hiểu biết về pháp
luật, có ý thức tuân thủ pháp luật. Thực tế hiện nay cho thấy, tình hình vi
phạm pháp luật trong xã hội ngày càng tăng nhất là trong lứa tuổi thanh thiếu
niên mà một trong những nguyên nhân đó là tình trạng “mù” pháp luật,
không hiểu biết gì về pháp luật, hoặc hiểu biết pháp luật không đầy đủ, từ đó
dẫn đến việc có những hành vi vi phạm pháp luật.
Các em học sinh trong các trường THPT đang trong giai đoạn phát triển
có nhiều biến động về thể chất lẫn tâm hồn, điều này có tác động lớn đến tâm

sinh lý của các em.
7


Về tâm, sinh lý : Đây là lứa tuổi tâm lý có nhiều biến động, rất nhạy cảm,
dễ xúc động, dễ bị kích động, bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài như phim,
ảnh, các hoạt động văn hoá xã hội. Khi cơ thể phát triển tạo ra các nhu cầu
tìm hiểu sự việc, những ham muốn về sinh lý, về giới tính cộng với tính tò
mò muốn biết hết mọi việc, muốn làm như “người lớn”, bắt trước người lớn,
vì thế, nếu không được giáo dục, không được hướng dẫn đúng cách, nhất là
không được trang bị kiến thức pháp luật dễ nảy sinh tâm lý lệch lạc dẫn đến
hành vi phạm vi phạm pháp.
Ở lứa tuổi này nhân cách đang trong giai đoạn hình thành và chưa ổn
định, các em rất dễ sa ngã, dễ bị rủ rê, lôi kéo vào các hành vi phạm tội do
đặc tính hiếu động, tò mò của tuổi trẻ, nhưng cũng dễ uốn nắn, dễ tiếp thu
các điều hay, điều tốt khi được định hướng, được giáo dục ngay từ giai đoạn
này.
Về nhận thức : đa số các em đang trong giai đoạn hình thành nhân cách, tâm,
sinh lý chưa ổn định, suy nghĩ chưa chín chắn, tính cách hay thay đổi, các em
chưa nhận thức đầy đủ được tính chất của hành vi của bản thân.
Dưới góc độ xã hội, đây là lứa tuổi bắt đầu được phép tham gia một số
quan hệ xã hội nhất định, được pháp luật coi là có năng lực hành vi trong
một vài quan hệ xã hội, đồng thời cũng bắt đầu phải chịu sự điều chỉnh của
pháp luật, phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình, khi tham gia các quan
hệ xã hội.
Những đặc điểm đó có tác động, ảnh hưởng rất lớn đến quá trình nhận
thức và hành động của các em, nếu không có sự định hướng, tác động giáo
dục theo các mục tiêu, chuẩn mực xã hội thì rất dễ bị lôi kéo, quyến rũ vào
các việc làm, các hành vi xấu.
Vì thế cần phải đưa phổ biến, giáo dục pháp luật vào nhà trường, vào

chương trình học tập, sinh hoạt, vui chơi, giáo dục ý thức pháp luật cho học
sinh, sinh viên ngay từ giai đoạn này sẽ có tác động lớn trong việc định
hướng, phát triển hình thành tư cách công dân, góp phần điều chỉnh hành vi,
nâng cao nhận thức, xây dựng nhân cách, xây dựng tính hướng thiện, đảm
bảo tính liên tục trong nhận thức, hình thành trong các em hành vi, thói quen
tự giác xử sự đúng pháp luật, và có ý thức tuân thủ pháp luật.
7.1.2. Cơ sở thực tiễn
Trong hoạt động phức tạp của các loại tội phạm hiện nay, có rất nhiều
đối tượng phạm tội là học sinh, sinh viên. Thậm chí, có những vụ đánh nhau
dẫn đến án mạng khi các em còn ngồi trên ghế nhà trường khiến xã hội rất
đau lòng. Chưa kể, một bộ phận học sinh (HS) tụ tập bè phái, hình thành
băng nhóm có dấu hiệu vi phạm pháp luật đang bị các cơ quan chức năng
điều tra, theo dõi.

8


Theo thống kê của các cơ quan chức năng, thời gian gần đây, tình trạng
HS vi phạm pháp luật đang có chiều hướng gia tăng, cần phải ngăn chặn kịp
thời. Qua báo cáo của các Sở GD&ĐT từ đầu năm 2019 đến nay số học sinh
vi phạm pháp luật vẫn tương đối nhiều, trong đó vi phạm an toàn giao thông
chiếm tỉ lệ khá cao.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật trong HS
đang có nguy cơ gia tăng hiện nay như : môi trường sống tác động đến nhận
thức ở lứa tuổi vị thành niên, quan hệ xã hội phức tạp, sự lơ là trong công tác
quản lý, giám sát, giáo dục của gia đình… Đặc biệt, với sự bùng nổ của công
nghệ thông tin, lứa tuổi mới lớn rất dễ bị lôi cuốn vào các trang mạng xã hội,
website thiếu lành mạnh, những trò chơi game đầy bạo lực cũng ảnh hưởng
đến tư duy, nhận thức của các em học sinh. Bên cạnh đó, cùng với sự phát
triển của nền kinh tế hội nhập, HS hiện nay đang thiếu những sân chơi bổ

ích, thân thiện, dẫn đến thiếu tính tương thân, tương ái.
Công tác tổ chức HĐGDNGLL đã và đang được các nhà trường chú ý
chỉ đạo triển khai theo yêu cầu của môn học. Đội ngũ cán bộ đoàn các
trường đã có nhiều sáng tạo trong việc tổ chức các loại hình hoạt động phù
hợp với từng chủ đề và điều kiện của trường. Giáo viên làm công tác chủ
nhiệm lớp, giáo viên bộ môn GDCD đã có cố gắng trong tổ chức thực hiện
chương trình hoạt động GDNGLL.
Tuy nhiên, những cố gắng đó mới chỉ ở một số thời điểm, mà còn thiếu
tính hệ thống, tính thường xuyên theo quy định 4 tiết mỗi tháng của Bộ Giáo
dục và Đào tạo. Tiềm năng của học sinh chưa được khai thác tích cực, vai trò
chủ thể của học sinh nhiều khi bị mờ nhạt, nhất là trong tiết sinh hoạt cuối
tuần. Trong những tiết này, giáo viên thường lặp đi lặp lại vài hình thức hoạt
động đơn giản như sơ kết lớp, tuyên dương khen thưởng, phê bình, nhắc nhở,
kỷ luật hay dặn dò, giao nhiệm vụ... Nếu có tổ chức thì nội dung hoạt động ít
thay đổi, hình thức hoạt động đơn điệu, do đó chưa tạo ra hứng thú cần thiết
cho học sinh tham gia.
Trường TPHT trong một vài năm trở lại đây cũng quan tâm tổ chức giáo
dục pháp luật thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp hàng tháng. Đoàn
thanh niên vẫn đóng vai trò chính trong việc tổ chức các hoạt động này. Từ
năm học 2013 – 2014 đến nay, nhà trường có sự kết hợp với công an tỉnh và
công an huyện về trực tiếp phổ biến nhưng một năm học chỉ khoảng một đến
hai buổi kết hợp vào các buổi sinh hoạt dưới cờ nên thời gian cũng không
nhiều. Đôi khi Đoàn thanh niên trực tiếp làm công việc này khoảng 15 phút –
chủ yếu cũng chỉ phổ biến một số quy định mang tính cứng nhắc, học sinh ở
dưới cũng không chú ý và cũng không thể nhớ được.
Năm học 2019 – 2020, công tác phổ biến và giáo dục pháp luật được đặc
biệt coi trọng thể hiện ở sự phối hợp giữa Sở tư pháp và Sở Giáo dục và đào
9



tạo trong việc soạn thảo giáo trình, in tờ rơi, tập huấn cán bộ đoàn và giáo
viên trực tiếp giảng dạy môn GDCD. Chỉ đạo thực hiện công tác phổ biến
giáo dục pháp luật năm 2019 - 2020 theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo. Tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả Đề án “Nâng cao chất
lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường giai đoạn 2015
– 2020”.
Thực hiện Kế hoạch số 872/KH-BGDĐT ngày 01/10/2014 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo về việc tổ chức thực hiện “Ngày Pháp luật của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” trong ngành giáo dục năm 2019, Sở
GD&ĐT Vĩnh Phúc đã chỉ đạo:
- Thủ trưởng các phòng, ban Văn phòng Sở, các phòng GDĐT huyện, thị
xã, thành phố, các đơn vị trực thuộc chỉ đạo triển khai có hiệu quả Ngày
Pháp luật được quy định tại Điều 8 – Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật đến
toàn thể các đối tượng cán bộ quản lý, nhà giáo và người học trong phạm vi
quản lý của cơ quan, đơn vị mình.
- Nhằm thực hiện tốt Ngày Pháp luật năm 2019.
- Hưởng ứng Lễ ra quân phòng , chống tội phạm, vi phạm pháp luật và tệ
nạn xã hội của Bộ GD-ĐT ngày 16/8/2019 tại Hải Phòng với đại diện của 63
sở GD – ĐT và các trường đại học, cao đẳng sư phạm trên cả nước.
7.2.Chương 2
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG
NHÀ TRƯỜNG
7.2.1. Thực trạng
Theo thống kê của ngành Công an, trong 8 tháng đầu năm 2019 toàn
quốc xảy ra 25.806 vụ hình sự ; trong đó nhiều vụ do học sinh và sinh viên
gây ra. Đáng chú ý là số vụ và số đối tượng vi phạm của năm sau cao hơn
năm trước và tính chất phạm tội cũng nghiêm trọng hơn.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm ngày càng phức tạp và
chúng luôn chú ý tới HS, SV- đối tượng có sự hiểu biết chưa đầy đủ, thích
đua đòi ăn chơi để dụ dỗ lôi kéo các em thực hiện hành vi phạm tội.

Vì vậy, trong những năm gần đây, tình trạng vi phạm PL trong HS có
chiều hướng gia tăng cả về số vụ việc và tính chất nghiêm trọng, hành vi
phạm pháp trở nên thường xuyên hơn, đa dạng hơn, tạo nên những bức xúc
trong dư luận và nhân dân..., nguyên nhân không chỉ là do thiểu hiểu biết PL,
mà còn là sự bất chấp PL, thậm chí “lách luật” để vi phạm…
Phương pháp, hình thức GDPL cho HS còn nhiều hạn chế, bất cập nên
chưa tạo được những đột phá trong thay đổi nhận thức HS – mặc dù đã có
những đổi mới bước đầu như: đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, giáo
dục, đổi mới kiểm tra đánh giá môn GDCD theo hình thức vừa bằng cách
10


cho điểm, vừa bằng cách đánh giá biểu hiện hành vi thông qua xếp loại hạnh
kiểm. GV môn GDCD chưa kiểm soát được hành vi của học sinh do không
có đủ khả năng và điều kiện thời gian thực hiện.
Công tác phổ biến, GDPL đôi khi còn mang tính hình thức, làm cho có
làm : chỉ đơn thuần trang bị kiến thức pháp luật mà chưa chú ý phát triển
năng lực và phẩm chất cho các em, đặc biệt khâu giám sát diễn biến tâm lý,
biểu hiện thái độ, hành vi trong và ngoài nhà trường của các em ; lấy sự tiến
bộ về đạo đức, lối sống làm tiêu chí hàng đầu trong đánh giá kết quả học tập
của HS ; tập trung vào tuyên truyền, phổ biến mà coi nhẹ hoạt động giáo dục,
kiểm tra, kiểm soát... dẫn đến sự đánh giá kết quả học tập không chính xác,
khách quan...
7.2.2. Nguyên nhân của thực trạng
Nội dung GDPL đang có sự “quá tải” khi có rất nhiều kiến thức pháp luật
được tuyên truyền, giảng dạy trong nhà trường thông qua các hình thức như :
tích hợp, lồng ghép, chuyên đề, thêm tiết... mà thiếu đi sự lựa chọn nội dung
trong việc GDPL cho HS. Điều này dẫn tới sự lúng túng trong xây dựng
chương trình, nhiều nội dung đưa vào môn Giáo dục công dân (GDCD) trùng
lặp với môn học khác. Chẳng hạn, theo Quy chế Đánh giá, xếp loại HS trung

học cơ sở và HS THPT (ban hành kèm theo Thông tư 58/2011/TT-BGDĐT
ngày 12/12/2011) quy định giáo viên môn GDCD phối kết hợp với giáo viên
chủ nhiệm lớp đánh giá xếp loại hạnh kiểm ghi vào học bạ của học sinh. Đây
là điểm mới so với trước đây. Tuy nhiên, có thực tế : một GV dạy môn
GDCD chỉ có 1tiết/1 tuần/1 lớp - nên trong một tuần, GV phải tiếp cận với
rất nhiều lớp, nhiều HS. Với số HS đông đảo như vậy mà GV chỉ có 45 phút
tiếp cận thì làm sao họ có thể nắm bắt được diễn biến tâm lý, biểu hiện hành
vi của HS để đánh giá, xếp loại ghi vào học bạ?
Hơn nữa, về phương pháp, một số GV chưa phân biệt được giữa “dạy
học PL” và “GDPL”. Nhiều GV hiện nay vẫn còn nặng về “dạy học PL”- tức
là tuyên truyền, trình bày cặn kẽ, giúp HS tiếp thu, nắm vững về PL. Cách
làm này chỉ đạt được mục tiêu nâng cao hiểu biết pháp luật nhưng lại chưa
giáo dục được ý thức, thái độ, hành vi, kỹ năng, kỹ xảo cho HS dẫn đến thực
trạng vi phạm PL ở các em có chiều hướng gia tăng ngay khi chúng ta đang
đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến PL.
Công tác quản lý, chỉ đạo, phối hợp GDPL ở các trường THPT còn có
những hạn chế. Ban Giám hiệu ở các nhà trường chưa nhận thấy hết vị trí,
vai trò quan trọng của hoạt động GDPL cho HS, vẫn coi việc dạy học môn
GDCD như bao môn học khác : chỉ hoàn thành tiết dạy theo thời khóa biểu,
kiểm tra cho điểm đạt yêu cầu là xong. Môn GDCD, trong đó có GDPL là
hoạt động giáo dục có ý thức, mục đích, kế hoạch nhằm bồi dưỡng cho công
dân tương lai những phẩm chất về tri thức, tư tưởng, đạo đức, hành vi, lối
11


sống cũng như những kỹ năng sống cần thiết cho cuộc sống sau này ; là một
quá trình giáo dục tiếp nối từ giảng đường đến đời sống, từ học lý thuyết đến
kiểm soát hành vi. Nhiều trường chưa phát huy hết sức mạnh của các tổ chức
trong và ngoài đơn vị tham gia vào hoạt động GDPL. Sự phối hợp giữa nhà
trường và cơ quan công an trong GDPL chỉ ở phạm vi giải quyết vụ việc đã

xẩy ra chứ chưa có các hoạt động, phối hợp giáo dục, trao đổi thông tin
thường xuyên giữa các bên... để tìm các giải pháp nhằm giáo dục hiệu quả.
7.3. Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP MANG TÍNH KHẢ THI
7.3.1. Giáo viên giảng dạy môn GDCD cần phân biệt được sự khác
nhau giữa giáo dục pháp luật (GDPL) và dạy học pháp luật (DHPL).
Về phương pháp, một số GV chưa phân biệt được giữa “dạy học PL” và
“GDPL”. Đa số vẫn còn nặng về “dạy học pháp luật”. Vậy, thế nào là giáo
dục pháp luật?
Theo cách hiểu chung nhất, giáo dục pháp luật có hai nghĩa:
- Theo nghĩa hẹp : Giáo dục pháp luật là giới thiệu tinh thần văn bản
pháp luật cho người có nhu cầu; theo đó giáo dục pháp luật là việc truyền bá
pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao tri thức, tình cảm, niềm tin pháp luật
cho đối tượng từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp
hành pháp luật của đối tượng.
- Theo nghĩa rộng : Giáo dục pháp luật là một khâu của hoạt động tổ
chức thực hiện pháp luật, là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định
thông qua các hình thức giáo dục, thuyết phục, nêu gương... nhằm mục đích
hình thành ở đối tượng tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi xử sự phù hợp
với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành với các hình thức, phương
tiện, phương pháp đặc thù.
Như vậy, phổ biến, giáo dục pháp luật là quá trình hoạt động thường
xuyên, liên tục và lâu dài của chủ thể tuyên truyền lên đối tượng, là cầu nối
để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống. Trong công tác quản lý nhà nước, phổ
biến, giáo dục pháp luật được hiểu theo nghĩa rộng và được xác định là một
công việc trọng tâm và thường xuyên của các cơ quan nhà nước, các cấp, các
ngành.
Để GDPL thực sự hiệu quả, đòi hỏi GV dạy GDCD trong trường THPT
phải thay đổi mạnh mẽ quan điểm về GDPL cho HS theo hướng chuyển đổi
từ “dạy học PL” sang “GDPL”. Cụ thể : chuyển từ tuyên truyền, trình bày

cãn kẽ nội dung pháp luật cho HS sang giáo dục tri thức, tư tưởng, thái độ,
hành vi, kỹ năng sống thông qua tổ chức các hoạt động thiết thực... nhằm
hình thành ý thức tự giác, chủ động trong đánh giá hành vi của HS về bản
thân và mọi người trên cơ sở sự định hướng, kiểm tra, giám sát chặt chẽ của
12


GV và nhà trường, qua đó giảm thiểu hành vi vi phạm PL trong học sinh và
tăng cường tính tự giác chấp hành PL ở các em ngày một cao hơn.
7.3.2. Giáo dục pháp luật thông qua các tiết giáo dục ngoài giờ lên
lớp theo quy định.
Từ nhiều năm nay, Bộ giáo dục và đào tạo đã quy định ngoài việc học
các chương trình chính khoá, học sinh THPT được thực hiện hai tiết giáo dục
ngoài giờ lên lớp trong một tháng. Thống nhất của nhóm GDCD trường
THPT X chúng tôi trong năm học này mỗi khối có hai tiết “Thực hành, ngoại
khóa các vấn đề của địa phương và các nội dung đã học” vào khoảng cuối
của mỗi kỳ học. Tôi thấy tổ chức cho các em những hoạt động ngoài giờ lên
lớp là một việc làm có ý nghĩa rất lớn, bởi ở các tiết học đó, các em được trao
đổi, thảo luận nhiều nội dung và chủ đề mà Bộ giáo dục và đào tạo đã cung
cấp tài liệu tham khảo. Các em được tiếp cận với nhiều vấn đề giáo dục đạo
đức, pháp luật, nhiều vấn đề xã hội, nhiều kỹ năng thực sự cần thiết.
Tuy vậy, việc thực hiện được các tiết giáo dục ngoài giờ lên lớp cho học
sinh không phải là một điều đơn giản đối với nhiều giáo viên. Bởi kiến thức
ở đây không phải là kiến thức chuyên ngành mà các giáo viên được đào tạo,
hơn thế, đã là giáo dục ngoài giờ lên lớp thì phương pháp dạy học, cách thức
tổ chức phải sáng tạo, linh hoạt thì mới thu hút được học sinh và đem lại hiệu
quả thực sự của việc giáo dục. Nếu thực hiện tiết học ngoài giờ lên lớp mà
lúc nào cũng bắt học sinh ngồi trong lớp, sau đó giáo viên chỉ sử dụng
phuơng pháp thuyết trình thì học sinh sẽ cảm thấy nhàm chán và không đem
lại sự thoải mái.

Là giáo viên dạy môn GDCD đồng thời cũng là GVCN nên tôi càng coi
trọng các tiết giáo dục ngoài giờ lên lớp, bởi đây là cơ hội để tôi không
những thực hiện được chủ đề giáo dục của tháng mà còn thực hiện đan xen
những chủ đề giáo dục kỹ năng sống cho các em - vấn đề mà tôi rất tâm đắc
thực hiện. Tôi luôn tìm cách để đổi mới nội dung và hình thức tổ chức giáo
dục ngoài giờ lên lớp : Có tiết cho học sinh sinh hoạt ở trên lớp và sử dụng
phương pháp mới như đóng vai, thảo luận, thi hùng biện, giao lưu văn nghệ;
có tiết cho các em xuống nhà đa năng (ở đó không gian rộng rãi mà không
ảnh hưởng tới các lớp khác), có tiết tổ chức các em sinh hoạt chủ đề : Học
sinh với an toàn giao thông ; nói không với bạo lực học đường ; nói không
với tệ nạn xã hội, ...
Để đạt mục tiêu và hiệu quả của tiết hoạt động đó, tôi chọn chủ đề sinh
hoạt phù hợp với từng tuần, tháng hoặc chủ đề mang tính “thời sự” mà học
sinh quan tâm, hợp với khả năng của mình và nguồn tài liệu tin cậy để thực
hiện.

13


Để hoạt động trong 45 phút thì việc chuẩn bị của thầy trò là yếu tố
quyết định. Với học sinh, tôi thông báo cho các em chuẩn bị trước những
thắc mắc và vấn đề cần thảo luận trao đổi.
Với giáo viên, tôi chuẩn bị nội dung cụ thể cho từng chủ đề (có thể tổ
chức trò chơi hái hoa dân chủ xen lẫn văn nghệ). Trong năm học 2018-2019,
ở một số lớp mà tôi trực tiếp giảng dạy, tôi đã cho học sinh trao đổi thảo luận
các chủ đề: góp phần phòng chống bạo lực học đường, ứng xử thanh lịch,
văn hoá tham gia giao thông đường bộ…
Trước buổi sinh hoạt ngoại khoá (vào giờ giải lao) tôi cùng học sinh
trang trí bảng, viết chủ đề sinh hoạt lớp, vẽ trang trí. Như vậy, không mất
nhiều thời gian, không cầu kỳ, nhưng lớp học đã có một không khí mới mẻ,

đầm ấm trong tiết giáo dục ngoài giờ lên lớp. Các em thấy rất vui vẻ, bổ ích
sau tiết học, có khi còn mang niềm vui này chia sẻ với bạn bè và người thân.
Ví dụ cụ thể : Hưởng ứng ngày Pháp luật năm 2018, tôi chọn chủ đề
sinh hoạt : “An toàn với xe đạp điện, xe máy điện”
Chuẩn bị :
* Học sinh:
- Bài hát “Chúng em với an toàn giao thông” của tác giải Hoàng
Phong.
- Hai loại mũ bảo hiểm : mũ thời trang và mũ của công ty Honda.
- Trang trí bảng.
- Phần thưởng (một vài phần thưởng nhỏ, ngộ nghĩnh).
- Bút dạ, giấy A0, các câu hỏi, thắc mắc, các tình huống về chủ đề.
- Bài tham luận.
* Giáo viên :
- Máy tính, loa.
- Chương trình và nội dung buổi sinh hoạt để trình chiếu.
- Thu thập những khẩu hiệu có liên quan để trình chiếu.
* Thực hiện :
Giới thiệu và bầu ban giám khảo (bao gồm cả giáo viên) và thư ký.
Phần I : Khởi động:
Cả lớp hát tập thể bài “Chúng em với an toàn giao thông” của tác giả
Hoàng Phong, theo nhạc GV đã chuẩn bị để tạo không khí sôi nổi trong lớp
học.
Phần II : Trao đổi cùng nhau
- GV dẫn dắt bằng các câu hỏi:
+ Lớp mình có những bạn nào đi xe đạp điện đến trường?
+ Những bạn nào đã có mũ bảo hiểm?
+ Bạn nào mang theo mũ bảo hiểm nhưng chỉ để trong cốp, trong giỏ
xe, hoặc để trên lớp cho Đoàn thanh niên kiểm tra?
14



+ Bạn nào thường xuyên đội mũ bảo hiểm?
+ Các bạn có biết quy định nào của pháp luật liên quan đến việc tham
gia giao thông bằng xe máy điện, xe đạp điện không?
- Sau khi có ý kiến của học sinh cho từng vấn đề giáo viên sẽ trao đổi
cùng các em và hướng các em đến nhận thức đúng để có hành động đúng khi
tham gia giao thông.
Phần III : Phần thi “Ai nhanh hơn?”
- GV chia lớp thành bốn đội, các đội bầu ra đội trưởng.
- GV phổ biến thể lệ cuộc thi :
+ Đội nào có nhiều câu trả lời nhanh và đúng sẽ là đội thắng cuộc.
+ Câu hỏi của cuộc thi được soạn thảo trên phần mềm powerpoint và
chiếu lên máy chiếu:
Câu 1: Tại sao bạn cần đội mũ bảo hiểm khi xe đạp điện, xe máy điện?
Câu 2 : Theo em độ tuổi 12, 13 có được đi xe đạp điện không?
Câu 3 : Thời gian gần đây trên các đường trên cả nước xuất hiện nhiều
học sinh, sinh viên điều khiển xe đạp điện, xe đạp máy lưu thông trên đường
không đội mũ bảo hiểm. Theo em, trong trường hợp này có bị xử lý không?
Câu 4 : Khi điều khiển xe gắn máy và lưu thông trên đường có đội mũ
bảo hiểm và cài quai đúng quy cách nhưng mũ không đạt chất lượng theo
tiêu chuẩn thì có bị xử phạt hay không?
Câu 5 : Em hiểu được vai trò của việc đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy
điện, xe đạp điện nhưng em thấy thực hiện hơi khó một chút. Hãy cùng cho
nhau những gợi ý là ta nên làm thế nào?
(Mỗi một slide câu hỏi kết nối với một slide câu trả lời và ngược lại)
Trao thưởng: Ban giám khảo cùng học sinh trong lớp đánh giá (lựa
chọn) những đội tham gia thảo luận nhiệt tình, tích cực, hiệu quả nhất. Đại
diện ban giám khảo trao thưởng cho các em.
Phần IV : Thi hùng biện:

Mỗi đội cử một bạn lên hùng biện về chủ đề trong hai phút (có thể
đọc bài tham luận viết sẵn, có thể trình bày theo ý tưởng).
Ban giám khảo chọn và trao giải cho bài hùng biện hay nhất, có ý
nghĩa nhất, thiết thực nhất.
(Đáp án câu hỏi phần thi “Ai nhanh hơn” ở phần phụ lục 1).
Phần V : Xin ý kiến tư vấn của cô giáo
- Học sinh đưa ra các câu hỏi thắc mắc, các tình huống liên quan đến
chủ đề nhờ cô giáo tư vấn giúp đỡ.
- Giáo viên chủ nhiệm trực tiếp cho các em lời khuyên (Giáo viên có
thể chia sẻ với học sinh kinh nghiệm của mình, nếu có vấn đề khó mà giáo
viên chưa tư vấn được ngay, thì có thể hẹn học sinh trả lời vào một buổi khác
sau khi giáo viên đã tham khảo được nội dung đó).
15


Như vậy qua tiết học giáo dục ngoài giờ lên lớp tôi đã có thể giáo dục
thêm cho các em một số quy định của pháp luật liên quan đến an toàn khi đi
xe đạp điện. Đồng thời, các em được sinh hoạt tập thể, được thảo luận chủ
động, giao lưu cởi mở, học mà không căng thẳng … nên các em rất hứng thú
tham gia, hiệu quả giáo dục đạt được cao hơn.
Nếu chúng ta quan tâm và đầu tư công sức vì lợi ích của học sinh thì
nhất định chúng ta đều có thể tìm ra cách làm rất hiệu quả. Học sinh của
chúng ta khi đuợc các thầy cô giáo hướng dẫn các em sẽ rất nhiệt tình hưởng
ứng và có thể sẽ trở thành những nhà hùng biện, nhà tuyên truyền pháp luật
thực thụ cho các tiết học như thế.
7.3.3. GDPL thông qua lồng ghép với các hoạt động tập thể do nhà
trường, Đoàn thanh niên và Công đoàn tổ chức.
Trong năm học, các trường đều có nhiều hoạt động tập thể như sinh hoạt
dưới cờ đầu tuần, các đợt thi đua chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20/11,
ngày thành lập Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh 26/3... Đây cũng là

cơ hội để lồng ghép GDPL đến toàn thể HS trong trường nếu nhóm GDCD
biết lựa chọn nội dung phù hợp, tham mưu với tổ bộ môn, với Ban giám
hiệu, với Đoàn thanh niên để chủ động về kế hoạch, về hình thức thể hiện.
Cụ thể, trong các hoạt động chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam và
ngày thành lập Đoàn, Đoàn thanh niên thường có các cuộc thi về văn nghệ,
tập san báo tường,... Nhóm GDCD đã đề xuất và đưa vào kế hoạch triển khai
đến các lớp, các chi đoàn về các tiết mục văn nghệ ngoài chủ đề về đất nước,
ca ngợi Đảng, Bác Hồ, thầy cô, tuổi trẻ... thì khuyến khích việc dàn dựng các
tiết mục về việc thực hiện pháp luật của tuổi học trò, viết bài về hiểu biết và
các tình huống pháp luật, nhất là những tấm gương người thật, việc thật trong
chính nhà trường. Đặc biệt với nhóm GV GDCD làm chủ nhiệm thì lớp mình
phải có những tiết mục và bài viết về GDPL, cụ thể (mỗi lớp hướng tới tình
huống pháp luật cụ thể nhưng khác nhau để tạo sự đa dạng, rộng khắp).
Chính vì thế mà tình huống các bạn học sinh lớp 10 đi thăm và chúc
mừng cô giáo chủ nhiệm, do đi xe đạp điện không đội mũ bảo hiểm nên đã bị
các chú công an lập biên bản và gửi thông báo về trường, niềm vui ngày nhà
giáo Việt Nam không trọn vẹn.... đã gây được ấn tượng sâu sắc đến toàn thể
thầy cô giáo và HS.
7.3.4. Kết hợp với các cơ quan tuyên truyền, công an huyện và
tỉnh giáo dục pháp luật hưởng ứng ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, tháng An toàn giao thông, chiếu phim tuyên
truyền về chủ quyền biển đảo, tổ chức thi tìm hiểu pháp luật ...
Việc GDPL không chỉ trong nhà trường mà còn có nhiều cơ quan, ban
ngành cùng phối hợp nhằm nâng cao hiệu quả GDPL. Thực hiện Kế hoạch số
872/KH-BGDĐT ngày 01/10/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc tổ
16


chức thực hiện “Ngày Pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam” trong ngành giáo dục năm học nào Sở Giáo dục và Đào tạo Vĩnh Phúc

cũng hướng dẫn một số việc làm cụ thể để tổ chức các hoạt động Ngày Pháp
luật.
Với chủ đề : “Toàn dân tích cực tìm hiểu và nghiêm chỉnh thi hành Hiến
pháp, pháp luật vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, trường THPT đã tổ chức các hoạt động:
7.3.4.1. Tổ chức chiếu phim tuyên truyền về chủ quyền biển đảo.
Hoạt động này đã được Bộ Giáo dục chỉ đạo và Sở giáo dục hướng dẫn
thực hiện, nhà trường lên kế hoạch để GVCN cùng các lớp HS tham gia, tôi
đã chủ động cùng nhóm chuyên môn và các lớp mình dạy có những chuẩn bị
riêng để hoạt động tuyên truyền đó có hiệu quả thiết thực với từng em. Do
biết trước chủ đề tuyên truyền nên tôi hướng dẫn và giao nhiệm vụ cho các
em bằng hệ thống câu hỏi liên quan để sau buổi tuyên truyền đó các em phải
trả lời được các câu hỏi hoặc viết bài thu hoạch về nhận thức bản thân về vấn
đề được tuyên truyền. Bài thu hoạch đó có thể chấm điểm thay cho bài kiểm
tra 15 phút. Những bài viết hay, sâu sắc có thể đăng lên website của nhà
trường… Sau mỗi hoạt động như vậy, tôi lại cùng các em có những hiểu biết
thêm về pháp luật, rút ra được những kinh nghiệm thiết thực.
7.3.4.2. Mời các cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo
dục pháp luật của công an huyện và công an tỉnh thực hiện chủ đề “Học
sinh với Luật An toàn giao thông”.
Một vài năm trở lại đây, trường THPT thường kết hợp với các cơ quan
công an trên địa bàn huyện, tỉnh về trực tiếp tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật. Trước các buổi tuyên truyền, tôi thường giao cho các em một số
câu hỏi hoặc bài thu hoạch. Do được chuẩn bị và giao nhiệm vụ trước nên
các em rất chăm chú lắng nghe, thảo luận sôi nổi hoặc đặt câu hỏi ngược lại
cho các tuyên truyền viên.
7.3.4.3. Giáo dục pháp luật thông qua tổ chức cuộc thi “Tìm hiểu
pháp luật”.
Viết bài dự thi dưới hình thức trả lời câu hỏi là một trong các biện pháp
giáo dục pháp luật được sử dụng phổ biến. Đã từng có rất nhiều cuộc thi tìm

hiểu về pháp luật : Luật Đất đai, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật phòng,
chống ma túy,… những cuộc thi như vậy thu hút được mọi lứa tuổi tham gia,
có tác dụng phổ biến, giáo dục rộng rãi những quy định của pháp luật về mọi
mặt của đời sống. Nhận thấy đây là một hình thức có thể áp dụng trong phạm
vi trường học nên tôi cùng nhóm tổ chức cuộc thi tìm hiểu pháp luật. Cụ thể
là thi tìm hiểu Hiến pháp 2013. Sở dĩ, tôi chọn nội dung này là vì Hiến pháp
2013 là bản Hiến pháp mới, có hiệu lực từ ngày 1/1/2014, có nhiều điểm mới
về nội dung, thuật ngữ cũng như số chương, điều. Hiến pháp là luật cơ bản
17


của nhà nước, là luật có giá trị pháp lý cao nhất làm cơ sở cho các luật, bộ
luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Nhóm phân công việc chuẩn bị, quan trọng nhất là hệ thống câu hỏi
cùng đáp án. Để đảm bảo phù hợp với lứa tuổi và mục tiêu GDPL, chúng tôi
đã tham khảo các câu hỏi trên mạng internet và soạn lại (Phần phụ lục 2).
Thời gian thu bài, chấm bài, cơ cấu giải thưởng (chủ yếu mang tính
động viên) được thông báo công khai, rõ ràng.
Yêu cầu đối với bài dự thi :
- Bài dự thi được thực hiện bằng tiếng Việt, viết tay hoặc đánh máy trên
giấy ; đánh số trang theo thứ tự. Trường hợp bài dự thi có nhiều trang phải
đóng lại thành quyển. Trang bìa bài dự thi ghi rõ họ tên; ngày, tháng, năm
sinh ; địa chỉ (lớp) của người dự thi.
- Bài dự thi không được sao chép lại của người khác dưới mọi hình thức;
nếu trích dẫn nội dung, hình ảnh, tư liệu để minh họa phải có chú thích rõ
ràng.
- Nghiêm cấm các trường hợp lợi dụng bài dự thi để vu khống, bịa đặt,
xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam ; vi phạm đạo đức, thuần
phong, mỹ tục và các vi phạm pháp luật khác.
7.3.5. Giáo viên môn GDCD hướng dẫn học sinh theo dõi và nắm

bắt các hiện tượng pháp luật qua các kênh thông tin nhất là trên truyền
hình và internet.
Với sự phát triển của công nghệ thông tin, công tác phổ biến giáo dục
pháp luật ngày càng đa dạng phong phú nhất là trên sóng truyền hình với các
hình thức hấp dẫn vui chơi, học tập mà lại có thưởng. Giáo viên có thể hướng
dẫn các em theo dõi tìm hiểu các thông tin, hiểu biết về pháp luật thông qua
các cơ quan truyền thông, chẳng hạn :
- Chương trình “Cái Lý Cái Tình” phát sóng lúc 20 giờ 30 phút thứ hai,
thứ tư, thứ sáu và chủ nhật hàng tuần trên kênh VTV2 ( hoặc trên kênh
VTV3 : thứ hai, ba, tư, năm, sáu lúc 17 giờ 50) hoặc có thể xem bất kỳ lúc
nào trên website : sucnuocngannam.vn hoặc facebook với nickname “Cái Lý
Cái Tình”.
- Chương trình “Tòa tuyên án” phát sóng hàng ngày vào nhiều khung giờ
04 giờ ; 8 giờ 45 ; 14 giờ ; 22 giờ trên kênh VTV6.
- Chương trình phát thanh truyền của tỉnh Vĩnh Phúc.
- Tổng đài tư vấn pháp luật 19004728.
- Báo Pháp luật và đời sống ; Báo Pháp luật và xã hội ; Cẩm nang pháp
luật ; ... cả báo giấy và báo điện tử.
- Các website tư vấn và giải đáp pháp luật của Bộ tư pháp, của các văn
phòng luật sư...

18


Chương trình “Cái Lý Cái Tình” được tổ chức dưới dạng gameshow
hấp dẫn, sinh động với những tình huống pháp luật dễ hiểu, gần gũi thân
thuộc với người dân nên tính giáo dục cao.
Với mong muốn có thể giúp khán giả hình dung chi tiết về vụ án, các
tình huống được tái hiện trong các chương trình luôn tập trung vào những
diễn biến tâm lý và những chi tiết cấu thành tội phạm. Phần chính của Tòa

tuyên án được dựng lại như thật toàn bộ diễn biến tại tòa, với các phần đọc
cáo trạng, tranh luận, nghị án...
Thông qua quá trình giải quyết vụ án tại tòa được tái hiện, khán giả
truyền hình sẽ có cơ hội tiếp nhận được kiến thức pháp luật cần thiết. Trên cơ
sở đó, tôi hướng dẫn HS cách theo dõi, nắm bắt vào khung giờ phù hợp đặc
biệt chương trình “Tòa tuyên án” và “Cái Lý Cái Tình”. Sau đó qua các tiết
học trên lớp, cô – trò cùng thảo luận các tình huống, cách giải quyết, đặt
mình trong các hoàn cảnh đó để xử lí, viết bài thu hoạch nhận thức... Từ đó
tạo thói quen quan sát, nắm bắt thông tin, đồng thời có thể rút ra những bài
học bổ ích về cách ứng xử, đạo đức, lối sống và trách nhiệm xã hội….
Điều này có thể sẽ tạo được tính lan tỏa rất lớn : không chỉ học sinh
biết mà gia đình em cũng biết, các em không những tiếp nhận mà còn tuyên
truyền được cho ông bà, bố mẹ, người thân của mình bởi có thể họ cũng
không hiểu gì về các quy định của pháp luật cả ; hoặc là có nghe nói về
những quy định đó nhưng vẫn coi thường không chấp hành (ví dụ: không đội
mũ bảo hiểm khi đi xe máy, xe đạp điện, xe máy điện).
7.3.6. Tổ chức cho các em tham dự các phiên tòa lưu động xét xử tại
địa phương.
Ngoài các phiên tòa được xét xử tại Tòa án, các cơ quan có thẩm
quyền còn tổ chức các phiên tòa xét xử lưu động tại nơi xảy ra vụ án để vừa
tạo điều kiện cho người dân trên địa bàn theo dõi, vừa có tác dụng dăn đe,
ngăn ngừa, phổ biến, giáo dục giúp mọi người cách thực hiện đúng pháp luật,
không để xảy ra những điều đáng tiếc.
Với những phiên tòa lưu động trên địa bàn, hàng tháng Viện kiểm sát
nhân dân phối hợp với Tòa án nhân dân huyện, tỉnh mở một số phiên tòa xét
xử các vụ án, lịch xét xử được thông báo công khai trên website của đơn vị,
các giáo viên môn GDCD và Đoàn thanh niên có thể theo dõi và hướng dẫn
các em theo dõi các phiên tòa phù hợp với điều kiện. Giáo viên có thể theo
dõi nếu thấy vụ án nào gần gũi với các em thì đề xuất với Đoàn thanh niên tổ
chức cho các em tham dự trực tiếp.

Ví dụ : Phiên tòa xét xử vụ án trộm cắp tài sản do đối tượng X, Y( đang
là HS lớp 12) gây ra. Ngày 15/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện đã
đưa vụ án ra xét xử công khai. Căn cứ theo khoản 1, Điều 138 Bộ luật hình
sự:
19


- Xử phạt bị cáo X 24 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48
tháng.
- Xử phạt bị cáo Y 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36
tháng.
Đây là bài học đắt giá cho các bị cáo và cũng là nỗi buồn của những
người làm cha, làm mẹ. Qua vụ án này, các em nhận thấy không ai được
phép xâm phạm tài sản của người khác bởi đó là hành vi vi phạm pháp luật
và phải bị xử lí theo quy định của pháp luật.
7.4. Chương 4
KIỂM CHỨNG CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ ĐƯỢC TRIỂN KHAI
Thực tế quá trình giáo dục pháp luật ở trường THPT cho thấy : khi thay
đổi cách thức giáo dục pháp luật như trên thì không khí buổi học thay đổi rõ
rệt : thoải mái, sôi nổi, hào hứng, dễ hiểu, dễ vận dụng. Từ chỗ toàn kiến
thức pháp luật khô khan, khó hiểu đến những tình huống, những sự kiện gần
gũi, sinh động, hấp dẫn với bản thân, với cuộc sống của mình ...
Khi không khí học tập trở nên nhẹ nhàng hơn, những kiến thức, bài học
từ thực tế đi vào suy nghĩ, tư duy đã làm thay đổi dần hành vi của các em. Từ
chỗ hứng lên là làm, không cần biết đúng sai, không cần quan tâm đến pháp
luật … thì nay, trong từng hành động của mình các em dần biết cân nhắc xem
liệu có vi phạm pháp luật hay không ? Có nên làm hay không ? Nếu làm thì
nên làm thế nào cho đúng ?...
Nhờ thay đổi phương pháp và áp dụng các giải pháp trên nên chất lượng
của môn học được nâng lên rõ rệt : số lượng học sinh đạt điểm từ trung bình

trở lên luôn đạt khoảng 98%, số học sinh vi phạm pháp luật giảm. Nhiều em
còn trở thành các tuyên truyền viên về pháp luật cho bạn bè, người thân của
mình.
Cuối năm học 2018 - 2019, khi tôi làm lại bài trắc nghiệm về thái độ,
nhận thức kỹ năng phân biệt đúng, sai của các em trước những hành vi thực
hiện đúng, hành vi thực hiện chưa tốt pháp luật thì kết quả tôi thu được đã
hoàn toàn thay đổi so với đầu năm học.
(Mẫu phiếu khảo sát ở phần phụ lục 3)
Kết quả cụ thể như sau:
Câu 1: Hầu hết các em đều cho rằng hiểu biết một số kiến thức cơ bản
về pháp luật : Giúp bản thân tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình,
người thân, cộng đồng; tham gia tuyên truyền, vận động, giúp đỡ người thân,
bạn bè, hàng xóm thực hiện đúng pháp luật; phòng tránh vi phạm pháp luật.
Câu 2 : Vẫn còn nhiều em cho rằng không cần biết một số quy định về
vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý tương ứng (chủ yếu rơi vào lớp 10
và 11).

20


Câu 3 : Một số em đã nhận thức được cần chủ động tìm hiểu, tiếp cận
pháp luật về các quyền tự do cơ bản, quyền bình đẳng của công dân
(33,4%); vẫn còn nhiều em cho rằng khi gặp vấn đề cần giải quyết liên quan
đến pháp luật mới tìm hiểu (54,7%); một số cho rằng điều đó không cần thiết
(11,9%).
Câu 4 : Hầu hết các em tham gia đầy đủ các buổi tuyên phổ biến, giáo
dục pháp luật của nhà trường.
Câu 5 : Việc còn hạn chế về hiểu biết pháp luật và ý thức chấp hành
pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ do hình thức phổ biến, giáo
dục pháp luật chưa được sử dụng hiệu quả (36,5%); bản thân không thích tìm

hiểu, nâng cao hiểu biết pháp luật (12, 3%)…
Câu 6 : Để nâng cao hiểu biết pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật
của bản thân, phần lớn các em cho rằng cần : tăng cường công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật cho người dân ; phổ biến thường xuyên, liên tục về tầm
quan trọng, ý nghĩa của việc tôn trọng và chấp hành pháp luật ; ban hành chế
tài xử phạt nghiêm khắc áp dụng cho từng hành vi vi phạm pháp luật.
Câu 7: Nhiều người vi phạm pháp luật giao thông đường bộ là do :
Biết có quy định của pháp luật nhưng chưa thấy ai bị xử phạt nên vẫn
thực hiện (30,2%).
Biết có quy định của pháp luật nhưng vẫn cố tình không chấp hành
(41,8%)
Không biết có quy định của pháp luật (Khi có điều kiện mà cố ý không
cứu giúp người bị tai nạn giao thông – rơi vào phần lớn học sinh lớp 10 và
11).
Câu 8: Hầu hết các em đều đề nghị được tăng cường các hoạt động
ngoài giờ lên lớp để nâng cao hiểu biết về pháp luật.
PHẦN KẾT LUẬN
1. Những vấn đề quan trọng nhất được đề cập đến của SKKN
Giáo dục pháp luật thông qua các HĐGDNGLL cho học sinh là một nội
dung rất rộng đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội ;
sự kết hợp giữa các cá nhân, tổ chức, cơ quan, đoàn thể trong và ngoài nhà
trường; kết hợp của tất cả các môn học không chỉ riêng môn GDCD …
Trong SKKN này, thông qua việc đưa ra những cơ sở lí luận và thực tiễn của
việc GDPL thông qua các HĐGDNGLL, để thấy được thực trạng sự hiểu
biết, kỹ năng thực hiện pháp luật của học sinh để từ đó đưa ra những giải
pháp mang tính khả thi nhằm giúp cho việc giáo dục pháp luật thông qua các
HĐGDNGLL có hiệu quả hơn, góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những
vi phạm đáng tiếc xảy ra.

21



Có nhiều hình thức tổ chức các HĐGDNGLL để phát huy tính chủ
động, tích cực của học sinh. Việc tổ chức các thường xuyên các hoạt động đó
không phải là để giải quyết tất cả những tồn tại nêu trên, tuy nhiên nó sẽ
phần nào hạn chế những vi phạm đáng tiếc xảy ra ảnh hưởng trước tiên đến
quyền và lợi ích hợp pháp của các em ; cùng với giáo dục toàn diện trong
nhà trường sẽ giúp cho HS có những KNS vững vàng khi bước vào đời.
2. Hiệu quả thiết thực của SKKN nếu được triển khai, áp dụng
trong đơn vị.
Sau khi thực hiện đề tài “Góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục pháp
luật cho học sinh trung học phổ thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp”,
tôi thấy đã góp phần không nhỏ trong giáo dục pháp luật cho các em, trước
hết là truyền cho các em nguồn cảm hứng và nhận thức rằng : để có những
hiểu biết về pháp luật không phải là một sớm một chiều mà là học suốt đời,
nhưng những năm ở trường THPT, cao đẳng, đại học là đặc biệt quan trọng.
Qua thời gian thực hiện đề tài, tôi thấy các em đã có sự thay đổi tích cực
trong nhận thức từ chỗ ban đầu cho rằng từ trước tới nay mình, bố mẹ, ông
bà... chẳng biết gì về những quy định của pháp luật mà vẫn sống và sinh hoạt
bình thường ; đến chỗ nhận thấy được rất nhiều ích lợi về việc hiểu biết và
thực hiện đúng pháp luật. Buổi sinh hoạt đầu tuần luôn đầm ấm, các em đã
coi lớp học là “một gia đình lớn”. Buổi sinh hoạt ngoài giờ lên lớp thật sôi
động.
3. Kiến nghị với các cấp quản lí
Một là, cần phải thay đổi mạnh mẽ quan điểm về GDPL cho HS theo
hướng chuyển đổi từ “dạy học PL” sang “GDPL”. Cụ thể :
- Đổi mới cấu trúc chương trình và cách cho điểm trong kiểm tra, đánh
giá như : tăng thêm tiết học cho bộ môn GDCD (2 tiết/tuần) và gộp các hoạt
động Giáo dục ngoài giờ lên lớp, Giáo dục hướng nghiệp, Giáo dục kỹ năng
sống vào trong môn học hoặc do GV bộ môn hướng dẫn, quản lý, chỉ đạo.

- Trong các thành phần điểm kiểm tra, đánh giá nhất định phải có tối
thiểu một thành phần điểm cho quá trình học tập, rèn luyện của học sinh.
- Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ
về giải đáp, tư vấn, thiết kế, tổ chức các hoạt động dạy học, cho đội ngũ GV
GDCD, tránh tình trạng GV bộ môn có rất ít thời gian tiếp cận, tìm hiểu, nắm
bắt tâm tâm lý, hành động của HS, trong khi các nội dung giáo dục khác lại
thiếu người quản lý, tổ chức, chỉ đạo nên tổ chức các hoạt động này còn
mang tính hình thức,...
Hai là, cần đa dạng hóa các hình thức giáo dục pháp luật thông qua các
HĐNGLL : giờ chào cờ; sinh hoạt đoàn; hội thi, hội diễn ; tuyên truyền, nói
chuyện pháp luật.

22


- Các nhà trường cần thành lập “Tổ Tư vấn học đường – Giáo dục
pháp luật”. Trong đó, thường xuyên và coi trọng việc đưa các nội dung
GDPL vào tư vấn, giáo dục cho HS ; GV trong tổ này phải được lựa chọn kỹ
lượng gồm những người có kinh nghiệm trong bộ môn GDCD, GV chủ
nhiệm, cán bộ Đoàn để có một lực lượng chuyên trách làm công tác giáo dục
đạo đức, PL, giáo dục ý thức, thái độ, hành vi và các kỹ năng sống cho HS.
- Phương pháp giáo dục phải được “mềm hóa”, “tích cực hóa” bằng
việc tổ chức các hoạt động để HS chủ động học tập, tìm hiểu và tự hoàn thiện
phẩm chất của mình.
Ba là, các cấp quản lý cần có sự đầu tư thích đáng về kinh phí cho các
HĐNGLL.
Bốn là, Ban giám hiệu, GVCN, GV GDCD, Đoàn thanh niên và công
an địa phương phải thường xuyên phối hợp, trao đổi thông tin về đạo đức, lối
sống và ý thức chấp hành pháp luật trong HS, kịp thời biểu dương “người tốt
việc tốt” và tìm biện pháp giáo dục đối với những học sinh có biểu hiện suy

thoái, vi phạm PL.
Với kinh nghiệm thực tiễn của bản thân cùng với những giải pháp, kiến
nghị trên, nếu được áp dụng chúng, tôi tin rằng có thể góp một phần trong
việc điều chỉnh các hành vi pháp luật theo hướng tích cực. Những hạn chế là
khó tránh khỏi, rất mong sự góp ý chân thành của quý đồng nghiệp để giúp
tôi khắc phục những hạn chế đó. Tôi xin chân thành cảm ơn!
………., ngày …… tháng ……..năm ……..

Người viết SKKN
8.Thông tin cần bảo mật : không
9. Điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
Để áp dụng sáng kiến này thì điều kiện cần và đủ là người giáo viên
phải thực sự quan tâm, chú ý đến công việc giảng dạy của mình, đầu tư thời
gian, công sức nghiên cứu đối tượng học sinh mình dạy để nắm bắt tình hình
học tập của các em qua đó có phương pháp thích hợp giúp các em hứng thú
và tích cực học tập.
BGH và Tổ chuyên môn quan tâm giúp đỡ, chỉ đạo kịp thời , đóng góp
thiết thực về mọi mặt để giáo viên hoàn thiện sáng kiến.
10.Đánh giá lợi ích thu được từ áp dụng sáng kiến
a. Lợi ích của sáng kiến theo đánh giá của tác giả
Bản thân tôi nhận thấy sáng kiến có lợi ích to lớn và thiết thực với công
việc giảng dạy môn GDCD 12 của mình. Từ chỗ các em chán nản, không
23


thích học hoặc học chống đối, đến nay đa số các em đã có hứng thú và tích
cực học tập. Kết quả học tập bộ môn của các em cũng nâng dần lên. Từ chỗ
đa số là điểm trung bình thì nay số khá, giỏi ngày càng cao. Lúc trước trong
giờ giáo viên gần như độc thoại thì nay sự tương tác giữa thầy và trò rất sôi
nổi, nhiều em giơ tay phát biểu và trình bày vấn đề bài học đặt ra, không khí

lớp học sôi nổi hết buồn tẻ.
Việc học tốt môn GDCD lớp 12 giúp các em tôn trọng pháp luật, sống và
hành động theo pháp luật để trở thành người công dân có ích.
Sau khi thực hiện đề tài “Góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục pháp
luật cho học sinh trung học phổ thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp”,
tôi thấy đã góp phần không nhỏ trong giáo dục pháp luật cho các em, trước
hết là truyền cho các em nguồn cảm hứng và nhận thức rằng : để có những
hiểu biết về pháp luật không phải là một sớm một chiều mà là học suốt đời,
nhưng những năm ở trường THPT, cao đẳng, đại học là đặc biệt quan trọng.
b. Lợi ích của sáng kiến theo đánh giá của các tổ chức, cá nhân khác
-Theo các đồng nghiệp của tôi thì giờ GDCD khá sôi nổi, hấp dẫn và
thiết thực. Qua thời gian thực hiện đề tài, các đồng nghiệp đều nhận xét các
em đã có sự thay đổi tích cực trong nhận thức từ chỗ ban đầu cho rằng từ
trước tới nay mình, bố mẹ, ông bà... chẳng biết gì về những quy định của
pháp luật mà vẫn sống và sinh hoạt bình thường ; đến chỗ nhận thấy được rất
nhiều ích lợi về việc hiểu biết và thực hiện đúng pháp luật. Buổi sinh hoạt
đầu tuần luôn đầm ấm, các em đã coi lớp học là “một gia đình lớn”. Buổi
sinh hoạt ngoài giờ lên lớp thật sôi động.
- Theo tổ chuyên môn : việc áp dụng sáng kiến giúp việc học và giáo
dục pháp luật không nhàm chán, gượng ép mà đã thu hút học sinh học tập
thực sự, từ đó giúp việc học tập và rèn luyện của các em đạt hiệu quả cao.
11. Danh sách áp dụng sáng kiến lần đầu
- Năm học 2018-2019 : lớp 10, 11
- Học kì I năm học 2019- 2020 : 10 lớp 12
................Ngày
tháng
Thủ trưởng đơn vị

năm …..


......., ngày tháng năm ……
Tác giả sáng kiến kinh nghiệm

24


PHỤ LỤC
Phụ lục 1 : Đáp án câu hỏi của phần thi “Ai nhanh hơn”?
Câu 1 : Tại sao bạn cần đội mũ bảo hiểm khi xe đạp điện, xe máy
điện?
Đáp án :
Luật Giao thông đường bộ năm 2008 đã quy định người điều khiển,
người ngồi trên xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy, xe đạp
máy phải đội mũ bảo hiểm có cài quai đúng quy cách. Theo đó, nếu người
điều khiển phương tiện xe đạp điện không đội mũ bảo hiểm khi tham gia
giao thông tức là đã vi phạm quy tắc giao thông đường bộ và sẽ bị xử lý theo
quy định tại Nghị định số 171/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.
Cụ thể, Điểm d, Khoản 4, Điều 8 quy định phạt tiền từ 100.000 đồng
đến 200.000 đồng đối với người điều khiển xe đạp máy không đội “mũ bảo
hiểm cho người đi mô tô, xe máy” hoặc đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô
tô, xe máy” không cài quai đúng quy cách khi tham gia giao thông trên
đường bộ.
Ngoài ra, mức phạt này cũng được áp dụng đối với hành vi chở người
ngồi trên xe đạp máy không đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy”
hoặc đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” không cài quai đúng
quy cách, trừ trường hợp chở người bệnh đi cấp cứu, trẻ em dưới 06 tuổi, áp
giải người có hành vi vi phạm pháp luật (Điểm đ, Khoản 4, Điều 8).
Câu 2 : Theo em độ tuổi 12, 13 có được đi xe đạp điện không?
Đáp án :


25


×