Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

SKKN biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ tập đọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.42 KB, 20 trang )

Mẫu 04
BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu:
Tiểu học là bậc học nền tảng, bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục
quốc dân. Đây là bậc học tạo ra những cơ bản ban đầu và bền vững về tri thức,
về kĩ năng cho trẻ, góp phần hình thành và phát triển nhân cách học sinh, giúp
các em học tốt ở bậc học tiếp theo. Trong những môn học ở Tiểu học, môn Tiếng
Việt là môn học hết sức quan trọng. Môn Tiếng việt giúp các em tiếp nhận
những tri thức ban đầu, sơ giản nhưng rất cần thiết về tiếng Việt phổ thông như:
Ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp, từ vựng… Trên cơ sở đó rèn những kĩ năng:
nghe, nói, đọc, viết và kĩ năng giao tiếp. Phân môn Tập đọc được coi như môn
khởi đầu để học tiếp các môn khác. Lúc đầu trẻ học để biết đọc, qua đó dùng
đọc để học các môn học khác và để tiếp thu các tri thức của nhân loại. Những
năm gần đây, cùng với sự đầu tư và phát triển của giáo dục, chất lượng giáo dục
ngày được nâng cao. Giáo viên trường Tiểu học Kim Long B không ngừng học
tập nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, tích cực đổi mới phương pháp dạy học
trong đó có việc đổi mới phương pháp “rèn đọc” cho học sinh. Việc rèn kĩ năng
đọc cho học sinh bên cạnh những thành công còn một số hạn chế, nhất là đối với
lớp 2, các em mới chuyển từ lớp 1 lên, qua ba tháng nghỉ hè, nhiều em không
thường xuyên ôn luyện nên khi bắt đầu vào năm học lớp 2, kỹ năng đọc của một
số em còn yếu, dẫn đến kết quả “đọc” của một số lớp chưa cao. Vì thế giáo viên
cần phải dạy đọc bài Tập đọc với giọng thế nào? làm thế nào chữa lỗi “đọc” cho
học sinh, làm thế nào để các em đọc đúng, đọc nhanh hơn, hay hơn, diễn cảm
hơn, phối hợp đọc thành tiếng và đọc hiểu... để hiểu nội dung văn bản được đọc,
để cho những gì đọc được tác động vào chính cuộc sống của các em. Chính vì lí
do trên đòi hỏi người giáo viên phải có phương pháp dạy “đọc” như thể nào để
giúp các em thực hiện được nhiệm vụ phân môn Tập đọc. Trong điều kiện xã hội
ngày càng phát triển, nhất là chúng ta đang sống trong thời kì bùng nổ công
nghệ thông tin, nếu học sinh đọc yếu, đọc chậm các em sẽ bị hạn chế nhiều
trong việc tiếp cận với công nghệ thông tin, các em sẽ thiệt thòi trong giao tiếp,


trong việc học tập... Trong suốt quá trình học tập học sinh sử dụng “đọc” rất
nhiều, các em đọc bài học, đọc bài ghi, đọc sách giáo khoa, đọc truyện…chính
vì vậy, dạy tốt phân môn Tập đọc không những rèn kĩ năng đọc mà còn phát
triển những kĩ năng khác. Qua việc học các bài Tập đọc học sinh được tiếp xúc
với ngôn ngữ văn học, bước đầu có khái niệm cơ bản về nhân vật, hình ảnh, bố
cục…góp phần hình thành và bồi dưỡng cho các em những tình cảm tốt đẹp của
con người như tình yêu quê hương đất nước, tình thầy trò, tình bạn bè…, tình
yêu Tiếng Việt.
Đối với học sinh Tiểu học nhất là đối với học sinh lớp 2 thì yêu cầu đọc
đến đâu hiểu - cảm nhận được đến đó thì quả là một điều cực kì khó, muốn làm
được điều đó thì giáo viên phải có những biện pháp để học sinh đọc được lưu
1


loát, rõ ràng, đọc trôi chảy. Sau đó tuỳ từng bài, từng thể loại giáo viên tìm cách
khai thác, hướng dẫn cho học sinh hiểu ý tứ, nội dung, nghệ thuật của từng đoạn
văn và cả bài để có thể đọc cho đúng, có đọc đúng rồi thì mới luyện cho học
sinh đọc hay, đọc diễn cảm được (thực hiện mục tiêu rèn đọc cho học sinh)
Thực trạng việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh trong các tiết Tập đọc ở một
số giáo viên trong trường còn gặp khó khăn, còn lúng túng, giờ Tập đọc ở một
số lớp còn nhiều gò ép, học sinh “đọc” chưa đạt được kết quả như mong muốn
đặc biệt là đối với Tập đọc lớp 2. Là một giáo viên, tôi luôn băn khoăn cần phải
làm thế nào để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục qua việc dạy Tập đọc,
cần phải có biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2 như thế nào để đạt được hiệu
quả như mong muốn, nhất là học sinh lớp 2B là lớp mà đa số học sinh có học
lực trung bình khá. Mặt khác, một số gia đình học sinh, cha mẹ làm ruộng hặc
buôn bán, làm nghề tự do ... nên các em ít được sự quan tâm của bố mẹ về học
tập, bởi vậy giáo viên phải cố gắng rất nhiều để đạt được mục tiêu giáo dục của
nhà trường. Xuất phát từ những lí do trên tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc”

2. Tên sáng kiến:
“Biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc”
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Trần Thị Thúy
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Tiểu học Kim Long B, huyện Tam
Dương, tỉnh Vĩnh Phúc
- Số điện thoại: 0987817217
E_mail:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
Trần Thị Thúy
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Sáng kiến này áp dụng vào việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:
Ngày 05/9/2019
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1. Về nội dung của sáng kiến
7.1.1. Những nội dung lí luận có liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu.
a. Cơ sở lí luận
1. Đọc là gì?
Đọc là quá trình chuyển chữ viết sang lời nói có âm thanh và có ngữ điệu
- ứng với hình thức đọc thành tiếng, là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức
2


chữ viết thành các đơn nghĩa không có âm thanh - ứng với đọc thầm (Sổ tay
thuật ngữ phương pháp dạy học tiếng Nga của MR. Lô-vốp).
2. Ý nghĩa của việc đọc:
Con người thật là hạnh phúc khi biết đọc. Chúng ta đã biết phần lớn
những tri thức, khái niệm của đời sống và những thành tựu văn hóa, khoa học, tư
tưởng, tình cảm của thế hệ trước và cả của thời đương đại được ghi lại bằng chữ

viết, nếu không biết đọc thì con người khó có thể tiếp thu được nền văn minh
của loài người, chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc làm chủ xã hội hiện
đại. Không biết đọc con người không được hưởng thụ những thành tựu văn hoá
khoa học, tư tưởng, tình cảm của nhân loại qua ngôn ngữ viết. Đặc biệt là trong
thời kì bùng nổ thông tin thì đọc càng quan trọng, vì nó sẽ giúp người ta sử dụng
tốt các nguồn thông tin. Biết đọc con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên
nhiều lần. Từ đây, con người mới tìm hiểu đánh giá cuộc sống, nhận thức mối
quan hệ tự nhiên, xã hội. Biết đọc, con người có khả năng giao tiếp được với thế
giới bên trong của con người khác thông qua tác phẩm văn, thơ, bút kí... của họ.
Không biết đọc, con người sẽ khó có điều kiện hưởng thụ giáo dục mà xã hội
dành cho họ, khó có thể hình thành một nhân cách toàn diện. Đọc giúp các em
học sinh chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là
công cụ để học tập các môn học khác. Đọc một cách có ý thức cũng sẽ có tác
động tích cực tới trình độ ngôn ngữ cũng như tư duy của người đọc. Đọc là một
kỹ năng quan trọng hàng đầu của con người. Nhờ biết đọc, con người có thể tự
học, học nữa, học mãi, học suốt đời. Đó là một yêu cầu không thể thiếu được
của con người trong thời đại hiện nay. Biết đọc, ngắt câu, đổi giọng cho đúng
ngữ điệu vừa đảm bảo được diễn cảm, hấp dẫn người nghe, vừa đảm bảo đúng
ngữ pháp, ý nghĩa thông tin của tác giả muốn truyền đạt cho người nghe hiểu,
nhận thức được đúng cũng là góp phần làm trong sáng ngôn ngữ Tiếng Việt.
Chính vì vậy “đọc” có ý nghĩa to lớn ở bậc Tiểu học. Bước đầu trẻ học “đọc”,
sau đó trẻ “đọc” để “học”. Đọc giúp trẻ chiếm lĩnh được ngôn ngữ trong giao
tiếp và học tập, nó là công cụ để học các môn học khác, đọc tốt giúp các em kĩ
năng giao tiếp có giáo dục. Môn Tập đọc ở Tiểu học có nhiệm vụ hình thành
năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh, thể hiện ở bốn chức năng: nghe, nói,
đọc, viết. Đọc không phải chỉ là công việc chuyển kí hiệu chữ viết thành âm
thanh mà còn là quá trình nhận thức để có kĩ năng thông hiểu những gì mình đọc
được.
b. Những yêu cầu cơ bản của việc dạy phân môn Tập đọc lớp 2
* Nội dung, chương trình phân môn Tập đọc lớp 2

Trong quá trình tìm hiểu sách giáo khoa lớp 2 tôi nhận thấy rằng: các bài
Tập đọc được phân bố vào từng tuần cùng với các phân môn khác. Các bài Tập
đọc được bố trí vào đầu mỗi tuần có vai trò làm cơ sở, chỗ dựa cho việc dạy các
phân môn khác như: Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn… Mỗi tuần có 3
bài Tập đọc, song học sinh được học 2 bài còn 1 bài các em tự đọc thêm, thường
thì các bài tập đọc đầu tuần được học trong 2 tiết. Các bài Tập đọc có đủ các thể
3


loại: Văn bản văn học, văn xuôi, thơ và một số văn bản nước ngoài. Trung bình
mỗi chủ điểm học trong 2 tuần, các em được học truyện vui ở kì 1, truyện ngụ
ngôn ở kì 2, những câu chuyện này vừa để giải trí vừa có tác dụng rèn luyện tư
duy và phong cách sống vui tươi, lạc quan cho các em.
Các văn bản khác gồm văn bản báo chí, hành chính (tự thuật, thời khoá
biểu, thời gian biểu, mục lục sách…). Thông qua văn bản này sách giáo khoa
cung cấp cho các em một số kiến thức kĩ năng cần thiết trong đời sống, bước
đầu xác lập mối quan hệ giữa học với hành, giữa nhà trường và xã hội.
- Mỗi bài tập đọc lớp 2 khoảng 100 chữ, yêu cầu đọc trong thời gian 2 đến
3 phút. Đọc đúng, rõ ràng từng từ, từng câu trong một đoạn, bài văn, bài thơ
ngắn, biết ngắt hơi ở dấu phẩy, nghỉ hơi ở dấu chấm. Bước đầu biết đọc thầm,
hiểu nội dung bài đọc ở lớp. Cụ thể, hiểu được ý nghĩa của các từ ngữ trong bài,
nắm được ý chính của từng câu, đoạn văn hay thơ đã học, trả lời được những
câu hỏi về nội dung của bài tập đọc. Nhận xét về nội dung Tập đọc lớp 2
- Cấu tạo sách giáo khoa, nội dung bài Tập đọc phù hợp với đối tượng học
sinh.
- Kênh hình đẹp hấp dẫn.
- Các bài tập đọc được trình bày khoa học và xếp theo chủ điểm.
* Yêu cầu về kiến thức, kĩ năng
* Phát triển kĩ năng đọc và nghe cho học sinh.
+ Rèn kĩ năng đọc thành tiếng:

- Phát âm đúng
- Đọc rõ ràng, liền mạch từng câu, đoạn, cả bài, biết ngắt nghỉ hơi hợp lí sau dấu
câu, giữa các cụm từ, các phần trong bài tập đọc.
- Cường độ, tốc độ đọc vừa phải (không đọc to quá hay đọc lí nhí).
- Tốc độ đọc vừa phải (không ê, a, ngắc ngứ hay liến thoắng), đạt yêu cầu
khoảng 50 tiếng/phút.
+ Rèn kĩ năng đọc thầm và hiểu nội dung:
Biết đọc không thành tiếng, không mấp máy môi.
Hiểu được nghĩa của các từ ngữ trong văn cảnh (bài đọc); nắm được nội dung
của câu, đoạn hoặc bài đã đọc, trả lời được các câu hỏi ở cuối mỗi bài tập đọc,
tập nhận xét một số nhân vật, hình ảnh, chi tiết trong bài đọc.
+ Rèn kĩ năng nghe nói:
- Nghe:
Nghe giáo viên đọc mẫu và nắm được cách đọc đúng các từ ngữ, câu, đoạn, bài.
Nghe - hiểu các câu hỏi và yêu cầu của thầy, cô.
4


Nghe - hiểu và có khả năng nhận xét ý kiến của bạn.
- Nói:
Biết cách trao đổi với các bạn trong nhóm học tập về bài đọc.
Biết cách trả các câu hỏi về bài đọc.
+ Rèn tư thế đọc
Tư thế đứng đọc thoải mái, không gò ép, đứng thẳng, khoảng cách từ mắt cách
sách giáo khoa khoảng 25 - 30 cm.
* Trau dồi vốn Tiếng Việt, vốn văn học, phát triển tư duy, mở rộng sự hiểu biết
của học sinh về cuộc sống. Cụ thể là:
- Làm giàu và tích cực hoá vốn từ, ngữ, vốn diễn đạt.
- Bồi dưỡng vốn văn học ban đầu, mở rộng vốn hiểu biết về cuộc sống, hình
thành một số kỹ năng phục vụ cho đời sống và việc học tập của bản thân (như

khai lí lịch đơn giản, đọc thời khoá biểu, tra và lập mục lục sách, nhận và gọi
điện thoại...)
- Phát triển một số thao tác tư duy cơ bản (Phân tích, tổng hợp)
* Bồi dưỡng tư tưởng tình cảm và tâm hồn trong sáng, lành mạnh, tình
yêu cái đẹp, cái thiện, cách ứng xử đúng trong cuộc sống, từ đó các em say mê,
hứng thú đọc sách và thêm yêu Tiếng Việt.
- Bồi dưỡng tình cảm yêu quý, kính trọng, biết ơn và trách nhiệm đối với ông
bà, cha mẹ, thầy cô; yêu trường lớp; đoàn kết, giúp đỡ bạn bè; vị tha, nhân hậu.
-Xây dựng ý thức và năng lực thực hiện những phép xã giao tối thiểu.
- Từ những mẩu chuyện, bài văn, bài thơ hình thành lòng ham muốn đọc sách,
khả năng cảm thụ văn bản văn học, cảm thụ vể đẹp của tiếng Việt và tình yêu
tiếng Việt.
* Những yêu cầu cần đạt được sau khi học Tập đọc lớp 2
- Kĩ năng đọc thành tiếng phát âm đúng rõ ràng các tiếng có vần khó, có phụ âm
đầu, có dấu thanh dễ lẫn.
- Đọc rõ ràng, mạch lạc, đảm bảo tốc độ theo quy định.
- Ngắt nhịp đúng câu văn, câu thơ, đọc trơn và lưu loát bài Tập đọc, biết phân
biệt lời nhân vật trong bài Tập đọc.
- Kĩ năng đọc hiểu: Hiểu được nội dung ý nghĩa bài Tập đọc.
7.1.2. Thực trạng việc rèn đọc cho học sinh lớp 2 trong giờ Tập đọc
a. Thực trạng
Trường Tiểu học Kim Long B là một trường luôn dẫn đầu về chất lượng
giáo dục, đa số giáo viên có trình độ chuyên môn khá và giỏi, giáo viên nhiệt
5


tình, trăn trở với công việc đặc biệt là việc nâng cao chất lượng giáo dục. Đa số
giáo viên linh hoạt trong việc sử dụng các hình thức, phương pháp dạy học, tích
cực tự học, tự bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn. Ban Giám hiệu nhà
trường phân công nhiệm vụ cụ thể, phù hợp với năng lực của mỗi giáo viên.

Giáo viên được phân công dạy chuyên khối nên có nhiều kinh nghiệm trong
giảng dạy. Nhà trường tổ chức có hiệu quả các buổi sinh hoạt chuyên môn, tổ
chức báo cáo sáng kiến kinh nghiệm của những giáo viên thực hiện có hiệu quả
trong năm học... vì thế giáo viên đã tích luỹ, học tập được nhiều kinh nghiệm
của đồng nghiệp để áp dụng vào giảng dạy. Nhà trường được trang bị tương đối
đủ đồ dùng dạy học, giáo viên tích cực làm và sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy
học, một số giáo viên có khả năng thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin hiệu
quả trong dạy Tập đọc.
Học sinh lớp 2 của trường học đúng độ tuổi, đa số các em được cha mẹ
quan tâm đến việc học tập. Các em được học 2 buổi/ngày, các em được rèn đọc
nhiều hơn ở buổi chiều. Các em được tiếp cận nhiều với công nghệ thông tin,
nhiều em thích đọc thơ, đọc truyện tranh ... nên nhiều em đọc thông thạo, trôi
chảy và có em còn biết đọc diễn cảm khi học hết lớp 1. Học sinh được trang bị
đầy đủ sách giáo khoa và đồ dùng học tập, nhiều em thích học Tập đọc.
Về phía giáo viên: Đã nhiều năm dạy Tiểu học và nhiều năm nghiên cứu
về phương pháp dạy Tập đọc, đặc biệt là Tập đọc lớp 2, tôi nhận thấy một số ít
giáo viên còn phân biệt chưa thật rõ ràng được mục tiêu chính của phân môn
Tập đọc lớp 2. Học sinh lớp 2 chỉ cần đọc đúng, phát âm chuẩn và đọc lưu loát
một bài Tập đọc là chính, còn phần đọc hiểu các em chỉ cần nắm được ý chính
của đoạn, bài hoặc ý nghĩa của bài Tập đọc, phần luyện đọc, giáo viên cần cho
học sinh đọc bài nhiều lần, luyện phát âm đúng, phát âm chuẩn, luyện đọc câu,
đoạn, bài. Mỗi học sinh trong giờ Tập đọc phải được đọc dưới mọi hình thức từ
một, hai đến ba lần.
Một số giáo viên, phân bố thời gian trong tiết dạy chưa hợp lí, thời gian
dành cho luyện đọc còn ít, thời gian dành cho tìm hiểu bài nhiều hơn. Một số ít
giáo viên dạy các lớp không phải là lớp chọn hoặc giáo viên mới chuyển từ vùng
sâu, vùng xa về trường chưa thực sự đầu tư, đổi mới phương pháp dạy học nhất
là đối với phân môn Tập đọc, chỉ chú ý dạy đủ bước, dạy đều đều cho đến hết
bài, chưa biết cách sửa lỗi cho học sinh, chưa sử dụng linh hoạt các hình thức
dạy học trong khâu luyện đọc ... Cách thức tổ chức luyện đọc của một số ít giáo

viên còn tẻ nhạt, chưa tạo ra những “điểm mới” trong cách luyện đọc, việc vận
dụng nguyên tắc dạy học “Học mà chơi, chơi mà học” còn chưa thực sự hiệu
quả. Giáo viên chưa hệ thống được lỗi sai của học sinh để tìm biện pháp sửa lỗi
cho các em. Việc sửa lỗi cho học sinh chưa kiên trì, xuyên suốt tiết dạy Tập đọc,
chỉ sửa lỗi cho học sinh trong lúc luyện đọc câu, mà chưa chú ý sửa lỗi khi đọc
đoạn, bài, khi đọc lại hoặc khi luyện đọc thuộc lòng. Một số giáo viên giọng đọc
còn chưa đúng mẫu, chưa diễn cảm, có giáo viên còn đọc ngọng, phát âm lệch
chuẩn... vì thế chất lượng dạy Tập đọc chưa đạt như mong muốn. Một số ít giáo
viên (dạy các lớp chọn) do đề cao quá mức yêu cầu cảm thụ văn học nên đã biến
6


giờ Tập đọc thành giờ giảng văn, cô giảng là chính, trò chỉ nghe, dành ít thì giờ
luyện đọc. Trong khi giảng nội dung hầu hết giáo viên sử dụng câu hỏi sách giáo
khoa là chính, chưa biết bóc tách câu hỏi, chẻ nhỏ câu hỏi, đặt thêm câu hỏi cho
phù hợp với đối tượng học sinh, nên không gây được hứng thú học tập cho học
sinh. Các nguyên nhân trên dẫn đến một số học sinh không thích học Tập đọc,
chất lượng “đọc” của học sinh chưa được cao. Vì vậy việc tìm ra biện pháp rèn
kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 tôi thấy là thiết thực.
Về phía học sinh: Trong một lớp học có rất nhiều đối tượng học sinh. Một
số học sinh phát âm lệch chuẩn chữ viết ở một số âm đầu s/x; tr/ch; l/n; ... một
số vần anh/ăn; uyên/uên... Ngắt nghỉ hơi tuỳ tiện, tốc độ đọc còn chậm, đọc rời
rạc, chưa biết nhấn giọng ở những từ gợi tả, gợi cảm; chưa cảm thụ được cái
hay, cái đẹp của bài văn, bài thơ. Kĩ năng đọc đúng, đọc hay của các em lớp 2
còn yếu, các em đọc một cách thụ động. Nhiều học sinh khá hơn cố gắng đọc
hay, đọc diễn cảm song vì không có kĩ năng đọc đúng, không biết nên nhấn
giọng chỗ nào, ngắt nhịp thơ ra sao, giọng đọc các câu phân loại theo kiểu câu
như câu kể, câu hỏi, câu cảm... phải đọc như thế nào nên vẫn không đạt kết quả.
b. Nguyên nhân
* Giáo viên

- Chưa thực sự đầu tư vào tiết dạy Tập đọc, chưa biết hệ thống, phân loại
đối tượng học sinh để tìm biện pháp rèn đọc cho từng nhóm đối tượng.
- Chưa biết lựa chọn phương pháp, hình thức dạy đọc phù hợp, chưa đổi
mới hình thức luyện đọc dẫn đến học sinh nhàm chán, không hứng thú học tập
đọc. Giáo viên chưa kiên trì trong việc sửa lỗi cho học sinh.
- Chưa có biện pháp rèn kỹ năng đọc phù hợp, hiệu quả cho học sinh.
- Chưa xây dựng được thời gian biểu của tiết dạy cho hợp lí, xử lí các tình
huống trong giờ dạy chưa thật linh hoạt.
- Chưa tích cực làm và sử dụng đồ dùng dạy học, hoặc sử dụng đồ dùng
dạy học chưa thật hiệu quả.
- Một số giáo viên phát âm lệch chuẩn (ngọng n/l) nên không phát hiện ra
học sinh phát âm sai để sửa lỗi cho các em.
- Một số giáo viên mới ra trường chưa có kinh nghiệm giảng dạy.
- Giáo viên tiểu học phải dạy nhiều môn học (9 môn học) nên việc tập
trung đầu tư cho phân môn Tập đọc chưa nhiều.
* Học sinh
Học sinh lớp 2, mới từ lớp 1 lên, các em còn nhỏ, hay quên, trí nhớ chưa
bền. Các em chưa có tính kiên trì trong sửa lỗi. Các em trong lớp có nhiều đối
tượng khác nhau, mỗi học sinh thường mắc những lỗi đọc khác nhau, một số em
mắc lỗi phát âm lẫn lộn từ giao tiếp trong gia đình (cha, mẹ nói ngọng). Ở lớp 1
7


các bài tập đọc còn ngắn, thường là dễ nhớ, dễ thuộc, và nội dung tìm hiểu bài
chỉ gồm những câu hỏi đơn giản, học sinh ít phải tư duy, thời gian dành cho
luyện đọc rất nhiều. Ở lớp 2, các bài Tập đọc thường dài hơn, những bài đầu
tuần thường dạy trong 2 tiết, nếu giáo viên không biết hướng dẫn luyện đọc thì
các em rất chóng chán, không tận dụng được thời gian để phát huy hết khả năng
đọc của mỗi học sinh.
7.1.3. Các giải pháp thực hiện

Xác định rõ nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng trên tôi đã tiến
hànhmột số biện pháp sau:
Biện pháp 1: Khảo sát thực tế phân loại đối tượng học sinh
Khảo sát kỹ năng đọc của học sinh lớp 2B đầu năm (khảo sát không tính
điểm). Cụ thể, tôi đã khảo sát thực tế việc đọc của các em qua một đoạn văn.
Giáo viên chép lên bảng đoạn văn sau:
Xuân về!
Thế là mùa xuân mong ước đã đến! Đầu tiên, từ trong vườn, mùi hoa
hồng, hoa huệ thơm nức. Trong không khí không còn ngửi thấy hơi nước lạnh
lẽo mà đầy hương thơm và ánh sáng mặt trời. Cây hồng bì đã cởi bỏ hết những
cái áo lá già đen thủi. Các cành cây đều lấm tấm màu xanh. Những cành xoan
khẳng khiu đương trổ lá, lại sắp buông toả ra những tán hoa sang sáng, tim tím.
Ngoài kia, rặng râm bụt cũng sắp có nụ.
Giáo viên lần lượt gọi từng học sinh đọc bài, với thang điểm 10.
Cụ thể:
Điểm giỏi (điểm 9 - 10): Học sinh đọc lưu loát, biết nhấn giọng đúng chỗ,
ngắt nghỉ phù hợp, bước đầu biết đọc diễn cảm.
Điểm Khá (điểm 7 - 8): Học sinh đọc to, rõ ràng, ngắt nghỉ đôi chỗ còn
có thể chưa phù hợp.
Điểm trung bình (điểm 5, 6): Học sinh đọc đúng tiếng, từ đôi chỗ còn
chưa lưu loát, mắc 4 đến 5 lỗi.
Điểm yếu (dưới 5): Học sinh đọc còn sai nhiều.
Sau khi cho học sinh trong lớp đọc bài, có một số lỗi như sau:
Xuân về
Thế nà mùa xuân mong ước đã đến! Đầu tiên, từ trong vườn, mùi hoa
hồng, hoa huệ thơm lức. Trong không khí không còn ngựi thấy hơi nước nạnh
nẽo mà đầy hương thơm và ánh sáng mặt trời. Cây hồng vì đã cợi bọ hết nhứng
cái áo đá già đen thụi. Các cành cây đều đấm tấm màu xanh. Những cành xoan
khẳng khiu đương chộ lá, lại sắp buông toả ra nhứng tán hoa sang sáng, tim
tím. Ngoài kia, dặng dâm bụt cúng sắp có lụ.

8


Đánh giá sau khảo sát cụ thể như sau:
Tổng
số HS
dự KT
40

Giỏi
Số
lượng
5

Khá
%
12,5

Số
lượng
10

Trung bình
%
25

Số
lượng
15


%
37,5

Yếu
Số
lượng
10

%
25

Qua khảo sát thực tế, tôi tiến hành lập danh sách, phân loại học sinh mắc
lỗi theo nhóm như sau:
Tổng số học sinh
Đọc ngọng âm đầu n/l
Ngọng vần uyên/uên, anh/ăn
Ngọng thanh hỏi/nặng
Đọc chậm, ê a
Đọc nhỏ
Đọc liến thoắng
Cụ thể:

Số lượng
40
5
4

%
100
12,5

10

1
4
4
2

2,5
10
10
5

+ Về lỗi phát âm: Các em chủ yếu ngọng về âm đầu và thanh, ngọng vần
ít hơn. Cụ thể: học sinh chủ yếu lẫn âm l/n: 5 em (phần nhiều ảnh hưởng do phát
âm từ gia đình bố mẹ học sinh); 1 em ngọng thanh hỏi/nặng; còn 4 em ngọng
vần uyên/uên; anh/ăn
+ Về lỗi diễn đạt: Cả lớp có 5 học sinh đọc trôi chảy, mạch lạc, bước đầu
có diễn cảm, 10 em đọc rõ ràng, ngắt nghỉ tương đối phù hợp, 15 em đọc được
bài tuy nhiên đôi khi vẫn còn ngắt, nghỉ chưa đúng chỗ, chưa biết ngắt câu dài,
vẫn ngọng âm, còn 4 em vừa đọc vừa đánh vần, đọc chậm và còn mắc cả lỗi
phát âm (ngọng âm đầu và thanh), trong lúc đọc còn dừng lại để đánh vần,
không đảm bảo tốc độ. Còn 2 em đọc được bài nhưng đọc liến thoắng, ngắt nghỉ
không đúng chỗ, đọc ào ào cho hết bài, còn 4 em đọc nhỏ.
Sau khi khảo sát, phân loại đối tượng tôi tiến hành lập danh sách theo dõi,
tập trung các nhóm học sinh mắc lỗi để xây dựng kế hoạch bồi dưỡng riêng. Lập
bảng theo dõi mức độ tiến bộ trong phát âm, những ưu khuyết điểm còn mắc
phải trong từng bài, từng tuần để từng bước dứt điểm.
Thông qua bảng thống kê giáo viên nắm được mức độ mắc lỗi của học
sinh trong lớp từ đó có kế hoạch sửa lỗi cho từng nhóm học sinh trong từng tiết
học, bài học, theo từng loại lỗi khác nhau.

9


Tóm lại: Bước khảo sát thực tế việc đọc của học sinh nhằm tìm ra để phân
loại các nhóm mắc lỗi khác nhau để biềm biện pháp khắc phục, sửa lỗi cho học
sinh. Đây là bước rất quan trọng để thực hiện tốt việc “rèn kĩ năng đọc” cho học
sinh.
Biện pháp 2: Yêu cầu đối với giáo viên
1. Chuẩn bị bài trước khi lên lớp
1.1 Tập đọc mẫu
Trước khi lên lớp, giáo viên phải nghiên cứu kỹ bài Tập đọc: Xác định
chuẩn kiến thức kỹ năng của bài, nắm chắc nội dung và ý nghĩa bài Tập đọc, đặc
biệt là thể loại bài Tập đọc, từ đó hình thành cách đọc, giọng đọc, cách ngắt hơi,
nghỉ hơi, cách ngắt nhịp câu thơ, cách lên giọng, xuống giọng ... cho phù hợp.
Đọc bài thành tiếng ít nhất hai đến ba lần để tự kiểm tra giọng đọc, cách
ngắt hơi, nghỉ hơi, ... của mình đã phù hợp chưa để kịp thời điều chỉnh cho bước
đọc mẫu của giờ Tập đọc. Giáo viên phải tập cho bản thân mình có giọng đọc
mẫu thật chuẩn. Đọc mẫu cho các em trong giờ Tập đọc là vô cùng quan trọng
nó góp phần quyết định đến chất lượng đọc của các em trong giờ Tập đọc đó.
Giáo viên đọc mẫu phải đọc đúng, rõ ràng, trôi chảy, đảm bảo tốc độ và
diễn cảm, vì đây chính là cái đích về kỹ năng đọc mà học sinh cần đạt được. Qua
bài đọc mẫu của giáo viên còn diễn đạt được đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác
giả muốn gửi gắm trong bài tập đọc (đây chính là phương pháp trực quan tốt
nhất đối với học sinh lớp 2).
Nếu giáo viên còn phát âm chưa chuẩn nên gạch dưới những tiếng từ
mình hay mắc lỗi để khi đọc chú ý uốn nắn kịp thời tiến tới đọc chuẩn khi đọc
mẫu trước học sinh.
1.2 Phân tích nội dung bài Tập đọc qua hệ thống câu hỏi cuối bài
Giáo viên phải trả lời được các câu hỏi vì các câu trả lời này sẽ giúp cho giáo
viên xác định được mục đích, yêu cầu, nội dung và phương pháp dạy bài Tập

đọc. Trong một số bài Tập đọc giáo viên có thể dùng thêm một số câu hỏi dẫn
dắt trước khi vào các câu hỏi chính, có thể chia câu hỏi trong sách giáo khoa
thành các câu hỏi nhỏ, sắp xếp, hệ thống lại các câu hỏi cho phù hợp (tránh
những câu hỏi vụn vặt).
1.3 Lựa chọn phương pháp, hình thức dạy học - đặc biệt là lựa chọn biện
pháp rèn đọc cho học sinh
Tuỳ từng bài Tập đọc, giáo viên lường trước các từ khó, phát âm dễ lẫn để
lựa chọn nhóm đối tượng luyện đọc nhiều hơn. Ví dụ bài tập đọc có nhiều âm
đầu khó, hay có vần dễ lẫn để chọn nhóm học sinh hay mắc lỗi đó luyện đọc kĩ
hơn. Lựa chọn hình thức luyện đọc ở phần đọc đoạn, bài hay phần đọc lại sau
tìm hiểu nội dung, có thể chọn các hình thức dạy học như: Trò chơi, thi đọc tiếp
sức, thi đọc đối đáp... để học sinh không nhàm chán. Cách luyện đọc nhóm cũng
cần linh hoạt, không nhất nhất cứ nhóm đôi. Bài có 3 đoạn chúng ta có thể luyện
10


đọc nhóm ba, bốn đoạn thì luyện đọc nhóm 4. Đến phần thi đọc nhóm trước lớp
cũng cần thay đổi linh hoạt, có thể thi chọn mỗi nhóm một em thi đọc, cũng có
thể thi đọc đồng thanh cả nhóm ... Tóm lại là giáo viên phải linh hoạt để tiết học
sinh động.
1.4. Bước soạn bài
- Xác định rõ mục đích, yêu cầu của bài Tập đọc bám sát Chuẩn kiến thức
kỹ năng cơ bản.
- Lập thời gian biểu cụ thể cho từng phần của bài Tập đọc (chú ý thời gian
dành cho luyện đọc của từng bài). Phần luyện đọc phải dành 20 - 25 phút/tiết.
Ví dụ: Phần đọc mẫu: khoảng 2 phút.
Luyện đọc từng câu (học sinh đọc nối tiếp mỗi em 1 câu) (từ 5 - 7 phút):
phần này tuỳ bài dài hay ngắn, tuỳ số lượng học sinh phải sửa lỗi nhiều hay ít để
phân bố thời gian cho hợp lí. Thường thí dành nhiều thời gian hơn ở kỳ I và chú
ý sửa lỗi phát âm cho học sinh.

Luyện đọc từng đoạn trước lớp (từ 5 - 7 phút): rèn lỗi ngắt, nghỉ câu dài,
cách đọc câu hỏi, câu cảm, ...
Đọc đoạn trong nhóm (từ 2 - 3 phút): học sinh tự sửa lỗi cho nhau.
Thi đọc nhóm trước lớp (5 - 7) phút: Có thể tổ chức trò chơi luyện đọc: đọc thi
cá nhân các nhóm, thi đồng thanh nhóm, thi đọc tiếp sức đoạn trong nhóm, đọc
“truyền điện”...
- Lựa chọn nhóm đối tượng hay mắc lỗi trong từng bài để dành thời gian
sửa lỗi cho nhóm này nhiều hơn.
- Lựa chọn hình thức luyện đọc cho bài, tránh trùng lặp gây nhàm chán
cho học sinh.
1.5 Bước chuẩn bị đồ dùng dạy học
Đây là bước quan trọng phục vụ cho giờ dạy, các tranh ảnh, sưu tầm các
câu thơ, ca dao, tục ngữ… để hỗ trợ thêm bài giảng thêm phong phú, phải lựa
chọn, sắp xếp, đưa ra lúc nào cho phù hợp để phục vụ cho mục đích tiết dạy, tận
dụng tranh minh họa trong sách giáo khoa và đồ dùng dạy học một cách thiết
thực có hiệu quả nhất. Khi dạy trình chiếu, có thể lựa chọn tranh ảnh phục vụ
cho việc giải nghĩa từ, giảng nội dung, cảm thụ bài văn, bài thơ... hoặc cho học
sinh nghe giọng đọc diễn cảm của bài Tập đọc.
2. Giảng bài
Giáo viên cần dạy đúng quy trình của bài Tập đọc, đảm bảo về mặt thời
gian và khối lượng kiến thức cần truyền tải đến học sinh. Chú ý trong khi giảng
bài việc khen, động viên học sinh phải đúng lúc, kịp thời, không khen nhiều quá,
hay ít khen quá làm tiết học buồn tẻ, không nên chê học sinh mà chọn lời nói
phù hợp để khuyến khích học sinh, các em rất hiếu động vì thế mỗi lời khen, chê
của giáo viên đều phải cân nhắc kĩ lưỡng, không được tuỳ tiện.
11


3 Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà.
Phải có sự chuẩn bị bài trước ở nhà. Học sinh lớp 2 chưa có thói quen đọc

trước bài ở nhà. Ngay từ đầu năm học tôi đã hướng dẫn học sinh cách chuẩn bị
một bài Tập đọc, để hình thành phương pháp học bộ môn này.
Bước1: Đọc thầm một lần bài Tập đọc để làm quen mặt chữ, để cảm nhận
ban đầu về bài văn. Nếu học sinh đọc ngọng thì dùng bút chì gạch chân những
tiếng bản thân hay đọc ngọng để khi đọc chú ý để sửa.
Bước 2: Đọc thành tiếng hai lần, đầu tiên đọc đúng, rõ ràng từng từ, từng
câu (biết ngắt hơi ở dấu phẩy, nghỉ hơi ở dấu chấm) để sau đó tiến tới đọc diễn
cảm, đọc hay.
Bước 3: Đọc kỹ phần chú giải (có thể hỏi cha mẹ, anh chị những từ nào
chưa hiểu trong bài Tập đọc).
Bước 4: Tập trả lời câu hỏi dưới bài Tập đọc.
Trước khi trả lời nên đọc toàn bộ câu hỏi một lần, suy nghĩ động não trả
lời từng câu sao cho gọn, đủ ý (Có thể viết vào vở chuẩn bị bài).
Bước 5: Đọc thành tiếng lần cuối sao cho đúng, giọng đọc phù hợp với
nội dung của bài Tập đọc.
4. Kiểm tra đánh giá thường xuyên.
Sau mỗi bài Tập đọc, giáo viên ra bài tập và hướng dẫn học sinh học ở
nhà theo yêu cầu, giáo viên phải có kế hoạch kiểm tra việc học ở nhà đối với các
em.
Sau mỗi tiết, mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi kì giáo viên cần đánh giá kiểm tra trình
độ của học sinh rồi ghi lại vào bảng theo dõi, từ đó giáo viên điều chỉnh lại
phương pháp giảng dạy hoặc giúp học sinh điều chỉnh lại cách học sao cho việc
dạy và học đạt hiệu quả cao.
Mặt khác xuất phát từ đặc điểm của lứa tuổi học sinh tiểu học: rất thích
được cô giáo khen, thích gần gũi, vui vẻ cùng cô giáo, luôn cố gắng làm nhiều
việc tốt để được cô giáo chú ý, khen ngợi nên việc động viên, khen ngợi kịp thời
có tác dụng khuyến khích học sinh tích cực, hứng thú học tập hơn. Giáo viên cần
hạn chế việc chê bai học sinh một cách lộ liễu trước cả lớp. Đối với những em
chậm tiến bộ nên nhẹ nhàng nhắc nhở, tìm hiểu nguyên nhân để tìm cách khắc
phục chứ không phê bình gay gắt, không xúc phạm đến học sinh, không để học

sinh chán nản, không thích học Tập đọc.
5. Dự giờ đồng nghiệp.
Trong trường có rất nhiều giáo viên có kinh nghiệm dạy Tập đọc, những
giáo viên mới về trường nên tích cực đi dự giờ, học hỏi đồng nghiệp. Sau mỗi
tiết dự giờ rút kinh nghiệm với giáo viên trực tiếp giảng dạy, bổ sung kiến thức,
phương pháp cho bản thân mình. Phần nào chưa rõ, chưa hiểu có thể trực tiếp
hỏi giáo viên giảng dạy để hiểu thấu đáo hơn.
12


Tóm lại: Giáo viên phải chuẩn bị bài kĩ lưỡng, chi tiết, dự phòng được
một số tình huống sư phạm khi giảng dạy và hướng giải quyết, xây dựng được
kế hoạch dạy học phù hợp với bài tập đọc, phù hợp với đối tượng học sinh của
lớp, lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học phù hợp. Tích cực tự học, tự
bồi dưỡng để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn.
Biện pháp 3: Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc trong giờ Tập đọc cho
cho học sinh lớp 2B
1. Luyện đọc đúng (dùng cho nhóm lỗi phát âm ngọng)
- Học sinh đọc đúng tức là đọc một cách chính xác, không có lỗi, nghĩa là
không đọc thừa, thiếu tiếng, không đọc theo cách phát âm địa phương, lệch
chuẩn, đọc đúng chính âm.
- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh có tâm thế để đọc: Tư thế đứng đọc
ngay ngắn, hít sâu, thở ra chậm để lấy hơi.
+ Luyện cho học sinh biết đọc đúng chính âm:
- Rèn đọc đúng là rèn cho học sinh thể hiện chính xác âm vị Tiếng Việt.
- Đọc đúng các phụ âm đầu: lạnh lẽo chứ không phải nạnh nẽo; thơm nức
chứ không phải thơm lức; lấm tấm, đen thủi, rì rào không đọc thành đấm tấm;
len tủi; đì đào…
- Đọc đúng vần: phân việt và đọc đúng các vần có âm đôi ươ, uô, iê. Ví
dụ: vườn, nước, đầu tiên... chứ không đọc là vờn, nơc, lầu tên…,

- Đọc đúng thanh: phân biệt giữa thanh sắc với thanh ngã; thanh nặng với
thanh hỏi. Ví dụ: Những ≠ nhứng; đỏ ≠ đọ, cởi bỏ ≠ cợi bọ…
Biện pháp:
Trước tiên giáo viên cần luyện cho học sinh nói, đọc đúng chính âm càng
sớm càng tốt, tiếp đó chúng ta cần nắm các biện pháp chữa lỗi phát âm bao gồm:
+ Chữa lỗi phát âm theo mẫu: Rèn cho học sinh kỹ năng nghe. Học sinh
phát âm sai, giáo viên phát âm chuẩn, yêu cầu học sinh nghe và đọc lại chính
xác theo mẫu. Giáo viên cho học sinh quan sát khẩu hình miệng cách bật âm
thanh, rồi học sinh làm theo mẫu. Giáo viên có thể để học sinh có giọng đọc
chuẩn đọc mẫu để học học phát âm sai đọc lại theo, cho học sinh gạch chân
tiếng có âm mình hay lẫn để luyện phát âm riêng những tiếng đó.
+ Chữa lỗi phát âm bằng biện pháp cấu âm: cho học sinh phân tích cấu tạo
tiếng: âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối từ đó đánh vần đủ để đọc đúng,
không bỏ âm cuối hoặc âm đệm, hoặc lẫn các âm cuối (có thể cho học sinh vẽ
lại mô hình cấu tạo vần, đưa vần vào mô hình đã học ở lớp 1)
+ Chữa lỗi bằng âm trung gian, chữa lỗi phát âm bằng cách tìm tiếng, từ
có chứa âm dễ lẫn: ví dụ: “no” khác với “ lo” bằng cách tìm từ có tiếng “no”,
“lo”: ăn no, no nê, .. lo lắng, lo sợ, “đỏ” khác với “đọ”: màu đỏ, hoa đỏ ... khác
13


với đọ sức, so đọ ..., cũng có thể giáo viên dùng tranh ảnh (hoặc hình ảnh khi
dạy giáo án điện tử) để học sinh phân biệt, ví dụ phân biệt vần ơn/ươn: hình ảnh
vườn rau, vườn cây với hình ảnh đàn bướm vờn hoa...
+ Chữa lỗi theo nhóm: Khi học đến bài tập đọc nào có nhóm học sinh mắc
lỗi nhiều trong bài thì giáo viên phải tập trung vào nhóm học sinh đó để sửa lỗi
ngay, cố gắng, kiên trì với từng học sinh, có thể cho học sinh gạch chân chữ
mình hay đọc sai để khi đọc đến đó nhớ đọc cho đúng. Giáo viên cần chú ý kiên
trì chữa lỗi phát âm sai cho học sinh trong lớp ở tất cả trong các tiết học khác,
trong khi giao tiếp hàng ngày.

Tóm lại: Để hướng dẫn học sinh đọc đúng giáo viên phải luyện cách phát
âm đúng. Giáo viên phải kiên trì, liên tục có hệ thống. Nhiều học sinh phát âm
ngọng ngại không muốn đọc sợ các bạn cười, giáo viên phải giải toả tâm lí, phân
tích để các bạn cùng giúp đỡ, giáo viên nên lựa chọn hình thức sửa lỗi trong đọc
nhóm đôi, học sinh tự phát hiện tự sửa lỗi cho nhau.
2. Luyện đọc nhanh - đọc lưu loát (dùng cho nhóm học sinh đọc nhỏ, đọc
chậm - đọc ê, a, nhóm học sinh đọc liến thoắng).
Theo thực hiện Chuẩn kiến thức kĩ năng tốc độ đọc cần đạt ở mỗi học kì
khác nhau:
Giữa học kì I: khoảng 35 tiếng / phút.
Cuối học kì I: khoảng 40 tiếng / phút.
Giữa học kì II: khoảng 45 tiếng / phút.
Cuối học kì II: khoảng 50 tiếng / phút.
Đọc nhanh còn gọi là đọc lưu loát, đọc trôi chảy, đọc nhanh là nói đến
mức độ đọc về mặt tốc độ. Vấn đề đọc nhanh chỉ xảy ra sau khi đọc đúng. Mức
độ thấp nhất của đọc nhanh là đọc trơn, không đọc ê a, ngắc ngứ vừa đọc vừa
đánh vần. Song đọc nhanh không phải là đọc ào ào, liến thoắng, không thể hiện
được nội dung, tình cảm của bài Tập đọc. Tốc độ chấp nhận được của đọc nhanh
khi đọc thành tiếng trùng với tốc độ của lời. Khi đọc thầm tốc độ sẽ nhanh hơn.
Khi đọc cho người khác nghe thì phải đọc tốc độ kịp thời cho người nghe hiểu
được. Đọc nhanh chỉ thực sự có ích khi nó không tách rời việc hiểu rõ điều được
đọc.
Biện pháp: Hướng dẫn học sinh nắm được tiêu chí cường độ đọc:
Đọc to: là đọc đủ nghe, rõ ràng, không có nghĩa là gào lên. Những học sinh đọc
quá nhỏ cần yêu cầu học sinh đọc sao cho các bạn ở xa nhất lớp vẫn nghe rõ.
Giáo viên cần rèn cho học sinh ngay cả khi nói, khi trả lời câu hỏi cũng phải to
đú nghe, rèn trong mỗi bài Tập đọc, trong các bài học khác, trong giao tiếp....
đến khi học sinh có thói quen đọc to.
Luyện cho học sinh không đọc ê a, ngắc ngứ, đọc lặp lại. Tốc độ đọc đảm
bảo theo yêu cầu, không đọc nhanh quá hay chậm quá. Muốn vậy phải luyện cho

14


học sinh làm chủ tia mắt khi đọc: Trước hết phải luyện cho học sinh đọc không
bỏ sót tiếng, bỏ sót dấu thanh; không thêm tiếng, bớt tiếng; không lạc dòng. Để
làm được điều này giáo viên phải yêu cầu học sinh thật kiên trì, bước đầu có thể
cho các em dùng que chỉ để chỉ vào từng chữ đọc cho chính xác, khi đã quen
mặt chữ rồi thì chỉ dùng mắt để nhìn chữ đọc cho đúng.
Giáo viên hướng dẫn học sinh làm chủ tốc độ bằng cách đọc mẫu đúng,
chính xác để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị đọc nhanh là cụm từ, câu,
đoạn, bài. Giáo viên điều khiển tốc độ bằng cách giữ nhịp đọc (có thể gõ thước
làm nhịp cho học sinh giữ nhịp đọc). Đối với những em còn đọc ê a hoặc đọc
liến thoắng giáo viên cần chỉ ra chính xác lỗi đọc sai của các em rồi từ từ hướng
dẫn
các em sửa theo mẫu của giáo viên. Phần luyện đọc này thường thực hiện khi
các em luyện đọc thành tiếng. Đối với học sinh đọc liến thoắng giáo viên tập cho
học sinh có thói quen đọc đúng nhịp bằng cách cho các em đọc theo nhịp gõ
thước của cô giáo, còn đối với học sinh đọc chậm (đọc ê, a) thì giáo viên sẽ cho
học sinh đọc từng câu, từng đoạn nhanh dần lên cho kịp bắt nhịp với các bạn
khác.
Ngoài ra cần sử dụng triệt để hình thức đọc thành tiếng nối tiếp trên lớp,
đọc thầm có sự kiểm tra của thầy của bạn để điều chỉnh tốc độ đọc. Giáo viên đo
tốc độ đọc bằng cách đọc bài Tập đọc trước và dự tính sẽ đọc trong thời gian
mấy phút. Định tốc độ đọc như thế nào còn phụ thuộc và độ khó của bài đọc.
Ví dụ: Bài: Bím tóc đuôi sam (Tuần 4) học sinh có thể đọc trong vòng 2
đến 3 phút. Tốc độ đọc nhanh dần lên, đến bài “Sơn Tinh, Thuỷ Tinh” (Tuần 25)
bài này chỉ yêu cầu đọc trong gần 2 phút.
3. Luyện đọc hiểu (dùng cho tất cả các nhóm học sinh trong lớp)
- Dạy học sinh đọc hiểu là dạy học sinh đọc có ý thức, hiệu quả đó đo
được bằng khả năng thông hiểu nội dung văn bản.

- Kết quả của đọc hiểu là giúp học sinh hiểu được ý nghĩa của từ, cụm từ,
câu, đoạn, bài, tức là gồm toàn bộ những gì mình đọc được. Muốn đọc hiểu
được văn bản thì học sinh phải biết ngắt, nghỉ đúng.
Ví dụ: Bài: “Trên chiếc bè” (Tiếng Việt 2 -Tập 1)
Một học sinh đọc to, cả lớp đọc thầm đoạn: “Mùa thu …mặt nước”
Giáo viên yêu cầu học sinh tự phát hiện những câu dài:
- Mùa thu mới chớm/ nhưng nước đã trong vắt/ trông thấy cả hòn cuội
trắng tinh/ nằm dưới đáy.//
- Những anh gọng vó đen sạm,/ gầy và cao/ nghênh cặp chân gọng vó/
đứng trên bãi lầy/ bái phục nhìn theo chúng tôi//
Sau đó giáo viên treo bảng phụ đã viết những câu dài (hoặc trên màn hình
nếu dạy trình chiếu) Học sinh tự xác định cách ngắt hơi, nghỉ hơi, nhấn giọng ở
15


các từ ngữ của các câu đó. Giáo viên hướng dẫn và tổng kết lại cách đọc rồi cho
học sinh gạch dưới các từ ngữ cần nhấn giọng và gạch chéo giữa các cụm từ cần
ngắt nghỉ. Sau đó cho học sinh luyện đọc lại. Điều này đã giúp học sinh nắm bài
một cách có ý thức, chủ động và phát huy khả năng cảm thụ văn học của các em.
Hoặc bài: “Mẹ” (Tiếng Việt 2 - Tập 1)
- GV hướng dẫn học sinh đọc bài thơ theo nhịp 2/4 và 4/4, đến câu thơ 7

8 học sinh giỏi tự phát hiện ra cách ngắt nhịp câu thơ khác những câu trước.
Những ngôi sao/ thức ngoài kia (3/3)
Chẳng bằng mẹ/ đã thức vì chúng con. (3/5)
Biện pháp: Người giáo viên cần có biện pháp giúp học sinh hiểu được nội
dung bài tập đọc bắt đầu phải hiểu được các từ trong bài đọc. Giáo viên phải biết
hướng dẫn học sinh đọc tiếng từ khó, câu khó bằng cách đọc mẫu chính xác rồi
cho học sinh luyện đọc lại sau đó mới yêu cầu các em đọc hoàn chỉnh câu, đoạn,
bài. Những học sinh khá giỏi có thể sau khi giáo viên đọc tự phát hiện ra cách

ngắt, nghỉ, cách nhấn giọng, lên giọng, xuống giọng, ở những từ ngữ nào để đọc
đúng và hay, và biết cách phân biệt lời nhân vật. Sau đó giáo viên là người tổng
kết lại cách đọc giúp học sinh nắm chắc cách đọc để phát huy tính chủ động
sáng tạo của các em. Nếu học sinh chưa phát hiện được cách đọc giáo viên có
thể đọc mẫu câu văn, khổ thơ, từ đó giúp học sinh nhận ra cách đọc phù hợp, sau
đó các em được đọc lại những câu, đoạn giáo viên đã hướng dẫn để học sinh
nắm chắc cách đọc của câu, đoạn, bài đó.
Với học sinh lớp 2 việc Luyện đọc hiểu được coi là yêu cầu cần thiết của
tiết học Tập đọc vì vậy nếu chúng ta bỏ qua hoặc là thực hiện đại khái không
thực hiện tốt thì lên lớp trên các em sẽ khó có khả năng đọc diễn cảm, đọc phân
vai…việc cảm thụ văn học của các em sẽ bị hạn chế rất nhiều. Đối với học sinh
đọc yếu ngoài việc rèn đọc đúng chúng ta cũng nên dần hướng dẫn các em tập
đọc hiểu. Muốn vậy giáo viên phải hết sức kiên trì phù đạo thêm, không nên nôn
nóng, không bỏ qua mà cần có sự quan tâm nhiều hơn, tạo điều kiện cho các em
đó được đọc nhiều hơn. Ngoài ra giáo viên có thể phối hợp với cha mẹ các em
để hướng dẫn các em tự học thêm ở nhà.
Trong giờ Tập đọc để các em hiểu được nội dung, ý chính của đoạn, bài
ngoài việc đọc đúng, đọc lưu loát các em cần phải có kĩ năng đọc hiểu, vì có
hiểu nội dung thì mới đọc đúng được. Ngay từ đầu năm học cần xây dựng cho
học sinh ý thức đọc thầm. Đó là phải chú tâm vào việc đọc và đã suy nghĩ về
nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài. Phải hiểu được thì mới đọc đúng, đọc hay
được. Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài giáo viên đưa ra các câu hỏi theo
từng nội dung đoạn cần tập cho các em có thói quen đọc thầm rồi suy nghĩ câu
trả lời sao cho thoát li sách giáo khoa, không phải là đọc lại nội dung trong sách.
Giáo viên có thể chia nhỏ câu hỏi ra để các em đọc yếu hơn có thể trả lời được,
không nên hoàn toàn lệ thuộc vào các câu hỏi trong sách giáo khoa mà có thể có
16


thêm những câu hỏi dẫn dắt các em đến những câu hỏi đó. Tuy nhiên giáo viên

cũng không nên sử dụng hệ thống câu hỏi quá vụn vặt mà vẫn cần có những câu
hỏi đòi hỏi khả năng tư duy của những học sinh khá giỏi. Từ chỗ hiểu nội dung
bài, học sinh xác định được cách đọc hiểu để rồi tiến tới đọc diễn cảm, đọc phân
vai…
4. Luyện đọc diễn cảm (dùng cho nhóm học sinh đọc lưu loát, rõ ràng,
mạch lạc - nhóm học sinh khá, giỏi). Luyện đọc diễn cảm là luyện cho học sinh
nâng cao hơn. Luyện đọc diễn cảm chính là rèn năng lực cảm thụ văn học cho
học sinh. Muốn vậy, giáo viên phải có trách nhiệm giúp học sinh nâng cao cảm
xúc, cảm nhận được cái hay, cái đẹp của bài Tập đọc. Đọc diễn cảm ở lớp 2 có
nhiều mức độ khác nhau nhưng tôi chỉ dừng lại ở mức độ biết phân biệt lời tác
giả, lời nhân vật, biết đọc đối thoại, đọc phân vai.
Bài: Chuyện bốn mùa (Tuần 19)
Tôi phân nhóm sáu em đọc: Người dẫn chuyện, bốn nàng Xuân, Hạ, Thu,
Đông và Bà Đất.
Bài: Ông Mạnh thắng Thần Gió (tuần 20)
Tôi phân nhóm 3 em đọc: Người dẫn chuyện, ông Mạnh, Thần Gió. Phân
tích giọng đọc các nhân vật theo văn cảnh, giọng người dẫn chuyện, từ đó học
sinh nhập vai để đọc.
Việc luyện đọc diễn cảm cho học sinh lớp 2 ở trường Tiểu học Kim Long
B là khả thi, bởi qua quá trình luyện đọc có nhiều em đọc được bài lưu loát, trôi
chảy, nhiều em còn có giọng đọc hay. Bởi vậy trong khi dạy Tập đọc tuỳ từng
bài tôi chú ý rèn đọc diễn cảm cho học sinh.
Biện pháp: Muốn các em đọc diễn cảm, phân vai được thì giáo viên phải
làm tốt phần đọc hiểu. Từ đó học sinh nhập được vai, thể hiện giọng đọc đúng
vai mình đóng. Giáo viên tiến hành bước đọc mẫu, hướng dẫn giọng đọc các
nhân vật, giọng người dẫn chuyện (cũng có bài để phát huy tính tích cực của học
sinh, giáo viên để học sinh tự nêu ra cách đọc diễn cảm của mình, giáo viên có
thể bổ sung thêm), học sinh luyện đọc theo nhóm để tự sửa theo vai mình đóng.
Học sinh thể hiện trước lớp. Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh thi đọc diễn
cảm trước lớp để các em thể hiện tài năng của mình. Phần luyện đọc diễn cảm

chỉ dành cho học sinh khá, giỏi. Phần luyện đọc diễn cảm tôi cũng có thể tổ chức
dưới dạng trò chơi: Thi Ai có giọng đọc giống phát thanh viên; thi thả thơ hay
nhất, thi đọc đối đáp...
Tuỳ từng bài Tập đọc mà lựa chọn các hình thức luyện đọc diễn cảm cho
phù hợp, tránh nhàm chán. Cũng có những bài Tập đọc không có thời gian để
luyện đọc diễn cảm mà giáo viên phải hướng dẫn về nhà đọc.
Tóm lại: Năng lực sư phạm của giáo viên là vai trò quyết định sự thành
công trong dạy học vì thế đòi hỏi người giáo viên phải tích cực tự học tự bồi
dưỡng, tích cực đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh,
17


phù hợp với vùng miền, phù hợp với tiết dạy, bài dạy…điều đó đòi hỏi người
giáo viên phải lao động nghiêm túc, tận tâm với nghề nghiệp.
7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
Trước khi nghiên cứu sáng kiến này, tôi chỉ mong muốn làm thế nào để kĩ
năng đọc của học sinh nói chung, và chất lượng học môn Tiếng Việt nói riêng
của học sinh lớp tôi được nâng lên. Nhưng sau một học kì nghiên cứu, thử
nghiệm, tôi đã có những thành công nhất định. Mặc dù, hiệu quả của sáng kiến
chưa phải đã cao song đó cũng là sự khởi sắc cho công trình nghiên cứu đầy tâm
huyết của tôi. Đến nay, tôi có thể khẳng định sáng kiến không chỉ áp dụng cho
việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2B trong giờ Tập đọc mà còn có thể vận
dụng cho cả các khối lớp khác trong việc dạy phân môn Tập đọc. Tôi thiết nghĩ,
mỗi giáo viên nếu thực hiện đúng theo các giải pháp nêu trong sáng kiến sẽ góp
phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt và tất cả các môn học khác trong nhà
trường.
8. Những thông tin cần được bảo mật: Không
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Phòng học, học sinh, bàn ghế, sách vở, đồ dùng học tập, cơ sở vật chất
đầy đủ.

- Giáo viên nhiệt tình, tâm huyết, yêu nghề, tận tâm với học sinh.
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến:
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
*Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng Sáng kiến:
Sau gần một năm thực hiện đề tài tôi đã dần dần khắc phục được các lỗi
đọc chưa đúng của học sinh, bước đầu xây dựng cho các em thói quen biết tự
sửa lỗi để đọc đúng và có hứng thú khi học phân môn Tập đọc, bước đầu biết
cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong mỗi bài Tập đọc. Từ đó các em thêm yêu
Tiếng
Việt.
Sau khi nghiên cứu, xây dựng đề tài sáng kiến tôi thực hành áp dụng vào dạy
Tập đọc ở lớp 2B. Tôi thấy từng bước đạt được kết quả.
Kết quả qua ba lần khảo sát sau khi dạy thực nghiệm: Dạy lớp 2B
Tiết 1: Bài Người mẹ hiền (tuần 8)
Ở bài này giáo viên chú ý nhóm học sinh mắc lỗi phát âm ngọng âm đầu,
ngọng thanh trong phần đọc câu nối tiếp (biện pháp rèn đọc đúng), luyện nhóm
nhóm đọc nhỏ, đọc chậm, đọc ê a trong phần đọc đoạn, bài và phần đọc lại.
18


Tiết 2: Bài Tìm ngọc (tuần 17)
Ở bài này giáo viên chú ý nhóm học sinh đọc ngọng vần anh/ăn trong
phần luyện đọc câu; sửa lỗi nhóm đọc liến thoắng, giữ nhịp đọc cho học sinh
đọc đúng nhịp trong phần đọc đoạn, bài và phần đọc lại.
Bài này giáo viên rèn kỹ năng đọc hiểu cho học sinh và luyện đọc diễn
cảm (vẫn kết hợp sửa lỗi cho học sinh).
Kết quả cụ thể:
Các lỗi thường gặp


Tuần 8
Số lượng
%

Tuần 17
Số lượng
%

Ngọng âm đầu

3

7,5

1

2,5

Ngọng vần

3

7,5

1

2,5

Ngọng thanh


0

0

0

Đọc chậm, e a

3

7,5

1

0
2,5

Đọc nhỏ

3

7,5

1

2,5

Đọc liến thoắng


2

5,0

0

0

Đọc đúng, diễn cảm

26

65

34

90

Tổng số

40

100

40

100

Đó là một kết quả rất đáng mừng, là điều chưa từng có trước khi áp dụng
sáng kiến này. Kết quả đó không chỉ đánh giá sự nỗ lực phấn đấu của học sinh

mà còn khẳng định sự đúng đắn trong hướng đi của tôi trong việc nghiên cứu
sáng kiến.
Kết quả đó cho chúng ta thấy Thầy có được phương pháp tốt thì học sinh
cũng sẽ lĩnh hội bài tốt hơn. Chất lượng học của học sinh không tự dưng mà có
được, mà đòi hỏi mỗi người giáo viên chúng ta biết phương pháp truyền đạt tới
từng đối tượng học sinh.
10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
Sáng kiến đã được các đồng nghiệp và tổ chuyên môn của tôi cùng với
nhà trường đánh giá là rất khả quan bởi từ khi áp dụng chất lượng học tập môn
Tiếng Việt của các em học sinh lớp 2 đã có sự thay đổi rõ rệt. Học sinh năng
động, sáng tạo, tự tin không chỉ trong việc học môn Tiếng Việt mà trong tất cả
các môn học khác cũng như trong giao tiếp.
Kết quả lớp thực nghiệm: Ở lớp 2B (lớp thực nghiệm) qua từng thời kỳ
học sinh có chuyển biến về chất lượng đọc.

19


Đầu năm: Tỉ lệ học sinh đọc lưu loát ít, còn nhiều học sinh đọc ngọng,
phát âm lẫn lộn, đặc biệt còn nhiều học sinh đọc ê a, có một số em cả học sinh
đọc liến thoắng.
Giữa kỳ 1: Nhiều học sinh thích học phân môn Tập đọc hơn. Tỉ lệ học
sinh đọc ngọng đã giảm, học sinh đọc lưu loát hơn, số học sinh đọc ê a, hoặc đọc
liến thoắng giảm. Các em bước đầu biết đọc đúng và đọc hiểu, bên cạnh đó vẫn
còn học sinh đọc ê a, ngắc ngứ, đánh vần.
Cuối học kỳ I: Học sinh thích học phân môn Tập đọc nhiều hơn. Số học
sinh đọc ngọng giảm, học sinh đọc lưu loát hơn, số học sinh đọc ê a, đọc nhỏ
giảm rõ rệt, không còn học sinh đọc liến thoắng.
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp

dụng sáng kiến lần đầu:
Số
TT

Tên tổ
chức/cá
nhân

Địa chỉ

Phạm vi/Lĩnh vực

1

Lớp 2B

Trường TH Kim Long B

áp dụng sáng kiến

Kim Long, ngày …..tháng …. năm 2020

Môn Tiếng Việt

Kim Long, ngày 9 tháng 3 năm 2020

Thủ trưởng đơn vị

Tác giả sáng kiến


Nguyễn Thị Lệ Hương

Trần Thị Thúy

20



×