BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Môn Ngữ văn trong chương trình THCS nói riêng và trong các cấp học
nói chung có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh 4 kĩ năng đó là: “nghe - nói - đọc viết”. Trong đó, phân môn Tập làm văn là phân môn có tính chất tích hợp các
phân môn khác. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn
bản, đó là bài nói, bài viết. Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan
trọng, thông qua đó con người thực hiện quá trình tư duy - chiếm lĩnh tri thức,
trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác
trong cuộc sống lao động. Ngôn ngữ (dưới dạng nói - ngôn bản, và dưới dạng
viết - văn bản) giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển xã hội. Chính
vì vậy, hướng dẫn cho học sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm
vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng dạy môn Ngữ văn nói chung
và phân môn Tập làm văn nói riêng. Vấn đề đặt ra là: người giáo viên dạy tập
làm văn như thế nào để học sinh viết tốt bài văn của mình? Cách thức tổ chức,
tiến hành tiết dạy Tập làm văn ra sao để đạt hiệu quả như mong muốn?
Chính vì vậy mà việc rèn luyện kỹ năng viết đoạn văn cho học sinh THCS
là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết trong việc tạo lập văn bản. Từ đó
giúp học sinh hình thành ý thức và nhân cách cũng như trình độ học vấn cho các
em ngay khi đang học bậc THCS và trưởng thành sau này.
Bản thân là một cán bộ quản lý, song ngoài công việc chính của bản thân
tôi vẫn trực tiếp giảng dạy một lớp thuộc chuyên môn chính. Vì thế trong quá
trình đứng lớp tôi đã nhận ra một vài vấn đề còn bất cập trong bộ môn của mình.
Quả thực dạy cho các em có được hứng thú, niềm say mê yêu thích môn văn học
đã khó, nay giúp các em tự diễn đạt, trình bày suy nghĩ của mình thành văn bản
lại là một điều khó hơn. Đặc biệt là văn nghị luận chứng minh
Có thể nhận thấy Văn nghị luận chứng minh một trong những thể loại
khó của phân môn Tập làm văn. Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học
tập của những tiết học này, học sinh với vốn kiến thức còn hạn chế nên thường
ngại nói, ngại viết. Nên viết, rèn cho các em biết cách diễn đạt, lập luận một văn
bản nghị luận là một vấn đề mà chúng ta cần quan tâm.
Trong thực tế dạy học tôi thấy bài văn của học sinh mình chưa đáp ứng
được những yêu cầu của một văn bản trong nhà trường. Bài văn của các em vẫn
còn hiện tượng lạc đề, lệch đề do không chú ý đến việc tìm hiểu đề. Đoạn văn
trong bài thường sai quy cách. Bên cạnh đó là việc giữa các đoạn văn chưa có sự
liên kết.
1
Bên cạnh đó chương trình dạy học phần nghị luận ở lớp 7,8 còn nặng nề
về các khái niệm trìu tượng, yêu cầu, chú ý, ghi nhớ…làm cho các em thấy kiểu
bài này thật là xa lạ và rắc rối. Vậy làm thế nào để học sinh có thể viết được một
bài văn chứng minh đúng và hay? Câu hỏi đó luôn làm tôi trăn trở mỗi khi giảng
dạy kiểu bài nghị luận chứng minh. Để có được một bài văn chứng minh hoàn
chỉnh, học sinh được học lí thuyết và luyện từng kỹ năng với những thao tác cụ
thể. Qua những bài cụ thể ấy, các em sẽ hiểu rõ hơn mình cần phải làm gì, làm
như thế nào để đạt yêu cầu. Cái đích của các em vẫn là viết một bài văn nghị
luận chứng minh hoàn chỉnh. Tuy nhiên lên lớp 8 các em mới bắt đầu tiếp xúc
với kiến thức xây dựng đoạn văn. Việc vận dụng để thực hành cho các em có
được luyện kỹ năng viết đoạn văn chứng minh đủ, đúng và hay thì con đường đi
đến cái đích ấy không mấy khó khăn.
Từ những suy nghĩ trăn trở đó, tôi mạnh dạn trình bày một số kinh
nghiệm nhỏ của mình trong việc dạy kiểu bài nghị luận chứng minh với đề tài:
“Rèn luyện kỹ năng xây dựng đoạn văn nghị luận chứng minh cho học sinh
lớp 8”. Những mong có được đóng góp nhỏ trong việc đổi mới phương pháp
dạy – học Ngữ Văn nói chung và dạy văn nghị luận chứng minh nói riêng ở lớp
8 trường THCS .
2. Tên sáng kiến : Rèn luyện kỹ năng xây dựng đoạn văn nghị luận chứng
minh cho học sinh lớp 8.
3. Tác giả sáng kiến :
- Họ và tên: Trần Thị Thu Hương
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THCS Tích Sơn
Số điện thoại : 0913590025. Email :
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
Trần Thị Thu Hương
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Sáng kiến được áp dụng trong phân môn dạy tập làm văn THCS
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
Đây là sáng kiến lần đầu được sử dụng nhằm đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng dạy học tích cực và cũng đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng
phát triển của chương trình giáo dục hiện nay.
Thời gian bắt đầu thử nghiệm: Tháng 9 năm 2018 đến nay
7. Mô tả bản chất sáng kiến :
7.1. Về nội dung của sáng kiến.
7.1.1. Cơ sở để xây dựng sáng kiến
Trong những năm gần đây, việc dạy văn đã và đang trở thành một vấn đề
nóng bỏng ngày càng thu hút sự quan tâm của xã hội. Dư luận cho rằng: Đã có
2
nhiều giờ dạy văn khá thành công, người thầy dường như nhập thân vào bài
giảng và đã truyền được tình yêu văn chương đến học trò. Song cũng có không ít
giờ văn kém hấp dẫn và tâm huyết ở người thầy đã vơi cạn cho nên học trò chưa
thực sự thích thú. Tìm được hứng thú trong giờ dạy văn cho học sinh đã khó
nhưng việc rèn kỹ năng viết văn nghị luận cho học sinh lại càng khó hơn.
Trong chương trình Ngữ Văn Trung học cơ sở, bộ môn ngữ văn cung cấp
cho học sinh kiến thức và kỹ năng xây dựng các kiểu văn bản với những phương
thức biểu đạt như: Tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh và văn bản
hành chính công vụ. Với phương pháp tích hợp, ở từng khối lớp các em được
đọc – hiểu Văn bản trước mỗi bài, làm ngữ liệu để hình thành cách thức tạo lập
kiểu văn bản phù hợp. Các kiểu văn bản tự sự miêu tả và biểu cảm các em đã
được làm quen ở các lớp dưới (cấp Tiểu học), nhưng kiểu văn bản nghị luận thì
hoàn toàn mới do các em chưa được học. Lên học kì II lớp 7, các em bắt đầu
làm quen với kiểu văn bản này. Ở lớp 8 các em đã tiếp xúc dần với kiểu văn bản
nghị luận trong đó có các yếu tố miểu tả, tự sự, nghị luận. các em càng lớn lên
càng có khả năng nâng cao cấp độ nhận thức, hình thành và phát triển các năng
lực đánh giá, nhận xét một vấn đề trong đời sống xã hội và một vấn đề văn học
sau này (lớp 9).
Để làm bài nghị luận có kết quả tốt Văn nghị luận đòi hỏi các em phải có
kiến thức sâu rộng, có óc suy luận, phân tích tổng hợp. Ngay buổi ban đầu (lớp
7) tiếp xúc với kiểu văn bản này, các em đã hiểu được khái niệm phương pháp
làm bài Nghị luân thông qua nhiều hình thức học tập, đặc biệt là thực hành
những bài nghị luận đơn giản, lên các lớp trên các em mới có thể tạo lập được
một văn bản nghị luận đạt hiệu quả. Lớp 8 học sâu hơn khi các em biết xây dựng
đoạn văn hoàn chỉnh.
Có thể nói một cách khách quan, kiểu bài nghị luận nói chung và kiểu bài
nghị luận chứng minh nói riêng là mới và khó đối với học sinh THCS, nhất là
đối với học sinh lớp 7,8. Bên cạnh đó người giáo viên lại muốn học trò của mình
làm được những bài văn hay nhưng đó không phải là một việc dễ. Bởi để có một
bài văn hay trước hết phải biết xây dựng được đoạn văn, biết kết hợp một cách
chặt chẽ giữa các đoạn, phải viết đúng, (đúng theo nghĩa tương đối, nghĩa là
trong khuôn khổ nhà trường). Hay và đúng có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Bài văn hay trước hết phải viết theo đúng yêu cầu của đề bài, đúng những kiến
thức cơ bản, hình thức trình bày đúng quy cách … Muốn thế người viết không
chỉ phải chú ý đến nội dung mà hình thức cũng phải rõ ràng.
Qua nghiên cứu, tìm hiểu nắm được tình hình học tập của học sinh về
phần văn nghị luận chứng minh trong chương trình Ngữ văn 8, tôi đưa một số
biện pháp cụ thể sau:
3
7.1.2. Các giải pháp cụ thể
7.1.2.1: Hướng dẫn học sinh nắm chắc kiến thức lý thuyết:
Để học sinh hiểu và làm đúng yêu cầu của đề thì tôi hướng dẫn học sinh
lớp 8 học kiến thức cơ bản của kiểu bài, từ đó vận dụng lý thuyết đã học vào
thực hành, vận dụng viết đoạn văn chứng minh. Cụ thể kết hợp giữa học bài mới
và luyện tập.
Để viết được đoạn, bài văn nghị luận chứng minh có sức thuyết phục thì
giáo viên cần hướng cho học sinh nắm được các yêu cầu sau:
Dấu hiệu, qui ước khi viết đoạn văn: Đoạn văn là một phần của văn bản
được tính từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng đến chỗ chấm xuống hàng.
Luận điểm: Luận điểm trong bài văn nghị luận là những ý kiến, quan
điểm, tư tưởng mà người nói (người viết) nêu ra để khẳng định một luận đề.
Luận cứ: là lí lẽ và dẫn chứng làm cơ sở cho luận điểm. Luận cứ phải
chân thật, đúng đắn tiêu biểu thgif mới làm cho luận điểm có sức thuyết phục.
Lập luận: là cách nêu luận cứ để dẫn đến luận điểm. Lập luận phải chặt
chẽ, hợp lí thì bài văn mới có sức thuyết phục
Văn nghị luận chứng minh: là một phép lập luận dùng lí lẽ và dẫn
chứng chân thực, đã được thừa nhận để chứng tỏ luận điểm mới (cần được
chứng minh) là đáng tin cậy.
Các lí lẽ, dẫn chứng phải được lựa chọn, thẩm tra, phân tích, được sắp
xếp theo trình tự hợp lí thì mới có sức thuyết phục.
Các bước làm bài văn nghị luận chứng minh:
+ Tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn bài, viết bài và sửa chữa. Tùy theo từng
dạng đề bài mà xác định vấn đề chứng minh, xác lập hệ thống luận điểm, luận
cứ rõ ràng. Trong văn chứng minh thì các dẫn chứng là chủ yếu và không thể
thiếu
+ Viết được các đoạn văn mạch lạc, liên kết chặt chẽ các phần, các đoạn.
Qui trình xây dựng một đoạn văn chứng minh:
+ Xác định luận điểm cho đoạn văn chứng minh.
+ Chọn lựa cách triển khai (qui nạp hay diễn dịch).
+ Dự định số luận cứ triển khai:
+ Triển khai các đoạn văn thành bài văn.
+ Chú ý liên kết về nội dung và hình thức.
7.1.2.2. Hướng dẫn học sinh vận dụng lý thuyết vào viết đoạn văn.
* Luyện viết đoạn mở bài.
Trước khi học kiểu bài nghị luận chứng minh, học sinh đã được học, được
làm bài tập làm văn hoàn chỉnh như kiểu bài tự sự, miêu tả, biểu cảm. Đến kiểu
bài chứng minh, cách viết có nhiều điểm khác và viết mở bài cũng có những yêu
cầu khác phù hợp với kiểu bài nghị luận chứng minh. Vì vậy, việc rèn kỹ năng
4
viết đoạn văn mở bài là điều cần thiết và sẽ là điều kiện thuận lợi cho học sinh
làm các kiểu bài nghị luận sau này (giải thích, phân tích, nghị luận tổng hợp...).
Yêu cầu:
Mở bài phải giới thiệu cho người đọc thấy rõ vấn đề sẽ chứng minh trong
bài. Mở bài nên gọn, tự nhiên, phù hợp với bài viết, gây được tâm thế cho cả
người viết và người đọc.
Bài “Cách làm bài văn nghị luận chứng minh” (Sách giáo khoa Ngữ
văn 7) có hướng dẫn ba cách mở bài sau đây:
+ Đi thẳng vào vấn đề.
+ Suy từ cái chung đến cái riêng.
+ Suy từ tâm lý con người.
Trong thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy các em được làm quen với ba cách
mở bài trên, nhưng khi cho đề bài khác, các em rất vất vả, khó khăn khi thực
hiện yêu cầu đầu tiên đó là viết mở bài. Các em không biết bắt đầu như thế nào?
Viết cái gì? Viết ra sao?...
Sau khi các em làm quen với những cách mở bài trên, tôi đưa ra các đoạn
văn mở bài sai để học sinh nhận ra lỗi sai. Từ đó, học sinh có thể hiểu được yêu
cầu của đoạn văn mở bài và viết đúng.
Bài tập : Có hai đoạn mở bài cho đề chứng minh:
“Ca dao là tiếng hát về tình cảm gia đình đằm thắm và ngọt ngào.”
a) Trong gia đình Việt Nam có những tình cảm ngọt ngào và đằm thắm.
Thứ tình cảm ngọt ngào, đằm thắm thiêng liêng ấy mà hầu như ai trong mỗi con
người chúng ta đều có là tình cảm gia đình. Chính vì vậy, ta có thể khẳng định
rằng: Ca dao là tiếng hát về tình cảm gia đình đằm thắm và ngọt ngào.
b) Chúng ta được lớn lên trong tình yêu thương của gia đình. Trong lời ru
của bà, của mẹ. Lòng nhân ái của cha. Những tình cảm đó được dân gian gửi
gắm vào ca dao.
Hãy nêu nhận xét của em về những mở bài đó.
Hướng dẫn:
a. Nêu được vấn đề chứng minh nhưng cách diễn đạt chưa đạt yêu cầu.
Câu (1), (2) diễn đạt còn vụng, luẩn quẩn, không thoát ý, lặp từ "ngọt
ngào đằm thắm".
Câu (1), (2) chưa nói gì đến ca dao, vậy mà câu (3) đã khẳng định: "Ca
dao là...".
b. Nêu vấn đề chứng minh song lại cụ thể, chi tiết, chưa có sức khái quát
vấn đề. Sai ngữ pháp ở câu (2), (3).
* Giáo viên cho học sinh tham khảo các mở bài sau:
5
Cách 1: Để ca ngợi tình cảm của người lao động xưa, ca dao có nhiều bài
nghe tha thiết và cảm động. Lời ca ngọt ngào và đằm thắm biết bao khi ngợi ca
tình cảm gia đình.
Cách 2: Ca dao là cây đàn muôn điệu, là tiếng nói đời sống tình cảm tâm
hồn đất Việt xưa. Những lời ca ấy diễn tả thật chân thành và xúc động về tình
cảm của con người. Và tiếng hát về tình cảm gia đình trong ca dao ngọt ngào và
đằm thắm biết bao.
Cách 3: Tình cảm gia đình là tình cảm thiêng liêng trong trái tim mỗi
chúng ta, là cơ sở để giáo dục nhân cách con người. Cha ông ta rất coi trọng tình
cảm con người và để lại những lời ca thật ngọt ngào đằm thắm ngợi ca tình cảm
thiêng liêng ấy.
Có nhiều cách mở bài:
* Mở bài trực tiếp: Đi thẳng vào vấn đề chứng minh, đề bài yêu cầu
chứng minh vấn đề gì thì viết luôn vấn đề đó. Cách này ngắn gọn, đúng vấn đề
nhưng dễ khô khan.
* Mở bài gián tiếp:
Không đi thẳng vào vấn đề chứng minh mà dẫn dắt vấn đề bằng nhiều
cách:
+ Nêu xuất xứ của vấn đề chứng minh, đưa ra một so sánh, một câu tục
ngữ, ca dao, một câu nói hoặc trích dẫn thơ... (có nội dung tương đương).
+ Nêu lý do đưa đến bài viết (vấn đề chứng minh có cần thiết, có thiết
thực với đời sống không?...)
Sau phần dẫn dắt là phần:
+ Nêu vấn đề chứng minh.
+ Phạm vi chứng minh.
+ Trích dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp vấn đề chứng minh đã nêu ở đề bài.
Để có thể viết đúng, theo hướng dẫn của giáo viên, học sinh có thể thực
hiện được yêu cầu. Song từ chỗ đạt yêu cầu ấy, học sinh cần vươn tới cái đích là
viết hay. Vì vậy, giáo viên cần đưa ra các bài tập luyện diễn đạt - lựa chọn cách
diễn đạt hay để phần mở bài đúng với vai trò của nó là làm cho người đọc có
được ấn tượng ban đầu về bài viết, tạo âm hưởng chung cho toàn bài.
* Luyện viết phần thân bài:
Thân bài là phần trọng tâm có nhiệm vụ:
+ Phát triển những ý chính đã nêu ở phần mở bài.
Dùng lý lẽ và dẫn chứng (luận cứ) làm sáng rõ vấn đề nêu ở phần mở bài.
Thân bài gồm nhiều đoạn văn:
+ Mỗi đoạn văn chứng minh diễn đạt một ý cơ bản (luận điểm), ý này
thường đặt ở đầu đoạn văn hoặc cuối đoạn văn. Nội dung các câu trong đoạn cần
6
hướng vào nội dung của câu chủ đề (ý cơ bản - luận điểm) và có nhiệm vụ làm
sáng rõ luận điểm ở câu chủ đề đó.
+ Trong đoạn văn chứng minh cần đảm bảo sự thống nhất giữa ý cơ bản
của toàn đoạn và dẫn chứng, giữa dẫn chứng và lời văn phân tích.
Việc sử dụng dẫn chứng không theo nguyên tắc bình quân mà ý nào quan
trọng thì đưa dẫn chứng nhiều, ý nào không quan trọng thì dùng dẫn chứng ít.
Có nhiều cách đưa dẫn chứng:
+ Dẫn trực tiếp: Dẫn nguyên văn một câu, một đoạn... chính xác như
nguyên bản (khi sử dụng phải đặt trong dấu ngoặc kép và có chú thích khi cần).
+ Dẫn gián tiếp: Chỉ cần đại ý, đảm bảo đúng ý, không cần chính xác câu
chữ như nguyên tác (khi phải tóm tắt câu chuyện, tóm tắt nhiều hành động, lời
phát biểu hoặc một đoạn văn mà mình không thuộc...).
+ Có thể đưa dẫn chứng liệt kê (khi ý đã rõ ràng, hiển nhiên hoặc không
cần chi tiết hoặc dùng dẫn chứng sau soi sáng cho dẫn chứng trước...).
+ Có thể đưa dẫn chứng kèm theo phân tích thuyết minh.
Bài tập : Hãy nhận xét cách đưa dẫn chứng ở hai đoạn văn sau:
1. “Tiếng Việt trong cấu tạo của nó là một thứ tiếng khá đẹp. Nét đẹp ấy
được tác giả Đặng Thai Mai khẳng định: Tiếng Việt là thứ tiếng giàu chất nhạc.
Điều đó, khiến chúng ta nhớ đến các bài thơ, những áng văn sinh động, đa
thanh, giàu chất nhạc trong kho tàng văn học Việt Nam. Ta hãy lắng nghe đoạn
thơ sau:
"Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh
Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng".
Nhạc tính của Tiếng Việt đã tấu lên ở âm sắc, những thanh điệu, cú pháp
đẹp đẽ, uyển chuyển, sinh động biết bao trong đoạn thơ ấy.”
Đưa dẫn chứng trực tiếp.
2. Trong cổ tích, bao giờ cái thiện cũng thắng cái ác. Cô Tấm sau bao lần
chết đi sống lại rồi vẫn được làm hoàng hậu. Thạch Sanh qua bao lần oan khổ đã
được làm vua. Chàng Sọ Dừa cuối cùng đoàn tụ hạnh phúc cùng cô Út dịu
hiền...
(Bài làm của học sinh)
Đưa dẫn chứng gián tiếp.
7
* Luyện tập đưa và phân tích dẫn chứng
Việc sắp xếp dẫn chứng rất quan trọng trong văn chứng minh. Đưa dẫn
chứng nào trước, để dẫn chứng nào sau là một kỹ năng để bài viết mạch lạc,
khoa học và nhiều khi còn thể hiện sắc thái tình cảm.
Bài tập : So sánh hai đoạn văn
1. Tiếng hát ngợi ca tình cảm vợ chồng trong ca dao cũng ngọt ngào, tha
thiết biết bao. Cuộc sống cơ cực, bần hàn đến nỗi họ phải dùng những thứ mà
người khác bỏ đi, thế mà bằng cử chỉ âu yếm, chăm sóc cho nhau, những thứ đó
trong bữa cơm đạm bạc của họ trở nên tuyệt ngon với niềm vui hạnh phúc:
“Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.”
Dù trong nghèo túng họ vẫn thương yêu, thuỷ chung với nhau:
“Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người.”
Đó là sự thuỷ chung, son sắt, chia sẻ vất vả trong lao động cực nhọc, kiếm
sống gian nan, nhưng họ vẫn hát lên tiếng ca đầy ân nghĩa:
“Rủ nhau lên núi đốt than
Chồng mang đòn gánh vợ mang quang giành
Củi than nhem nhuốc với tình
Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên.”
2. Tiếng hát ngợi ca tình cảm vợ chồng trong ca dao cũng tha thiết ngọt
ngào biết bao. Đó là sự thuỷ chung chia sẻ vất vả trong lao động cực nhọc kiếm
sống gian nan nhưng họ vẫn hát lên tiếng ca ân nghĩa:
“Rủ nhau lên núi đốt than
Chồng mang đòn gánh vợ mang quang giành
Củi than nhem nhuốc với tình
Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên.”
Và dù trong nghèo túng, họ vẫn yêu thương thuỷ chung với nhau:
“Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người.”
Cuộc sống cơ cực, bần hàn đến nỗi họ phải dùng những thứ mà người ta
bỏ đi, bằng cử chỉ âu yếm, chăm sóc cho nhau, những thứ đó trong bữa cơm trở
nên tuyệt ngon với niềm vui hạnh phúc:
“Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.”
Hướng dẫn:
Đoạn 1: Dẫn chứng sắp xếp như vậy sẽ có cảm giác trình bày lộn xộn, làm
nhạt đi cảm xúc của người viết.
8
Đoạn 2: Dẫn chứng được sắp xếp theo thứ tự tăng dần (tình cảm vợ chồng
thuỷ chung, ấm áp trong lao động cực nhọc - nghèo túng - bần hàn cơ cực).
* Luyện tập cách diễn đạt, trình bày.
Giáo viên chỉ rõ cho học sinh thấy: nếu không có đoạn phân tích thì
người đọc không thể hiểu được tại sao người viết lại dùng dẫn chứng này cho
lập luận ấy. Để viết hay, hấp dẫn, người viết phải biết trình bày linh hoạt giữa
hai yếu tố: dẫn chứng và phân tích.
Bài tập : Giáo viên đưa ra tình huống - Học sinh thảo luận
Có người nói: "Làm văn chứng minh cũng dễ thôi, chỉ cần nêu luận điểm
và dẫn chứng là xong". Ví dụ sau khi nêu luận điểm "Tiếng Việt ta giàu đẹp", chỉ
cần dẫn ra câu ca dao :
Trong đầm gì đẹp bằng sen.
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng...
Theo em, nói như vậy có đúng không? Để làm được văn chứng minh,
ngoài luận điểm và dẫn chứng, còn cần phải có thể điều gì? Có cần chú ý tới
chất lượng của luận điểm và dẫn chứng không? Chúng cần phải như thế nào thì
đạt yêu cầu?
Hướng dẫn:
Giáo viên lưu ý cho học sinh thấy là qua câu trả lời, người nói tỏ ra không
hiểu về cách làm văn lập luận chứng minh. Chứng minh trong văn nghị luận đòi
hỏi phải phân tích, diễn giải sao cho dẫn chứng "nói lên" điều mình muốn chứng
minh. Điều cần lưu ý nữa là dẫn chứng phải tiêu biểu. Câu ca dao trên làm theo
thể lục bát, tiêu biểu cho Tiếng việt đẹp về thanh điệu, vần nhịp nhưng phải diễn
giải thì điều cần chứng minh ở đó mới có sức thuyết phục.
* Luyện tập liên kết đoạn: Đoạn văn không tồn tại độc lập, riêng biệt mà là
một bộ phận của bài văn, khi viết đoạn, phải xác định xem đoạn văn ấy nằm ở vị
trí nào của bài văn, có thế mới tạo được sự liên kết, liền mạch của bài viết.
Bài tập 1: Tìm hiểu cách liên kết đoạn của hai đoạn văn trong văn bản "Tinh
thần yêu nước của nhân dân ta".
“Lịch sử ta đã có những cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu
nước của nhân dân ta. Chúng ta có quyền tự hào vì những trang sử vẻ vang thời
đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... Chúng ta phải
ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một
dân tộc anh hùng. Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày
trước. Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở
nước ngoài đến những đồng bào ở vùng tạm bị chiếm, từ nhân dân miền ngược
đến miền xuôi, ai cùng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc..."
Hướng dẫn:
9
Hai đoạn văn cùng hướng về nội dung: Tinh thần yêu nước của nhân dân ta.
+ Đoạn 1: Tinh thần yêu nước của nhân dân trong quá khứ.
+ Đoạn 2: Tinh thần yêu nước của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Hai đoạn văn liên kết liền mạch không chỉ bằng nôi dung của các câu văn
mà tác giả còn sử dụng câu chuyển ý rất tự nhiên: "Đồng bào ta ngày nay cũng rất
xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước". Không chỉ có tác dụng liên kết mà còn diễn tả
được lịch sử dân tộc anh hùng mang truyền thống yêu nước từ ngàn xưa được nối
tiếp trong dòng chảy của thời gian, trong mạch nguồn sức sống của dân tộc.
Có nhiều cách liên kết đoạn (liên kết nội dung, liên kết hình thức...)
+ Các câu viết trên là liên kết nội dung.
+ Có thể dùng những quan hệ từ, những phụ từ để liên kết.
Bài tập 2: Hãy viết hai đoạn văn chứng minh trình bày hai ý sau:
1. Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có.
2. Văn chương luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có.
Ngoài những kỹ năng viết đoạn văn đã được rèn luyện nhiều, bài tập này
chú ý kỹ năng liên kết đoạn. Với hai đoạn văn này, học sinh có thể dùng những
câu liên kết đoạn như sau:
+ Văn chương không những gây ra cho ta những tình cảm mà ta không có
mà còn luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có.
+ Không chỉ đem đến cho ta những tình cảm ta không có mà văn chương
còn làm cho những tình cảm ta sẵn có trở nên sâu sắc và thiết tha hơn
* Luyện viết đoạn kết bài.
Trong thực tế, tôi nhận thấy học sinh rất ít chú ý đến đoạn kết bài, chỉ tóm
lược nội dung của bài hay liên hệ đôi câu công thức là xong. Đó là một thói
quen xấu, làm ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng bài viết. Vì thế, giáo viên cũng
cần dành thời gian thích đáng để học sinh được luyện viết đoạn văn kết bài.
* Kết bài phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
+ Phần kết bài phải thể hiện đúng quan điểm đã trình bày ở phần trên.
+ Kết bài nêu ra ý kiến khái quát, tổng hợp, đánh giá vấn đề đã trình bày.
* Có 4 cách kết bài:
+ Tóm tắt nội dung đã nêu ở thân bài.
+ Phát triển: Mở rộng thêm vấn đề đặt ra trong đề bài.
+ Vận dụng: Nêu phương hướng, bài học áp dụng hay phát huy, khắc
phục vấn đề nêu trong bài.
+ Liên tưởng: Mượn ý kiến tương tự, những ý có giá trị để thay thế cho
lời tóm tắt của người làm bài.
Yêu cầu của kết bài cũng giống như mở bài, không chỉ đúng mà còn phải
hay. Muốn làm được điều đó, giáo viên phải luyện cho các em viết, phải cho các
10
em ý thức được rằng nếu chưa có một kết bài ưng ý thì chưa bằng lòng vì bài
viết chưa hoàn chỉnh.
Trong bài ‘‘Cách làm bài văn nghị luận chứng minh’’ có hướng dẫn viết
đoạn kết bài tôi đưa ra một số bài tập như sau:
Bài tập 1: Nêu nhận xét của em về các đoạn kết bài của đề bài: Chứng minh "Ca
dao là tiếng hát về tình cảm gia đình đằm thắm và ngọt ngào".
Kết bài 1: Những tình cảm trên chứng tỏ một tình cảm gia đình đằm thắm
và ngọt ngào, thể hiện bằng những câu ca dao.
Kết bài 2: Tình cảm gia đình gắn bó ngọt ngào, đằm thắm được thể hiện
rõ trong ca dao như những lời ca ngọt ngào, đằm thắm nhất. Thể hiện trong cuộc
sống hàng ngày những tình cảm trong sáng.
Hướng dẫn: Cả 2 kết bài đều chưa đạt yêu cầu, chưa gây được tình cảm
ấn tượng, tạo dư âm cho người đọc về bài viết.
Kết bài 1: Nhắc lại nội dung của vấn đề chứng minh - diễn đạt vụng về.
Kết bài 2: - Lỗi lặp từ, diễn đạt không thoát ý.
Bài tập 2: Hãy viết ít nhất hai kết bài cho đề bài sau:
Chứng minh rằng nhân dân Việt Nam từ xưa đến nay luôn sống theo đạo
lý "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây".
Sau khi đã được giáo viên hướng dẫn, học sinh viết được những đoạn kết
bài như sau:
1. Lòng biết ơn "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" - là phẩm chất đạo đức vô
cùng cao quý và cần có trong mỗi con người. Nó sẽ trở nên sâu sắc, ý nghĩa khi
được thể hiện bằng những việc làm, hành động cụ thể. Ai cũng có lòng biết ơn,
có lối sống ân nghĩa, thuỷ chung thì mọi người luôn sống gần nhau hơn, xã hội
sẽ là một gia đình chung ấm áp biết bao!
(Nguyễn Phương Anh – 8E)
2. Bằng hình ảnh ẩn dụ giản dị, mộc mạc, câu tục ngữ cho ta bài học luân
lý sâu sắc. Nó nhắc nhở chúng ta về đạo làm con, đạo thầy trò, nghĩa vụ của
người công dân đối với Tổ quốc. Lòng biết ơn phải được khắc sâu vào tâm hồn
mỗi chúng ta, phải được gìn giữ bền vững mãi mãi cùng với thời gian.
( Hoàng Khánh Chi - 8E)
Có thể nói rằng để viết được một bài văn đúng và hay là rất khó, bởi ngoài
việc có kiến thức vững vàng nó còn đòi hỏi người viết phải vận dụng nhiều kĩ
năng khác nhau. Nhìn chung các kĩ năng đó các em đã được học nhưng do đặc
điểm lứa tuổi, cũng như thời gian thực hành còn hạn chế nên người giáo viên
phải có biện pháp giúp các em thành thạo những kĩ năng đó mới mong các em
vận dụng tốt được.
7.2 Về khả năng áp dụng của sáng kiến
11
Khi áp dụng các giải pháp, biện pháp trên để hướng dẫn học sinh lớp 8 biết
cách làm bài văn nghị luận chứng minh, năm học 2018 – 2019 tôi thấy học sinh
có hứng thú học tập và tiến bộ ró rệt. Quan trọng hơn là học sinh đã biết viết
được bài văn nghị luận chứng minh đúng và hay.
Chất lượng học tập của học sinh được nâng lên rất nhiều. Và trong năm
học này điều đáng chú ý là một số em trước đây không viết được một đoạn văn
hoàn chỉnh thì bây giờ cũng dễ dàng viết được đoạn, bài văn đạt yêu cầu.
Đề tài này tôi đã nghiên cứu và thực hiện tương đối thành công ở trường
THCS Tích Sơn. Tôi nghĩ có thể áp dụng được ở một số trường THCS trong
thành phố Vĩnh Yên.
8. Những thông tin bảo mật (nếu có): không
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
Học sinh nắm được những bước cơ bản của của đoạn văn để viết tốt bài văn.
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng
sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử:
Khi học sinh có kiến thức và kỹ năng tạo lập văn bản, các em sẽ có được sự
tư duy logic trong nói, viết. Các vấn đề về xã hội sẽ được các em trình bày một cách
ngắn gọn rõ ràng và có tính thuyết phục cao đối với người đọc, người nghe.
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Nắm được cách diễn đạt, và nắm được các bước viết đoạn văn thuyết
minh, các em sẽ biết vận dụng, liên hệ thực tế để làm tốt một bài văn nghị luận
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
Thực tế qua bài viết số 6 văn nghị luận có yếu tố biểu cảm lớp 8E (2018 2019) cho thấy các em nói chung đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể là:
Kết quả
Kết quả khi chưa áp dụng:
Tổng
số
Giỏi
Khá
SL
%
SL
40
0
0
06
%
Trung bình
SL
%
Yếu-kém
SL
%
15
20
14
50
35
Kết quả khi áp dụng:
Tổng
số
Giỏi
Khá
SL
%
SL
%
Trung bình
SL
%
40
2
0.5
8
20
24
12
60
Yếu
SL
%
6
15
Sau một thời gian giảng dạy lớp 8E trường THCS Tích Sơn tôi đã kịp thời
tìm ra nguyên nhân vì sao bài làm văn nghị luận của các em chưa đạt kết quả
chưa cao. Tôi nhanh chóng tìm ra giải pháp của bản thân cá nhân tôi mong rằng
chất lượng bài làm của các em từng bước nâng cao dần lên. Học sinh đã có bước
chuyển biến đáng kể cụ thể giảm tối đa hoc sinh yếu kém.
Trên đây là những định hướng của bản thân về phương pháp dạy học phân
môn Tập làm văn thể loại văn nghị luận chứng minh được rút ra trong quá trình
giảng dạy. Tuy nhiên việc vận dụng phương pháp dạy học có hiệu quả hay
không còn tùy thuộc vào khả năng của mỗi giáo viên, đối tượng học sinh ở từng
địa phương. Vì thế trong quá trình dạy học, mỗi giáo viên cần linh hoạt trong
việc thiết kế bài giảng, linh hoạt sử dụng phương pháp và các hình thức tổ chức
dạy học, phát huy tối đa khả năng tìm tòi sáng tạo của học sinh trong giờ học,
chắc chắn chúng ta sẽ có được những thành công.
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân tham gia áp dụng thử, hoặc áp dụng sáng
kiến lần đầu(nếu có):
Số Tên tổ chức/cá
TT
nhân
1
Lớp 8E
Địa chỉ
Phạm vi/Lĩnh vực
áp dụng sáng kiến
Trường THCS Tích Sơn Áp dụng trong chương trình học
chính khóa
Tích Sơn, ngày…..tháng…..năm 2019
Tích Sơn, ngày 25 tháng 4 .năm 2019
Thủ trưởng đơn vị
Tác giả sáng kiến
Trần Thị Thu Hương
13
2. Cơ sở thực tiễn
Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 8E trường THCS Tích Sơn Thành
phố Vĩnh Yên năm học: 2018 – 2019.
3. Thực trạng của vấn đề:
Trong các phân môn của bộ môn Ngữ văn, Tập làm văn có vị trí đặc biệt
trong quá trình học tập và thi cử. Dạy đọc – hiểu văn bản và tiếng Việt là khó,
dạy Tập làm văn cũng có những cái khó riêng. Bởi vì, hơn bất cứ phân môn nào,
ở đây giáo viên phải đặc biệt coi trọng chủ thể trò, giữ đúng vai trò người hướng
dẫn, điều chỉnh để hoạt động tư duy và kỹ năng thực hành của học sinh đi đúng
hướng nhằm tiến tới viết (hoặc nói) được văn bản quy định trong chương trình.
Để đảm bảo hiệu quả dạy học giáo viên có nhiều hình thức tổ chức hoạt
động cho học sinh và có không ít những biện pháp thúc đẩy hoạt động tích cực
của học sinh. Kết hợp giữa hướng dẫn ôn tập lý thuyết và luyện tập. Từ đó học
sinh rút ra phương pháp làm bài tập làm văn, dùng bài tập để luyện kỹ năng cụ
thể.
Để có thể làm được một bài văn hoàn chỉnh, học sinh cần luyện cách tìm
hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý, viết bài, trong đó kỹ năng viết bài là cơ bản nhất. Bởi
một bài văn nghị luận chứng minh gồm nhiều đoạn văn, những đoạn văn ấy
cùng hướng vào làm sáng tỏ vấn đề cần chứng minh.
Chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 8 đã thể hiện được yêu cầu tích hợp
ba phân môn Văn - Tiếng việt - Tập làm văn, tuy nhiên vẫn phải luôn tạo điều
kiện cho việc đảm bảo yêu cầu riêng có tính chất tương đối độc lập của mỗi
phân môn. Kiểu bài nghị luận chứng minh là một kiểu bài khó so với văn nghị
luận nói riêng và phân môn Tập làm văn nói chung. Kiểu bài này đòi hỏi học
sinh phải có năng lực phân tích, đánh giá từ khái quát đến cụ thể, có sự hiểu biết
về Xã hội, về Văn học, về Lịch sử... và đặc biệt là kĩ năng trình bày. Vì vậy
trong chương trình Ngữ văn 8 dành nhiều tiết học chính khóa để các em học
cách xây dựng Đoạn văn, bài văn có sử dụng các phép liên kết. Đoạn văn, bài
văn Nghị luận có yếu tố tự sự, có yếu tố Miêu tả, biểu cảm. Phần văn học có
nhiều văn bản nghị luận cổ như: Chiếu dời đô, Hịch Tướng sỹ, nước Đại Việt
14
ta, bàn về phép học. Nhiều văn bản văn học nước ngoại cũng được tìm hiểu
trong chương trình càng làm cho nhận thức về văn bản nghị luận của các em
được hoàn thiện hơn.
Nhìn vào chương trình và quá trình thực dạy, tôi nhận thấy chương trình
có hướng đổi mới đó là chú ý đến kỹ năng thực hành, luyện kỹ năng cho học
sinh để có thể viết được một bài văn chứng minh.
Trong thực tế, kỹ năng viết đoạn văn của học sinh còn rất yếu, nhất là văn
nghị luận chứng minh đối với các em học sinh lớp 8 - vốn đã quen với những
đoạn văn tự sự, miêu tả, biểu cảm. Vì vậy số đông học sinh rất ngại học, không
hứng thú học bởi đặc trưng môn khó, khô và trừu tượng. Hơn nữa phân môn này
đòi hỏi học sinh phải vận dụng ở mức độ cao để tạo lập văn bản. Nếu không
nắm chắc lý thuyết cơ bản, không có vốn hiểu biết thực tế sâu sắc, không được
rèn luyện kĩ năng viết đoạn, viết bài thường xuyên học sinh dễ sinh ra tâm lý
lười học, lười suy nghĩ. Cũng vì thế mà học sinh ỷ lại vào sách tham khảo, sách
bài văn mẫu rất nhiều. Trong giờ dạy, giáo viên yêu cầu viết đoạn văn là các em
rất ngại thậm chí ngại hơn viết cả bài. Vì viết cả bài không được ý nọ còn được
ý kia, còn nếu viết đoạn mà không biết cách viết sẽ không thành một đoạn văn
chứng minh theo yêu cầu.
4. Nguyên nhân:
4.1. Đối với người dạy: Đa số giáo viên đều có tình yêu nghề, tận tụy
với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh. Tuy nhiên, vẫn còn
những mặt hạn chế sau :
- Chỉ giúp các em nắm bắt được những nội dung cơ bản trong sách giáo
khoa.
- Trong quá trình dạy chỉ dạy tập làm văn ở những tiết học về tập làm văn.
- Chưa tận dụng được thời gian ở các phân môn khác để tích hợp với phần
tập làm văn. Đặc biệt chưa chú trọng luyện tập và ra bài tập về nhà cho các em
để từ đó hình thành kĩ năng viết đoạn văn và làm bài.
- Một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được
mạch nguồn cảm xúc ẩn sau mỗi trái tim người học.
4.2. Đối với học sinh:
- Một số học sinh vì lười học, chán học mải chơi, hổng kiến thức nên
không chuẩn bị tốt tâm thế cho giờ học Ngữ văn.
- Nhiều học sinh chưa chú ý đến việc học, ý thức chưa cao, về nhà không
làm bài nên khi làm bài thường vụng về, lúng túng … khi viết văn.
- Trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều, một số em còn lười
học và chưa nắm chắc kiến thức cơ bản, phương pháp học bộ môn chưa khoa
học.
15
- Kĩ năng viết đoạn văn chưa tốt, khả năng tư duy sáng tạo còn yếu.
- Học sinh còn nhầm lẫn các phương thức đặc trưng của kiểu bài nghị
luận.
- Một số phụ huynh đi làm ăn xa, ít có thời gian quan tâm kèm cặp con em
mình. Gia đình chưa đôn đốc và kèm cặp các em sát sao. Bản thân các em còn
chưa ý thức được việc học của mình.
- Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí
như xem ti vi, chơi game . . . ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức
học bị lôi cuốn, sao nhãng việc học tập.
Với những khó khăn như vậy, mỗi giáo viên dạy Ngữ văn phải tìm biện
pháp giúp học sinh nắm được kỹ năng hình thành đoạn văn từ đó làm tốt bài tập
làm văn.
KẾT LUẬN
1.
Kết luận:
16
Văn chứng minh là kiểu bài rất quan trọng của văn nghị luận. Vậy làm thế
nào để học sinh có thể làm tốt bài văn nghị luận? Làm thế nào để học sinh diễn
đạt mạch lạc, rõ ràng một vấn đề? Điều đó có thể thực hiện được khi giáo viên
biết kết hợp giữa dạy lý thuyết và rèn kỹ năng viết văn chứng minh đúng, hay,
có sức thuyết phục. Hướng dẫn học sinh biết cách làm văn nghị luận chứng
minh không phải là một nội dung hoàn toàn mới trong chương trình Ngữ Văn
THCS. Tuy nhiên để học sinh có được kĩ năng viết văn chứng minh đúng, hay
thì cần có sự hướng dẫn tỉ mỉ, tận tình, kĩ càng của giáo viên bộ môn. Người
thầy phải trang bị cho học sinh kiến thức cơ bản của dạng bài; xác định trọng
tâm cần truyền đạt; kết hợp sự phân tích, tạo tình huống hứng thú, từ đó khích lệ
được các em chủ động tìm tòi, suy nghĩ và viết bài. Người thầy cần có kế hoạch
xây dựng chương trình, cụ thể từ dễ đến khó, khắc sâu kiến thức thành một hệ
thống, để học sinh tự ý sáng tạo khi viết bài, tránh áp đặt cho học sinh.
Văn nghị luận vốn khô khan, dễ gây chán nản cho học sinh nên người giáo
viên phải tạo được cho học sinh sự thoải mái trong tiết học, không nên gò bó, áp
đặt học sinh theo sự sắp đặt của mình, mà nên để học sinh tự phát hiện, tự nêu
những suy nghĩ của mình. Giáo viên phải định hướng được kiến thức để học
sinh không sai lạc vào các vấn đề khác
Bên cạnh đó giáo viên khai thác tối đa việc tự học của học sinh, khuyến
khích các em tìm tòi thêm các kiến thức văn học bên ngoài chương trình học các
đề ở sách nâng cao để các em có được kho tri thức làm văn nghị luận đạt hiệu
quả. Học tốt văn nghị luận sẽ giúp học sinh dễ dàng trong việc tiếp thu các kiểu
bài ở những lớp trên.
2. Đề xuất, kiến nghị:
Với nhà trường, các cấp quản lí giáo dục:
+ Tạo điều kiện cho giáo viên được giao lưu học hỏi kinh nghiệm các đơn
vị trong thành phố, tỉnh về phương pháp dạy học môn Ngữ Văn.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã rút ra khi hướng dẫn học
sinh lớp 8 học chuyên đề văn nghị luận chứng minh và luyện tập viết đoạn văn
chứng minh. Trong quá trình trình bày bài viết, khó tránh khỏi những khiếm
khuyết, tôi mong muốn nhận được sự góp ý chân thành của các bạn đồng nghiệp
để đề tài của tôi được hoàn chỉnh hơn.
Tích Sơn, ngày tháng
năm 2019
Người thực hiện:
Trần Thị Thu Hương
TÀI LIỆU THAM KHẢO
17
Tài liệu của hội thảo khoa học “ Đổi mới phương pháp dạy học môn Văn Tiếng Việt, góp phần nâng cao chất lượng giáo viên THCS”.
Sách giáo khoa Ngữ văn 6.
Sách giáo khoa Ngữ văn 7.
Sách giáo khoa Ngữ văn 8.
Sách giáo viên Ngữ văn 7.
Sách giáo viên Ngữ văn 8.
Tài liệu hướng dẫn chương trình Ngữ văn 7.
Tài liệu hướng dẫn chương trình Ngữ văn 8.
Một số bài viết của học sinh.
18