Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

SKKN một số KINH NGHIỆM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG tác CHỦ NHIỆM TRONG mô HÌNH TRƯỜNG TIỂU học mới VNEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.53 KB, 17 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1.Lời giới thiệu
Mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện,
có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm
chất và năng lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đất nước. Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở
ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ
và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở và các cấp học trên.
Song với lứa tuổi tiểu học - học sinh như một tờ giấy trắng dễ vẽ nên một bức tranh
đẹp nhưng cũng dễ bị vấy bẩn. Chính vì thế, là một giáo viên dạy tiểu học công
việc không đơn giản chút nào. Chúng ta không đơn thuần chỉ là dạy học, truyền đạt
kiến thức từ sách vở đến học sinh mà chúng ta phải giáo dục, uốn nắn đạo đức, rèn
cho các em từng hành vi đạo đức đơn giản nhất, để từ đó giúp các em hình thành
một nhân cách, phẩm chất tốt đẹp.
Mô hình dạy học VNEN hiện nay đã và đang áp dụng ở một số tỉnh thành
trên cả nước . Mô hình Trường học mới tại Việt Nam được triển khai là một bước
đột phá trong việc đổi mới, cải cách giáo dục, hy vọng mở ra cho nền giáo dục
Việt Nam một lối đi đúng hướng để cùng hòa nhập với nền giáo dục tiên tiến, hiện
đại trên thế giới, đáp ứng với sự phát triển chung của xã hội, là một nỗ lực trong
việc hình thành thế hệ trẻ Việt Nam là những công dân toàn cầu. Có thể nói, mô
hình này đã trở thành yêu cầu cấp thiết của toàn xã hội, đòi hỏi sự chung tay của
các cấp, các ngành. Trường tôi đã áp dụng Mô hình trường học mới đối với khối 2
năm học 2016 – 2017 và khối 2; 3 năm học 2017 – 2018 đã gặt hái được nhiều
thành tích đáng ghi nhận. Đối với bản thân tôi cũng tham gia thực hiện dạy học
theo mô hình này gần 3 năm nên đã dần quen với việc đổi mới phương pháp dạy
học, tổ chức lớp học theo tinh thần VNEN.
Điểm nổi bật của mô hình VNEN là đổi mới về các hoạt động sư phạm, một
trong những hoạt động đó là đổi mới về cách thức tổ chức lớp học. Để thực hiện
mô hình trường học mới, người giáo viên phải mạnh dạn từ bỏ những thói quen cũ
trong cách tư duy, giảng dạy, đổi mới cách quan niệm về dạy và học, tất cả vì


quyền lợi của người học. Giáo viên cần có các kĩ năng tổ chức, quản lí lớp học, giờ
học theo hướng tích cực. Các kĩ thuật dạy học hợp tác theo nhóm, kĩ thuật sơ đồ tư
duy, kĩ năng lắng nghe và phản hồi tích cực, kĩ thuật đặt câu hỏi..... thường sử dụng
trong các giờ dạy. Người giáo viên cần có kĩ năng tuyên truyền, vận động cha mẹ
học sinh, cộng đồng dân cư, các cấp các ngành, các tổchức xã hội nhiệt tình tham
gia cùng nhà trường trong quá trình giáo dục.
Qua thời gian thực hiện dạy học theo Mô hình trường học mới, tôi nhận
thấy để công tác dạy học theo hướng đổi mới thành công thì vai trò của người giáo
viên chủ nhiệm là hết sức quan trọng. Chính vì những lẽ đó mà tôi đã dành khá
nhiều thời gian, tâm sức cho công tác chủ nhiệm lớp mình. Và để nâng cao chất


lượng về công tác chủ nhiệm tôi đã chọn đề tài “MỘT SỐ KINH NGHIỆM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM TRONG MÔ HÌNH
TRƯỜNG TIỂU HỌC MỚI VNEN” nhằm nâng cao chất lượng công tác chủ
nhiệm đối với lớp tôi nói riêng và các lớp theo mô hình trường tiểu học mới VNEN
trong trường nói chung.
2.Tên sáng kiến:
MỘT SỐ KINH NGHIỆM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC CHỦ
NHIỆM TRONG MÔ HÌNH TRƯỜNG TIỂU HỌC MỚI VNEN
3.Tác giả
- Họ và tên: Nguyễn Thị A
- Địa chỉ: Trường Tiểu học B
- Số điện thoại:
- Email:
4.Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị A
5.Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
- Công tác chủ nhiệm trong mô hình trường tiểu học mới VNEN.
6. Ngày áp dụng:
Tháng 9 năm 2016.

7. 1. Mô tả bản chất của sáng kiến
A. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
I. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Tôi viết sáng kiến kinh nghiệm này với mong muốn ghi lại những biện
pháp mình đã làm để suy ngẫm, để chọn lọc và đúc kết thành kinh nghiệm của bản
thân. Được chia sẻ với đồng nghiệp những việc đã làm và đã thành công trong công
tác chủ nhiệm lớp. Nhận được những lời góp ý, nhận xét từ cán bộ quản lí nhà
trường, từ các bạn đồng nghiệp, để tôi phát huy những mặt mạnh, điều chỉnh, khắc
phục những thiếu sót cho hoàn thiện hơn. Rèn luyện tinh thần năng động, giữ lửa
lòng say mê, sáng tạo; cố gắng học tập, tự cải tạo mình để theo kịp sự tiến bộ của
thời đại.
II. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tập thể học sinh, phụ huynh lớp 2B năm học 2016
- 2017. Tập thể học sinh, phụ huynh lớp2 B năm học 2017 – 2018 Trường Tiểu
học Phạm Công Bình, xã Đồng Văn, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
III.Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp thực hành


Phương pháp điều tra
Phương pháp thống kê, tổng hợp
IV. Phần nội dung
1. Cơ sở lý luận
a.Vai trò của giáo viên chủ nhiệm .
Trường học mới VNEN là nơi học sinh cùng học tập để lĩnh hội những kiến
thức liên quan mật thiết đến cuộc sống của các em. Ở đó giáo viên là người tổ chức,
hướng dẫn và khích lệ các em trong việc tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức, hình thành
phát triển kĩ năng giao tiếp, ứng xử dân chủ bình đẳng. Ở đó, phụ huynh và cộng
đồng cùng tham gia tích cực vào việc chăm sóc và giáo dục con em mình. Mô hình
trường học mới tập trung vào đổi mới sư phạm: đổi mới phương pháp dạy, đổi mới

phương pháp học, đổi mới phương pháp đánh giá, đổi mới phương pháp tổ chức
lớp học. Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên thì vai trò của người giáo viên chủ nhiệm
là hết sức quan trọng quyết định thành công của quá trình dạy học theo mô hình
này.
Giáo viên chủ nhiệm là người được Hiệu trưởng phân công chịu trách
nhiệm phụ trách một lớp. Giáo viên chủ nhiệm là người thay mặt hiệu trưởng chịu
trách nhiệm quản lý toàn diện lớp học từ giáo dục văn hóa cho đến giáo dục đạo
đức nhân cách. Chính vì thế có thể nói giáo viên chủ nhiệm là cầu nối đa chiều giữa
các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường với tập thể học sinh lớp chủ
nhiệm .
Giáo viên chủ nhiệm lớp là linh hồn của lớp học, là người góp phần không
nhỏ hình thành và nuôi dưỡng nhân cách học sinh, những chủ nhân tương lai của
đất nước. Ngày nay, với sự nhận thức ngày càng đúng đắn và sâu sắc về giáo dục,
có thể coi giáo viên chủ nhiệm như một nhà quản lý với các vai trò: Người lãnh đạo
lớp học; người điều khiển lớp học; người làm công tác phát triển lớp học; người
làm công tác tổ chức lớp học; người giúp hiệu trưởng bao quát lớp học; người giúp
hiệu trưởng thực hiện việc kiểm tra sự tu dưỡng và rèn luyện của học sinh; người
có trách nhiệm phản hồi tình hình lớp. Một người giáo viên chủ nhiệm giỏi sẽ góp
phần xây dựng nên một tập thể lớp giỏi, nhiều tập thể lớp giỏi sẽ xây dựng nên một
nhà trường vững mạnh.
Giáo viên chủ nhiệm là cầu nối giữa nhà trường - gia đình và xã hội. Nếuthực
hiện thành công công tác chủ nhiệm sẽ góp phần giáo dục học sinh sau này trở
thành thế hệ trẻ năng động, sáng tạo và tài năng.
b. Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm:
Thứ nhất, giáo viên chủ nhiệm phải là người lãnh đạo, điều khiển lớp học,
bao quát toàn bộ các phương diện của lớp học, thực hiện việc kiểm tra, đánh giá sự
tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu của học sinh.
Thứ hai, giáo viên chủ nhiệm phải là cầu nối giữa Ban Giám hiệu nhà trường,
các tổ chức trong trường, các giáo viên với tập thể học sinh lớp chủ nhiệm. Nói
cách khác, giáo viên chủ nhiệm phải là người đại diện cho cả hai phía là đại diện



cho các lực lượng trong nhà trường và đại diện cho tập thể học sinh lớp chủ nhiệm
về mọi mặt một cách hợp lí.
Thứ ba, giáo viên chủ nhiệm có nhiệm vụ giáo dục học sinh thông qua
tập thể giúp các em hiểu và giải quyết mối liên hệ giữa cá nhân với tập thể qua việc
phân công nhiệm vụ một cách kịp thời cân đối, giúp học sinh tự giải quyết những
vấn đề gắn liền với hoạt động xã hội, hoạt động tập thể, sinh hoạt đội, sinh hoạt chủ
điểm hàng tháng qua các tiết hoạt động ngoài giờ. Giáo viên chủ nhiệm cần tổ chức
các hoạt động tập thể, lôi cuốn học sinh vào hoạt động tập thể để giáo dục dễ dàng,
có hiệu quả hơn.
2.Thực trạng
a. Thuận lợi ; khó khăn
* Thuận lợi
Mô hình trường học mới đã được triển khai và áp dụng ở Trường Tiểu học
Phạm Công Bình đã gần 3 năm nên cả giáo viên và học sinh đã quen với hoạt
động dạy - học theo mô hình VNEN. Đại đa số học sinh trong lớp là con em của
người dân trên địa bàn xã , là một thuận lợi lớn trong quá trình dạy học của thầy trò
chúng tôi. Được sự chỉ đạo sát sao của các cấp và sự ủng hộ của đa số cha mẹ học
sinh cũng như cộng đồng xã hội là động lực giúp cho công tác dạy học và giáo dục
của nhà trường nói chung và cá nhân tôi nói riêng mang lại nhiều thành công đáng
kể.
* Khó khăn
Học sinh thuộc địa bàn là nông thôn nên khả năng giao tiếp, các kĩ
năng xã hội để đáp ứng yêu cầu vẫn còn hạn chế.
Việc trang trí lớp học, đồ dùng học tập theo mô hình này cũng đòi hỏi giáo
viên chủ nhiệm phải đầu tư nhiều thời gian hơn so với các lớp học bình thường.
Việc chuyển đổi từ phương pháp dạy học chung cả lớp sang phương pháp
học tập tích cực (chủ yếu theo nhóm) lúc đầu đã không khỏi gây nhiều khó khăn
cho những giáo viên chủ nhiệm như tôi trong việc khắc phục hiện tượng giảng

giải, thuyết trình nhiều trước lớp. Học sinh chưa làm quen với việc tự quản, tự
chiếm lĩnh kiến thức.
Phụ huynh học sinh cũng mang một tâm lý hoang mang, sợ con em mình
không tiếp thu được kiến thức bài học, nhất là đối tượng học sinh còn hạn chế về
năng lực học tập. Một số bộ phận cha mẹ học sinh còn chưa nhiệt tình ủng hộ mô
hình dạy học này.
b.Thành công - hạn chế
* Thành công
Qua thời gian áp dụng Mô hình trường học mới tôi nhận thấy học sinh của
tôi đã phát huy tính tự học, sáng tạo, tính tự giác, tự quản, sự tự tin, hứng thú trong
học tập. Các em còn phát huy tốt các kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp,
kỹ năng hợp tác, kỹ năng tự đánh giá lẫn nhau trong giờ học, ngoài ra còn giúp các
em có tinh thần trách nhiệm và biết phấn đấu làm chủ quá trình học tập của mình.
Còn đối với giáo viên chủ nhiệm như tôi cũng không còn vất vả trong việc


thuyết trình, giảng giải trước lớp. Vai trò của tôi chỉ còn là người quan sát, hỗ trợ
các em học tập.
Đối với cha mẹ học sinh và cộng đồng thì họ đã có trách nhiệm hơn trong
việc phối hợp, hỗ trợ nhà trường và giáo viên chủ nhiệm trong việc dạy học, giáo
dục con em mình. Đồng thời cha mẹ học sinh còn được tiếp nhận, bổ sung tri thức
từ nhà trường thông qua học sinh. Nhiều phụ huynh học sinh khá hài lòng về kết
quả của con em mình khi theo học Mô hình VNEN.
Mô hình trường học mới tôi nhận thấy bản thân mình đã dần khắc phục
được cách dạy học áp đặt một chiều và lối học thụ động của học sinh. Cách thức tổ
chức lớp học theo các nhóm đã tạo điều kiện cho học sinh được trải nghiệm, khám
phá, tự lĩnh hội kiến thức. Mối quan hệ, tương tác giữa học sinh với giáo viên, và
quan hệ giữa học sinh với nhau được tăng cường.
Việc dạy học phân hóa đối tượng học sinh trong Mô hình trường học mới
diễn ra thuận lợi. Tiến độ hoàn thành yêu cầu của những đối tượng học sinh khá

giỏi trong lớp so với các bạn khác là nhanh hơn nên các em có thời gian để tìm
hiểu khám phá những yêu cầu mới cao hơn so với các bạn thông qua những bài
tập nâng cao mà giáo viên đã chuẩn bị.
* Hạn chế
Trong công tác chủ nhiệm tôi cũng còn thấy một số hoạt động còn chưa
hiệu quả như:
Học sinh sử dụng các công cụ hỗ trợ dạy học trong lớp còn hình thức,
chưa thật sự hiệu quả.
Việc ngồi học theo nhóm trong suốt buổi học là điều kiện cho một bộ phận
học sinh có cơ hội nói chuyện riêng và còn ỷ lại vào những bạn khá, giỏi.
Giáo viên giảng dạy và tổ chức lớp học còn theo khuôn mẫu, rập khuôn,
thiếu sáng tạo bởi tài liệu dạy học đã được hướng dẫn tỉ mỉ, giáo viên cứ thế mà
làm theo.
Ngoài ra, không phải học sinh nào cũng phù hợp để tham gia mô hình này.
Với những em có lực học chưa tốt, tiếp thu chậm thì việc để các em tự học để theo
kịp các bạn trong nhóm là khá vất vả. Năng lực hướng dẫn, giảng giải bài giúp bạn
của các nhóm trưởng cũng như của các thành viên trong nhóm hạn chế thì giáo
viên phải tham gia trợ giúp cho những em có lực học chưa tốt ở các nhóm trở nên
vất vả bội phần.
c. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Qua thời gian thực hiện Mô hình trường học mới, tôi nhận thấy các yếu tố
ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công hay thất bại của quá trình dạy học đó là yếu
tố người dạy và người học (giáo viên và học sinh).
Mặc dù còn gặp những khó khăn, hạn chế cũng như những yếu kém của
công tác chủ nhệm trong quá trình thực hiện Mô hình trường học mới như đã nêu
ở trên. Tuy nhiên, qua thời gian thực hiện tôi nhận thấy những thành công, những
mặt tích cực là chủ yếu.
Học tập theo Mô hình VNEN đã giúp học sinh phát huy tích cực, tính tự



học, sáng tạo, tính tự giác, tự quản, sự tự tin, hứng thú trong học tập. Đây
là phương pháp dạy học mới, giúp các em phát huy tốt các kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng hợp tác, kỹ năng tự đánh giá lẫn nhau trong giờ học. Quản lý lớp học là “Hội
đồng tự quản học sinh” do các em bầu ra và đảm nhiệm, đây là một biện pháp giúp
học sinh được phát huy quyền làm chủ quá trình học tập. Học sinh còn có điều kiện
hiểu rõ quyền và trách nhiệm trong môi trường giáo dục, được rèn luyện các kỹ
năng lãnh đạo, kỹ năng tham gia, kỹ năng hợp tác trong các hoạt động; đồng thời
xây dựng không gian lớp học với “Góc học tập”, “Góc cộng đồng”, “Thư viện lớp
học”, mở nhiều “Hòm thư vui”, hòm thư “Điều em muốn nói” cũng như trang trí
lớp học, tạo ra môi trường giáo dục thân thiện, an toàn. Bản thân và học sinh của
tôi đã thích nghi với môi trường học tập này đã đạt hiệu quả giáo dục khá tích cực.
Bởi đây phương pháp dạy học theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm, học tập
mang tính tương tác và phù hợp với từng cá nhân học sinh; chuyển việc truyền thụ
kiến thức của giáo viên thành việc hướng dẫn học sinh tự học.
Lớp học do học sinh tự quản và được tổ chức theo các hình thức như làm
việc theo cặp, làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm, trong đó hình thức học theo
nhóm là chủ yếu. Do vậy học sinh cơ bản đã thay đổi thói quen học tập, các em tự
nghiên cứu tìm hiểu kiến thức trong bài và qua tài liệu. Những kiến thức khó, các
em trao đổi với bạn trong nhóm và mạnh dạn trao đổi vướng mắc với giáo viên.
Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi để các em phát huy tính độc lập, chủ động tiếp thu
kiến thức và hiểu sâu sắc các kiến thức trong bài học; rèn luyện cho các em được
nhiều kỹ năng sống, kỹ năng tập thể trong cách hoạt động học theo nhóm. Môi
trường học thoải mái, các em rất hào hứng tham gia các bài học. Mỗi tiết học không
tạo áp lực đối với các em. Học sinh được hình thành thói quen làm việc trong môi
trường tương tác, được học hỏi bạn để tự hoàn thiện, luôn có ý thức được mình
phải bắt đầu và kết thúc hành động như thế nào, không chờ đến sự nhắc nhở của
giáo viên, tránh sự thụ động trong dạy và học, góp phần đẩy mạnh sự phát triển
trong công tác giáo dục của trường.
3. Giải pháp, biện pháp thực hiện
Mô hình Trường học mới VNEN không những đổi mới về tổ chức lớp

học, về trang trí lớp mà quá trình dạy học cũng được đổi mới từ dạy - học cả lớp
sang dạy - học theo nhóm, nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, tăng cường phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Mô hình này lấy học sinh làm trung tâm trong các hoạt động dạy học,
giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức và tạo mọi điều kiện tốt nhất để mọi học sinh
được tham gia vào quá trình học tập giáo viên tổ chức hoạt động học tập giúp học
sinh vừa tự lực nắm các tri thức, kĩ năng mới, đồng thời được rèn luyện về phương
pháp tự học, được tập dượt phương pháp nghiên cứu. Giáo viên quan tâm vận dụng
vốn hiểu biết và kinh nghiệm của từng cá nhân và của tập thể học sinh để xây dựng
bài học. Phương pháp học theo nhóm luôn hiện hữu, cố định, xuyên suốt cả quá
trình tham gia học tập của học sinh. Học theo phương pháp này các em được học
tập thoải mái, được trải nghiệm, được vui chơi trong giờ học giúp các em rất tự tin,


nên các em rất thích đến lớp đến trường và hứng thú trong học tập. Phương pháp
dạy học theo mô hình trường học mới giúp học sinh phát huy tính tích cực chủ
động, sáng tạo trong học tập và rèn luyện một số kĩ năng cơ bản như kĩ năng hợp
tác, kĩ năng học nhóm, kĩ năng giao tiếp. Góp phần cùng nhà trường nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện.Đồng thời nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm thông
qua một số biện pháp, giải pháp sau:
3.1.Xây dựng lớp học thân thiện.
Tích cực công tác trang trí lớp học : Việc trang trí lớp học thân thiện là một
sự sáng tạo phù hợp với đặc điểm tâm lý học sinh nó tạo cho các em nhận thức về
cái đẹp và có ý thức gìn giữ trường lớp của mình sạch đẹp, góp thêm cho lớp học
một luồng không khí thân thiện, thoải mái, sinh động, hăng say trong giờ học, rèn
luyện kĩ năng sống cho học sinh. Vì vậy, tôi đã cùng với học sinh để tổ chức trang
trí lớp học.

Hộp thư vui kết tình bè bạn, Hòm thư điều em muốn nói, Hòm cam kết,
Góc cộng đồng, Thư viện lớp ...là nơi để các em chia sẻ tình cảm, trao đổi các vấn

đề trong học tập...giúp các em tự tin hơn, diễn đạt tốt hơn. Đây là một trong những
kĩ năng sống rất cần thiết và quan trong đối với các em sau này.
Mô hình vòng tròn được tôi chọn để sắp xếp cho lớp học của mình.Vì nó rất
thuận tiện cho việc hoạt động nhóm cho học sinh và tận dụng được không gian
phòng học để có chỗ tổ chức các trò chơi đồng thời làm cho lớp học thoáng hơn,
thích hợp với lớp được trang bị bàn 2 chỗ.
3.2.Thành lập ban hội đồng tự quản làm việc có hiệu quả.
Xây dựng được Hội đồng tự quản học sinh, tìm hiểu kĩ về từng học sinh của
lớp mình. Coi trọng công tác tổ chức lớp ngay từ đầu năm học. Xây dựng được Hội
đồng tự quản học sinh nhiệt tình có năng lực chỉ đạo lớp. Đây là mô hình không
những đổi mới về tổ chức lớp học, về trang trí lớp mà quá trình dạy học cũng được
đổi mới từ dạy - học cả lớp sang dạy - học theo nhóm. Nhằm nâng cao chất lượng
giảng dạy, tăng cường phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Lấy
học sinh làm trung tâm trong các hoạt động dạy học giúp các em tự chiếm lĩnh kiến
thức và tạo mọi điều kiện tốt nhất để mọi học sinh được tham gia vào quá trình học
tập. Ngoài ra mô hình trường Tiểu học kiểu mới giúp học sinh rèn phương pháp tự
học, tự giác, tự quản, tự trọng, tự tin, tự đánh giá, tự hợp tác, tự rèn luyện kỹ năng,
vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui hứng thú
học tập cho học sinh. Hội đồng tự quản học sinh là một biện pháp giáo dục nhằm
thúc đẩy sự phát triển về đạo đức, tình cảm và xã hội của học sinh thông qua những
kinh nghiệm hoạt động thực tế của các em trong nhà trường và mối quan hệ với
những người xung quanh. Cách lập hội đồng tự quản của học sinh theo sơ đồ sau:


Sự thay đổi của tổ chức lớp học theo mô hình VNEN với Hội đồng tự quản
học sinh đã thay đổi căn bản vai trò, nhiệm vụ của học sinh trong tổ chức của mình;
thể hiện được tính tự chủ, tự giác, phát huy sáng tạo và tôn trọng ý kiến của các em
nhiều hơn. Nhóm là một bộ phận gắn kết cơ bản xuyên suốt cả quá trình dạy và học
nó tạo điều kiện để rèn luyện các kĩ năng và hợp tác của nhóm.
3.3.Phát huy vai trò của nhóm trưởng:

Học theo mô hình VNEN, bàn ghế sẽ được sắp xếp cho học sinh ngồi đối
diện nhau. HS tự thảo luận, tự tìm vướng mắc và tự đưa ra phương án giải quyết.
Ưu điểm của phương pháp học nhóm được phát huy rất rõ nét trong học theo mô
hình VNEN, tất cả học sinh trong nhóm đều được luân phiên nhau làm nhóm
trưởng, hướng dẫn các bạn trong nhóm để điều hành các hoạt động do giáo viên
yêu cầu và không có một bất cứ học sinh nào ngoài cuộc, không một học sinh nào
ngồi chơi. Tuy nhiên để tiết học dạy theo mô hình VNEN thành công hay không thì
phụ thuộc rất nhiều vào các nhóm trưởng. Và công việc chính của nhóm trưởng đó
là: thay giáo viên điều hành các bạn hoạt động nhóm. Xác định được mục tiêu của
hoạt động nhóm. Phân công nhiệm vụ cho công bằng giữa các thành viên trong
nhóm. Một điều quan trọng nữa đó là nhóm trưởng phải biết tự mình làm thế nào để
huy động được sự tham gia của mọi thành viên vào giải quyết nhiệm vụ nhóm và
phải tạo ra những tương tác đa chiều giữa các thành viên trong nhóm. Hướng dẫn
các bạn biết cách tìm kiếm hỗ trợ và giải quyết được một số khó khăn gặp phải.
Biết quản lí và sử dụng thời gian hiệu quả, biết sử dụng và bảo quản tài liệu học
tập. Biết tổ chức và quản lí công việc. Biết giơ thẻ khi đã hoàn thành công việc và
biết giơ thẻ cứu trợ khi không tự giải quyết được công việc.
3.4.Xây dựng vai trò và trách nhiệm của các thành viên trong nhóm.
Nhóm trưởng: Cũng là một thành viên của nhóm giữ nhiệm vụ tổ chức,
điều hành nhóm làm việc đồng thời cùng các thành viên trong nhóm trao đổi, đóng
góp ý kiến về nhiệm vụ được giao.
Thư kí: Cũng là một thành viên của nhóm giữ nhiệm vụ ghi chép, tổng hợp
ý kiến, đồng thời cùng các thành viên trong nhóm trao đổi, đóng góp ý kiến về
nhiệm vụ được giao của nhóm.
Báo cáo viên: Cũng là một thành viên của nhóm giữ nhiệm vụ báo cáo kết
quả làm việc của nhóm mình và giải trình ý kiến thắc mắc trước lớp và GV đồng
thời cùng các thành viên trong nhóm trao đổi, đóng góp ý kiến về nhiệm vụ được
giao qua từng hoạt động.
Các thành viên: Trao đổi, đóng góp ý kiến về nhiệm vụ được giao.
Nguyên tắc làm việc trong nhóm: Tôn trọng sự tổ chức của nhóm trưởng, ghi chép

trung thực ý kiến chung, báo cáo đầy đủ toàn bộ nội dung đã ghi chép, người nói
phải có người nghe, tôn trọng ý kiến cá nhân, thiểu số phải tuân thủ theo đa số. Có
nhận xét rút kinh nghiệm sau mỗi hoạt động…


3.5.Xác định được vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong hoạt động nhóm.
-Trong thời gian học sinh làm việc, giáo viên cần phải đến hoặc đi xung
quanh các nhóm để quan sát các hoạt động của nhóm, nếu có vấn đề gì thì kịp thời
định hướng. Nên thực hành với một số nhóm học sinh cụ thể.
- Đặt câu hỏi gợi mở và trợ giúp cho nhóm.
- Khen ngợi và động viên HS nói về kết quả làm việc.Vì trong quá trình giao
việc cho các nhóm, nếu thấy các nhóm làm việc chăm chú và trao đổi sôi nổi thì
GV mới có thể yên tâm. Một khi thấy các nhóm làm việc trầm lắng, hay nhốn nháo
… Gv cần nghĩ ngay tới các lí do, như phiếu học tập chưa phù hợp với trình độ hay
chưa thực hiện đúng vai trò, HS chưa hiểu cần phát lệnh cứu trợ… ngay lúc đó GV
phải có mặt kịp thời và giải quyết vấn đề mà nhóm hoặc một vài cá nhân
trongnhóm gặp phải.
3.6.Đổi mới phương pháp dạy của giáo viên
- Phương pháp dạy học theo mô hình VNEN là phương pháp dạy học lấy
học sinh làm trung tâm vừa là giá đỡ, vừa là trụ cột chi phối các hoạt động sư phạm
trong lớp học VNEN. Tổ chức dạy học người ta thường khuyến khích sử dụng quy
trình thông qua các hoạt động trải nghiệm, khám phá, phát hiện của học sinh, quy
trình gồm 5 bước chủ yếu sau: Gợi động cơ, tạo hứng thú - Trải nghiệm - Phân tích,
khám phá, rút ra bài học - Thực hành vận dụng. Để làm tốt 5 bước này, đòi hỏi bản
thân người giáo viên phải tự thiết kế, đạo diễn các hoạt động học tập để giúp học
sinh tự phát hiện kiến thức, phân tích kiến thức và sử dụng kiến thức. Chẳng hạn:
Bước1: Tạo hứng thú cho học sinh muốn không khí lớp học vui tươi, kích thích sự
tò mò, khơi dậy hứng thú của học sinh về chủ đề sẽ học. Giáo viên phải nghiên cứu
thật kỹ tài liệu để lựa chọn hình thức sao cho phù hợp, có thể là: đặt câu hỏi, câu đố
vui, kể chuyện, một tình huống, tổ chức trò chơi hoặc sử dụng các hình thức khác...

Trong các hình thức đó thì tổ chức trò chơi mang lại hiệu quả rất tốt. Thông qua trò
chơi, HS sẽ cảm thấy trò chơi mà mình vừa được tham gia rất gần gũi với bản thân,
không chỉ thế trò chơi còn kích thích tính tò mò, khơi dậy hứng thú trong học tập
giúp các em muốn tiếp tục được trải nghiệm kiến thức mới.
-Tăng cường việc sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học, các kỹ thuật
dạy học để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh, gắn nội dung dạy học với
các tình huống thực tiễn cũng như để giải quyết các chủ đề phức hợp của thực tiễn.
Các phương pháp dạy học tích cực : Phương pháp đặt và giải quyết vấn
đề ; Phương pháp hợp tác theo nhóm nhỏ; Phương pháp trò chơi; Phương pháp
đóng vai
-Các kỹ thuật dạy học tích cực: Kĩ thuật hỏi và trả lời; Kĩ thuật khăn trải
bàn ; Kĩ thuật mảnh ghép ; Kỹ thuật trình bày một phút....Trao đổi với đồng nghiệp,
Giáo viên bộ môn để tuỳ theo theo từng môn, từng bài, từng lớp tuỳ theo từng hoạt
động để vận dụng phương pháp dạy học nào, kỹ thuật dạy học nào cho hiệu quả.
3.7 Xây dựng ý thức tự giác tích cực chủ động trong hoạt động.
Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm là cho các em nắm chắc được bổn phận
của người học sinh, xây dựng cho các em tham gia các hoạt động và có ý thức làm


việc tốt ngay từ ban đầu, có thói quen tự giác, tích cực chủ động trong học tập, giúp
học sinh nhận thức được tầm quan trọng của việc học tập, từ đó học sinh học tập
một cách thoải mái về tâm lý, không bị gò ép.
Bản thân giáo viên chủ nhiệm đã tạo cho học sinh bầu không khí thoải mái
thì cũng phải thông cảm gần gũi với các em học sinh, công bằng trong quá trình
đánh giá nhận xét, trong học tập, trong lao động cũng như vui chơi giải trí . Nắm
chắc năng lực học tập, sở trường, hoàn cảnh gia đình của từng em học sinh, sắp xếp
chỗ ngồi, bình bầu chủ tịch hội đồng tự quản, nhóm trưởng, chỉ huy đội phù hợp,
xác định nhiệm vụ cần thiết là xây dựng cho các em lòng tin tuyệt đối vào tập thể,
ngoài ra nhà giáo còn nêu ra mục tiêu, chỉ tiêu để học sinh phấn đấu dựa vào đó để
bầu ban cán sự lớp, phân công tổ, nhóm tạo điều kiện để các em phối hợp với nhau

trong học tập công tác, giúp đỡ nhau cùng tiến.
3.8. Nghiên cứu, nắm vững tình hình học sinh của lớp chủ nhiệm
Để làm tốt công tác giáo dục học sinh, nhiệm vụ đầu tiên của giáo viên chủ
nhiệm lớp là nghiên cứu để nắm vững tình hình chung của lớp và của từng học
sinh. Kết quả nghiên cứu sẽ là những căn cứ để xây dựng mục tiêu, chương trình,
kế hoạch năm học để xác định nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức
giáo dục phù hợp với đặc điểm của lớp. Bởi vậy ngay từ đầu năm, công việc đầu
tiên tôi thường tập trung vào các nội dung sau đây:
Nghiên cứu tình hình gia đình học sinh như trình độ học vấn, nghề nghiệp
của cha mẹ học sinh, số con, sự trưởng thành của các con, hoàn cảnh, mức sống,
phương pháp giáo dục và những đặc điểm khác...
Nghiên cứu học sinh: số lượng, chất lượng học tập, đặc điểm lứa tuổi, đặc
điểm cá biệt, quá trình học tập, tu dưỡng đạo đức, tinh thần đoàn kết, phong trào
thi đua, truyền thống, ưu, nhược điểm, chỗ mạnh, chỗ yếu của lớp... Đặc biệt quan
tâm tới những đặc điểm của học sinh (về sức khoẻ, sở thích, học lực, đạo đức,
quan hệ xã hội, bạn bè, tính tình...).
Để nắm vững được năng lực hoạt động tập thể của từng em trong lớp mình
làm chủ nhiệm, tôi thường thông qua các kênh thông tin sau:
+ Căn cứ hồ sơ học bạ , thành tích học tập;
+ Chú ý hình thức như sức khoẻ, sự linh hoạt năng động;
Ngoài ra để có mối liên hệ gắn bó, mật thiết với phụ huynh học sinh, người
giáo viên chủ nhiệm cần phải:
- Liên lạc với phụ huynh ngay khi năm học bắt đầu, có nghĩa là khi tiếp nhận
danh sách học sinh của lớp là tiếp nhận luôn danh sách cha mẹ hoặc người nuôi
dưỡng học sinh.
- Có thể hình thành một bộ phận hồ sơ gửi cho mỗi phụ huynh học sinh để có
thông tin như:
+ Họ tên, nghề nghiệp cha mẹ hoặc người nuôi dưỡng.
+ Địa chỉ gia đình.
+ Số điện thoại để liên lạc khi cần thiết.



+ Những đặc điểm cần chú ý khi giáo dục con em của mình mà gia đình thấy
cần thiết đề nghị với giáo viên chủ nhiệm.
+ Có thể ghi chú thêm thời gian hay cách tốt nhất để liên lạc giữa giáo viên
với gia đình khi cần thiết.
- Lập một danh sách số điện thoại chung của các gia đình học sinh gửi cho
tất cả các giáo viên của lớp.
Từ những tài liệu đó giúp cho tôi trong việc xây dựng kế hoạch dạy học, hỗ
trợ, bồi dưỡng và tổ chức các hoạt động giáo dục đến từng học sinh cũng như tập
thể lớp một cách có hiệu quả.
3.9.Phối hợp với cộng đồng cùng tham gia công tác giáo dục
Trong Mô hình VNEN, nguyên lí giáo dục ”Học đi đôi với hành .Nhà
trường gắn liền với gia đình và xã hội” được thể hiện rõ rệt thông qua tổ chức và
quản lí lớp học, đưa những điểm văn hóa, kinh tế, truyền thống lịch sử của địa
phương vào nhà trường. Do vậy vai trò của gia đình là rất quan trọng trong việc học
tập, giáo dục đối với học sinh.
Để phối hợp một cách chặt chẽ với gia đình, cộng đồng, ngay từ đầu năm
tôi thường bàn bạc với Ban đại diện cha mẹ học sinh lớp để tuyên truyền tới mỗi
gia đình và cộng đồng về Mô hình trường học mới. Chủ động trao đổi, khuyến
khích gia đình và cộng đồng cùng tham gia các hoạt động giáo dục của nhà trường,
tạo nên sức mạnh tổng hợp nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh.
Các nội dung tôi thường phối hợp với cha mẹ học sinh trong quá trình giáo dục
như phối hợp cùng tuyên truyền về Mô hình trường học mới; huy động trẻ đến
trường; cùng tham gia trang trí lớp học xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực ,tham gia giúp các em liên hệ nội dung học với thực tế ở địa phương và
phát huy năng lực của các em tại nhà.
4. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Để thực hiện dạy học theo Mô hình VNEN có hiệu quả ngoài điều kiện cơ
sở vật chất thì điều kiện tiên quyết là quyết tâm đổi mới phương pháp dạy - học,

phương pháp tổ chức lớp học, phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và cộng đồng
trong việc giáo dục học sinh,… Điều đó có nghĩa là người giáo viên chủ nhiệm
phải là hạt nhân của các khâu đổi mới quyết định thành bại trong công tác dạy học
theo mô hình VNEN.
5. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Trong mô hình VNEN, người giáo viên nói chung và đặc biệt là người giáo
viên chủ nhiệm phải giúp học sinh phát huy tính tự học, sáng tạo, tính tự giác, tự
quản, sự tự tin, hứng thú trong học tập. Phải đổi mới phương pháp dạy học giúp
các em phát huy tốt các kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác, kĩ năng tự đánh giá lẫn
nhau trong giờ học. Chú trọng khai thác và sử dụng những kinh nghiệm của học
sinh trong đời sống hàng ngày. Gắn kết giữa nội dung dạy học với đời sống thực
tiễn của học sinh, của cộng đồng thông qua hoạt động của nhóm và chính bản thân
các em trong mỗi tiết học.
Phải nắm vững yêu cầu về quan điểm dạy học, chương trình, nội dung dạy


học. Thấy được tầm quan trọng và ích lợi của hoạt động nhóm, đòi hỏi người giáo
viên chủ nhiệm phải không ngừng nghiên cứu, tìm tòi, vận dụng linh hoạt hoạt
động nhóm trong quá trình dạy học. Nắm vững các cách chia nhóm và tổ chức
nhóm.
Phải thực hiện tốt việc tổ chức lớp học. Hướng dẫn cho Hội đồng tự quản,
các Ban tự quản thực hiện một cách có hiệu quả. Tận dụng tốt lợi thế về cơ sở vật
chất để thực hiện thành công dạy học theo Mô hình trường học mới.
Phải thường xuyên liên hệ chặt chẽ với cha mẹ học sinh, cộng đồng xã hội
trong quá trình dạy học và giáo dục học sinh để hình thành và phát triển những kĩ
năng cần thiết cho các em cũng như thực hiện tốt khâu xã hội hóa giáo dục.
6. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Qua thời gian thực hiện dạy học theo Mô hình trường học mới, tôi nhận
thấy những thay đổi tích cực từ phía học sinh, cha mẹ học sinh cũng như cộng đồng
xã hội. Học sinh của tôi đã tự tin chiếm lĩnh kiến thức mới, các kĩ năng hợp tác,

chia sẻ, kĩ năng giao tiếp,… tiến bộ rõ rệt. Các em thực sự làm chủ trong quá trình
học tập. Chất lượng dạy học ngày càng tăng cao.
Chất lượng cuối năm học 2016 – 2017, lớp 2B có 36 học sinh.
Điểm 10 Điểm 9
Điểm 8
Điểm 7
Điểm 6
MÔN
SL %
SL %
SL %
SL %
SL %
Tiếng Việt
12 33,3 8
22,2 9
25 7
19,5 0
0
Toán
15 41,6 9
25
8
22,3 4
11,1 0
0
+ Hoàn thành chương trình lớp học: 100%
+ Hình thành và phát triển năng lực: Đạt 100%
+ Hình thành và phát triển phẩm chất: Đạt 100%


Điểm 5
SL %
0 0
0 0

Chất lượng cuối năm học 2017 – 2018 , lớp 2B có 36 học sinh
Điểm 10 Điểm 9
Điểm 8
Điểm 7
Điểm 6
Điểm 5
SL %
SL %
SL %
SL %
SL %
SL %
Tiếng Việt
15 41,6 12 33,3 7
19,4 2
5,7 0
0
0 0
Toán
25 69,4 5
13,8 4
11,1 2
5,7 0
0
0 0

+ Hoàn thành chương trình lớp học: 100%
+ Hình thành và phát triển năng lực: Đạt 100%
+ Hình thành và phát triển phẩm chất: Đạt 100%
Cha mẹ học sinh cũng tham gia tích cực vào giáo dục học sinh, giúp học
sinh vận dụng linh hoạt kiến thức vào thực tế cuộc sống. Mối quan hệ giữa nhà
trường và cộng đồng ngày càng chặt chẽ, khăn khít hơn.
Hàng ngày tới lớp, các em được sinh hoạt và học tập trong môi trường thân
thiện, thoải mái, không bị gò bó, luôn được gần gũi với bạn bè, với thầy cô.Đặc biệt
MÔN


với sự giúp đỡ, tương trợ của các bạn trong nhóm, nhiều học sinh đã không còn rụt
rè e ngại mà trở nên hoạt bát, hào hứng hơn trong học tập.
Thời gian đầu cả thầy và trò còn lúng túng. Nhưng khi đã quen với phương
pháp dạy và học này các em rất yêu thích và gắn bó với lớp học của mình hơn.Có
thể nhận thấy việc dạy học theo Mô hình trường học mới, sẽ rất thuận lợi cho việc
đánh giá năng lực học sinh theo các tiêu chí về chuẩn kiến thức, kỹ năng và hoạt
động theo từng môn học; đánh giá sự hình thành và phát triển năng lực chung của
học sinh. Điều này sẽ tạo điều kiện cho các em phát triển một cách toàn diện, giúp
các em dễ thích nghi với môi trường xung quanh.
7.2. Khả năng áp dụng sáng kiến
Mặc dù mới được thực hiện trong gần 3 năm học, nhưng việc dạy học theo
Mô hình trường học mới của thầy trò chúng tôi đã mang đến những hiệu quả giáo
dục tích cực.
Tham gia lớp học này, các em có điều kiện phát huy sở trường cá nhân
của mình. Học sinh được làm chủ lớp học, làm chủ quá trình học tập. Hàng ngày
tới lớp, các em được sinh hoạt và học tập trong môi trường thân thiện, thoải mái,
không bị gò bó, luôn được gần gũi với bạn bè, với thầy cô. Đặc biệt với sự giúp đỡ,
tương trợ của các bạn trong nhóm, nhiều học sinh đã không còn rụt rè e ngại mà trở
nên hoạt bát, hào hứng hơn trong học tập. Quản lý lớp học là “Hội đồng tự quản

học sinh”. Hội đồng này được các em bầu ra để đảm đương các hoạt động tại lớp.
Đây là một cách thức sáng tạo, giúp học sinh được phát huy quyền làm chủ quá
trình học tập. Với hình thức sinh hoạt và học tập như thế, các em được rèn luyện
các kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng hợp tác trong các hoạt động hàng ngày. Với cách bố
trí lớp học theo các không gian mở hướng tới sự sáng tạo của học sinh như: góc học
tập, góc cộng đồng, góc thư viện, hòm thư vui, hòm thư “Điều em muốn nói” đã tạo
nên môi trường giáo dục thân thiện cho các em. Thời gian đầu cả thầy và trò còn
lúng túng. Nhưng khi đã quen với phương pháp dạy và học này các em rất yêu
thích và gắn bó với lớp học của mình hơn. Có thể nhận thấy việc dạy học theo Mô
hình trường học mới, sẽ rất thuận lợi cho việc đánh giá năng lực học sinh theo các
tiêu chí về chuẩn kiến thức, kỹ năng và hoạt động theo từng môn học; đánh giá sự
hình thành và phát triển năng lực chung của học sinh. Điều này sẽ tạo điều kiện cho
các em phát triển một cách toàn diện, giúp các em dễ thích nghi với môi trường
xung quanh.
8.Những thông tin cần được bảo mật:
Không có
9.Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
a. Đối với giáo viên
-Tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp về mọi mặt để có biện pháp tổ
chức giáo dục sát đối tượng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp;
-Cộng tác chặt chẽ với gia đình học sinh, chủ động phối hợp với các giáo
viên bộ môn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong


Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội có liên quan trong hoạt động giảng dạy và giáo
dục học sinh của lớp mình chủ nhiệm;
-Đánh giá học sinh theo đúng quy định đánh giá học sinh tiểu học.
-Báo cáo thường kỳ hoặc đột xuất về tình hình của lớp với Hiệu trưởng.
-Thu thập và xử lý thông tin đa dạng về lớp chủ nhiệm để xây dựng hồ
sơ học sinh và lập kế hoạch phát triển tập thể. Giáo viên chủ nhiệm cần tìm hiểu

đặc điểm cá nhân, đặc điểm phát triển trí tuệ, xã hội, xúc cảm - tình cảm và thể chất
của học sinh, hoàn cảnh học sinh để tìm ra những cách tiếp cận, những phương
pháp tác động phù hợp, khuyến khích kỉ luật tích cực ở mỗi học sinh.
-Với chức năng quản lí giáo viên chủ nhiệm phải biết lập kế hoạch năm học
và các kế hoạch giáo dục ngắn hạn khác để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu giáo
dục, các chủ trương, nhiệm vụ mà nhà trường giao cho.
-Xây dựng tập thể học sinh lớp chủ nhiệm. Đây là chức năng đặc trưng của
giáo viên chủ nhiệm mà các giáo viên bộ môn không thể thay thế. Để giáo dục và
phát triển toàn diện từng học sinh, giáo viên chủ nhiệm tất yếu phải xây dựng và phát
triển tập thể lớp.
-Phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường xây dựng
môi trường giáo dục, tổ chức giáo dục và đánh giá học sinh. Giáo viên chủ nhiệm
thường xuyên cần kết hợp với giáo viên bộ môn để giáo dục học sinh và tổ chức
hoạt động tự học nhằm không ngừng nâng cao chất lượng học tập cho học sinh lớp
chủ nhiệm.
- Bồi dưỡng nâng cao nhận thức về đổi mới công tác chủ nhiệm lớp: Giáo
viên thấy được vị trí, vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp đối với việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị của bậc học: Ngày nay giáo viên chủ nhiệm lớp ngoài lòng
nhiệt tình, ý thức trách nhiệm, còn đòi hỏi có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm
trong ứng xử sư phạm, có kĩ năng tổ chức các hoạt động giáo dục.
- Bồi dưỡng nâng cao năng lực làm giáo viên chủ nhiệm cho các giáo viên
Nâng cao năng lực của đội ngũ , phù hợp với các yêu cầu giáo dục học sinh :
+ Năng lực ngoại giao
+ Kĩ năng giải quyết các xung đột
+ Đó là năng lực tổ chức các buổi họp phụ huynh , năng lực giao tiếp ,…
+ Năng lực Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp: Như tổ chức buổi chào cờ, tiết
sinh hoạt lớp, sinh hoạt tập thể, các buổi học ngoài giờ , buổi trải nghiệm, trải
nghiệm sáng tạo.
+ Kĩ năng xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch cho các tiết trải nghiệm, trải
nghiệm sáng tạo.Vì hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục trong đó

từng học sinh được trực tiếp hoạt động thực tiễn theo chủ đề, vận dụng kiến thức, kĩ
năng và kinh nghiệm của bản thân vào cuộc sống một cách sáng tạo.Thông qua
hoạt độn học sinh cảm nhận và hình thành phát triển các năng lực, phẩm chất .Hoạt
động trải nghiệm sáng tạo sử dụng một số hình thức chủ yếu sau: thực địa, thực tế,
tham quan, trò chơi, làm quen với nghiên cứu khoa học, câu lạc bộ, giao lưu, sân
khấu hóa, thực hành lao động nhà trường như làm vệ sinh,..Nội dung hoạt động trải


nghiệm sáng tạo được lựa chọn trong môn học hoặc theo chủ đề phù hợp với thực
tế nhà trường, địa phương. Giáo viên, các tổ chức, cá nhân tình nguyện hướng dẫn,
hỗ trợ học sinh thực hiện hoạt động. HS vừa là người tham gia vừa là người thiết kế
và tổ chức hoạt động.
-Khơi nguồn cảm hứng từ GV, lòng nhiệt tình, tận tâm tận tụy trong công
việc, phát hiện và bồi dưỡng những GV có năng lực .Tăng cường ,nâng cao nhận
thức về sự cần thiết phải đỏi mới công tác chủ nhiệm . Biết phối kết hợp giữa các
lực lượng xã hội để đẩy mạnh phong trào của lớp , của nhà trường.
-Làm thay đổi nhận thức của giáo viên : thực hiện tốt đổi mới công tác chủ
nhiệm là một trong các nhiệm vụ trọng tâm và tiên quyết của năm học.Muốn thực
hiện nhiệm vụ “ Tăng cường trải nghiệm sáng tạo” thì cần thiết phải làm tốt công
tác chủ nhiệm .
b.Đối với học sinh
-Mỗi học sinh cần tự học tập hình thành thói quen hoạt động nhóm, tổ chức
các hoạt động, trình bày ý kiến trước đám đông.
-Thường xuyên đọc sách báo để học hỏi những hành vi tốt
-Có ý thức tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp.
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tác giả :
Công tác chủ nhiệm trong Mô hình trường học mới có những điểm mới,
tích cực hơn so với công tác chủ nhiệm trước đây. Nó đòi hỏi sự nhạy bén, tính
linh hoạt của người giáo viên chủ nhiệm mới đáp ứng được yêu cầu giáo dục của

mô hình đề ra: Dạy học theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm, học tập mang
tính tương tác và phù hợp với từng cá nhân học sinh; chuyển việc truyền thụ của
giáo viên thành việc hướng dẫn học sinh tự học. Lớp học do học sinh tự quản và
được tổ chức theo các hình thức theo nhóm là chủ yếu. Do vậy học sinh cơ bản đã
thay đổi thói quen học tập, các em tự nghiên cứu tìm hiểu kiến thức trong bài và
qua tài liệu. Những kiến thức khó, các em trao đổi với bạn trong nhóm và mạnh dạn
trao đổi vướng mắc với giáo viên. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi để các em phát
huy tính độc lập, chủ động tiếp thu kiến thức và hiểu sâu sắc các kiến thức trong
bài học; rèn luyện cho các em được nhiều kỹ năng sống, kỹ năng tập thể trong cách
hoạt động học theo nhóm. Môi trường học thoải mái, các em rất hào hứng tham gia
các bài học. Mỗi tiết học không tạo áp lực đối với các em. Học sinh được hình
thành thói quen làm việc trong môi trường tương tác, được học hỏi bạn để tự hoàn
thiện, luôn có ý thức được mình phải bắt đầu và kết thúc hành động như thế nào,
không chờ đến sự nhắc nhở của giáo viên, tránh sự thụ động trong dạy và học, góp
phần đẩy mạnh sự phát triển trong công tác giáo dục của trường.
Trong lĩnh vực giáo dục, người thầy không chỉ có lòng yêu nghề, mến trẻ,
đem hết nhiệt tình để truyền đạt kiến thức cho học sinh mà quan trọng hơn nữa là
phải có một biện pháp giáo dục học sinh đạt hiệu quả cao nhất. Muốn trở thành một
giáo viên chủ nhiệm lớp giỏi, khéo léo, tinh tế trong ứng xử và thành công trong


việc giáo dục học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục học sinh trong công tác chủ
nhiệm lớp, mỗi giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp cần phải:
- Là người có uy tín, toàn diện, có năng lực thực sự để chỉ đạo, dám nghĩ,
dám làm đi trước, đề xuất được các vấn đề giá trị, tập hợp được sức mạnh tổng hợp,
vai trò con chim đầu đàn là yếu tố có phần lớn lao, tạo nên sự thành công hay thất
bại ở mỗi học sinh, mỗi lớp học.
- Có sự phối hợp chặt chẽ với các phong trào khác, những hoạt động khác, và
đặc biệt cần phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường với Chi hội cha mẹ học sinh; được
sự quan tâm lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền, các đoàn thể và nhân dân địa

phương để tạo sức mạnh đồng bộ, toàn xã hội cùng giáo dục thế hệ trẻ đồng thời
giữ vững được hướng đi đúng .
- Tìm hiểu để biết được một cách toàn diện, sâu sắc về từng học sinh. Hiểu rõ
hoàn cảnh gia đình, đặc điểm tâm lí, tính cách, sở thích, thói quen,...của từng học
sinh để có biện pháp giáo dục phù hợp. Sự thành công trong công tác chủ nhiệm
lớp, nhân tố quan trọng mà chúng ta nên thận trọng cân nhắc khi quyết định lựa
chọn, đó chính là Hội đồng tự quản của lớp. Chú trọng xây dựng và bồi dưỡng cho
các em, huấn luyện để các em trở thành những “người lãnh đạo nhỏ” tài ba.
- Luôn giữ được sự bình tĩnh trước lỗi lầm của học sinh, tìm hiểu cặn kẽ thấu
đáo nguyên nhân của mỗi tình huống xảy ra để có cách xử lí đúng đắn, hợp tình,
hợp lí; tránh trách nhầm, trách oan học sinh làm các em hoang mang, thiếu niềm tin
vào người thầy. Luôn thể hiện cho học sinh thấy tình cảm yêu thương của một
người thầy đối với học sinh. Hãy nhớ rằng lòng nhân ái, bao dung, đức vị tha của
người thầy luôn có một sức mạnh to lớn để giáo dục và cảm hóa học sinh.
- Giải quyết mọi vướng mắc của học sinh một cách công bằng, biết lắng nghe
và tôn trọng ý kiến của học sinh.
- Thực hiện sinh hoạt lớp đều đặn, thi đua và tổng kết thi đua công bằng và
phải được duy trì xuyên suốt năm học; luôn biết khích lệ biểu dương các em kịp
thời; hãy khen ngợi những ưu điểm sở trường của các em để các em thấy giá trị của
mình được nâng cao, có niềm tin và hứng thú học tập hơn.
- Duy trì và sáng tạo trong công tác xây dựng “lớp học thân thiện, học sinh tích
cực”, làm sao để tất cả các em luôn cảm thấy “mỗi ngày đến trường là một ngày
vui”.
- Phối hợp kịp thời và chặt chẽ với phụ huynh học sinh cũng như các giáo viên
bộ môn và các đoàn thể trong trường, kiên trì vận động phụ huynh tích cực tham
gia vào công tác giáo dục học sinh.
-Người giáo viên chủ nhiệm lớp cần không ngừng trau dồi phẩm chất đạo đức
nhà giáo, tấm lòng của người cha, người mẹ, người anh, người chị, người bạn lớn
của học sinh; bồi dưỡng năng lực, nghiệp vụ, tích lũy kinh nghiệm quản lý, tổ chức
điều hành các hoạt động; nắm chắc các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản,

hướng dẫn liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của học sinh làm cơ sở pháp lý để ứng
xử với các tình huống liên quan đến công tác chủ nhiệm lớp sao cho vừa thấu lý
vừa đạt tình, có tác dụng giáo dục. Giáo viên chủ nhiệm lớp không được làm thay


học sinh mà phải làm tốt tư vấn, định hướng, khơi gợi dẫn dắt để các em chủ động,
tích cực hoạt động.
11. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tổ chức :
Qua việc nghiên cứu, áp dụng sáng kiến MỘT SỐ KINH NGHIỆM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM TRONG MÔ HÌNH TRƯỜNG
TIỂU HỌC MỚI VNEN” tôi nhận thấy sáng kiến đã đem lại những lợi ích thiết
thực sau:
- Hiệu quả công tác chủ nhiệm tốt.
-Chất lượng học sinh được nâng lên rõ rệt.
- Học sinh chủ động, tích cực học tập, tự tin trình bày ý kiến của mình trước đám
đông. Có tinh thần làm việc theo nhóm.
- Giáo viên chủ động và linh hoạt hơn khi làm công tác chủ nhiệm theo mô hình
trường tiểu học mới vnen.
12. Danh sách những tổ chức/ cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng
sáng kiến lần đầu :
STT Tên tổ chức/cá Địa chỉ
Phạm vi/Lĩnh vực áp dụng sáng
nhân
kiến
1
Lớp 2B năm học Trường Tiểu học Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả
2016 – 2017
B
công tác chủ nhiệm trong lớp học

vnen
2
Lớp 2B năm học Trường Tiểu học Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả
2017 – 2018
B
công tác chủ nhiệm trong lớp học
vnen
Đồng Văn, ngày.....tháng ..... năm 2018
Thủ trưởng đơn vị

Đồng Văn, ngày 3 tháng 10 năm 2018
Tác giả sáng kiến
Nguyễn Thị A



×