Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC - NHỮNG KHÁI NIỆM MỞ ĐẦU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.7 KB, 10 trang )

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NHỮNG KHÁI NIỆM MỞ ĐẦU
Nghiên cứu khoa học là một hoạt động xã hội, hướng vào việc tìm kiếm những điều
mà khoa học chưa biết hoặc là phát hiện bản chất sư vật, phát triển nhận thức khoa học về
thế giới hoặc là sáng tạo phương pháp mới và phương tiện kỹ thuật mới để cải tạo thế giới.
Có nhiều cách phân loại nghiên cứu khoa học. Ở đây ta đề cập đến phân loại theo
chức năng nghiên cứu và theo tính chất của sản phẩm tri thức khoa học thu được nhờ kết
quả nghiên cứu.
1. Phân loại theo chức năng nghiên cứu :
• Nghiên cứu mô tả, là những nghiên cứu nhằm đưa ra một hệ thống tri thức về nhân
dạng sư vật, giúp con người phân biệt được sự khác nhau, về bản chất giữa sự vật này
với sự vật khác. Nội dung mô tả có thể bao gồm mô tả hình thái, động thái, tương tác;
mô tả định tính tức là các đặc trưng về chất của sự vật; mô tả định lượng nhằm chỉ rõ
các đặc trưng về lượng của sự vật.


• Nghiên cứu giải thích, là những nghiên cứu nhằm làm rõ nguyên nhân dẫn đến sự
hình thành và quy luật chi phối quá trình vận động của sự vật. Nội dung của giải thích
có thể bao gồm giải thích nguồn gốc; động thái; cấu tr1uc; tương tác; hậu quả; quy
luật chung chi phối quá trình vận động của sự vật.
• Nghiên cứu dự báo, là những nhiên cứu nhằm nhận dạng trạng thái của sự vật trong
tương lai. Mọi dự báo đều phải chấp nhận những sai lệch, kể cả trong nghiên cứu tự
nhiên và xã hội. Sự sai lệch trong kết quả dự báo có thể do nhiều nguyên nhân : sai
lêch khách quan trong kết quả quan sát: sai lệch do những luận cứ bị biến dạng trong
sự tác động của các sự khác; mội trường cũng luôn có thể biến động, …
• Nghiên cứu sáng tạo, là nghiên cứu nhằm làm ra một sự vật mới chưa từng tồn tại.
Khoa học không bao giờ dừng lại ở mô tả và dự báo mà luôn hướng vào sự sáng tạo
các giải pháp cải tạo thế giới.

2. Phân loại theo tính chất của sản phẩm nghiên cứu :
Theo tính chất của sản phẩm, nghiên cúu được phân loại thành nghiên cứu cơ bản,
nghiên cứu ứng dụng và ghiên cứu triển khai.
Nghiên cứu cơ bản (Fundamental research) là những nghiên cứu nhằmphát hiện
thuộc tính, cấu trúc, động thái các sự vật, tương tác trong nội bộ sự vật và mối liên hệ
giữa sư vật với các sư vật khác. Sản phẩm nghiên cứu cơ bản có thể là các khám phá,
phát hiện, phát minh, dẫn đến viêc hình thành một hệ thống lý thuyết có giá trị tổng
quát, ảnh hưởng đến một hoặc nhiều lĩng vực khoa học, chẳng hạn Newton phát minh
định luật hấp dẫn vũ trụ; Marx phát hiện quy luật giá trị thặng dư. Nghiên cứu cơ bản
được phân thành hai loại : nghiên cứu cơ bản thuần túy và nghiên cứu cơ bản định
hướng.
 Nghiên cứu cơ bản thuần túy, cò được gọi là nghiên cứu cơ bản tự do hoặc nghiên

cứu cơ bản không định hướng, là những nghiên cứu về bản chất sự vật để nâng cao nhận
thức, chưa có hoặc chưa bàn đến ý nghĩa ứng dụng.
 Nghiên cứu cơ bản định hướng, là những nghiên cứu cơ bản đã dự kiến trước mục
đích ứng dụng. các hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên, kinh tế, xã hội, … đều có thể xem
là nghiên cứu cơ bản định hướng. Nghiên cứu cơ bản định hướng được phân chia thành
nghiên cứu nền tảng (background research) và nghiên cứu chuyên đề (thematic research).
 Nghiên cứu nền tảng, là những nghiên cứu về quy luật tổng thể của một hệ
thống sự vật. Hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên và các điều kiện thiên nhiên như địa
chất, nghiên cứu đại dương, khí quyển, khí tượng; điều tra cơ bản về kinh tế, xã hội đều
thuộc loại nghiên cứu nền tảng.
 Nghiên cứu chuyên đề, là nghiên cứu về một hiên tượng đặc biệt của sự vật, ví
dụ trạng thái plasma của sự vật, bức xạ vũ trụ, gien di truyền. Nghiên cứu chuyên đề vừa

dẫn đến hình thành những cơ sở lý thuyết, mà còn dẫn đến những ứng dụng có ý nghĩa thực
tiễn.
Nghiên cứu ứng dụng (Applied research) : là sự vận dụng quy luật được phát hiện từ
nghiên cứu cơ bản để giải thích một sự vật, tạo ra những nguyên lý mới về các giải pháp
và áp dụng chúng vào sản xúât và đời sống. Giải pháp được hiểu theo nghĩa rộng có thể
là một giải pháp về công nghệ, về vật liệu, về tổ chức và quản lý. Một số giải pháp công
nghệ có thể trở thành sáng chế. Kết quả nghiên cứu ứng dụng thì chưa ứng dụng được,
để có thể đưa kết quả nghiên cứu ứng dụng vào sử dụng thì còn phải tiến hành một loại
hình nghiên cứu khác có tên gọi lả triển khai.
Nghiên cứu triển khai (Development research) : còn gọi là nghiên cứu triển khai thực
nghiệm hay triển khai thực nghiệm kỹ thuật, là sự vận dụng các quy luật (thu được từ
nghiên cứu cơ bản) và các nguyên lý (thu được từ nghiên cứu ứng dụng) để đưa ra các

hình mẫu với những tham số khả thi về kỹ thuật. Kết quả nghiên cứu triển khai thì chưa
triển khai được: sản phẩm của triển khai chỉ mới là những hình mẫu khả thi về kỹ thuật,
nghĩa là không còn rủi ro về mặt kỹ thuật, để áp dụng được còn phảitiến hành nghiên
cứu những tính khả thi khác như khả thi tài chính, khả thi kinh tế, khả thi môi trường,
khả thi xã hội. Hoạt động triển khai bao triển khai trong phòng thí nghiệm và triển khai
bán đại trà.
 Triển khai trong phòng thí nghiệm : là loại hình triển khai nhằm khẳng định kết
quả sao cho ra được sản phẩm, chưa quan tâm đến quy mô áp dụng. trong những
nghiên cứu về công nghệ, loại hình này được thực hiện trong các phòng thí
nghiệm, labô công nghệ, nhà kính. Trên một quy mô lớn hơn, hoạt động triển khai
cũng được tiến hành trong các xưởng thực nghiệm thuộc viện hoặc xí nghiệp sản
xuất.

 Triển khai bán đại trà : trong các nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật và
khoa học công nghệ là một dạng triển khai nhằm kiểm chứng giả thuyết về hình
mẫu trên một quy mô nhất định, thường là quy mô áp dụng bán đại trà, hay quy
mô bán công nghiệp.
Khái niệm triển khai được áp dụng cả trong nghiên cứu khoa học kỹ thuật và xã hội;
trong các nghiên cứu về khoa học kỹ thuật, hoạt động triển khai được áp dụng khi chế tạo
một mẫu công nghệ mới hoặc sản phẩm mới; trong các nghiên cứu khoa học xã hội có thể
lấy ví dụ về thử nghiệm một phương pháp giảng dạy ở các lớp thí điểm; chỉ đạo thí điểm
một mô hình quản lý mới tại một cơ sở được lựa chọn.
Toàn bộ các loại hình nghiên cứu và mối liên hệ giữa các loại hình nghiên cứu được
trình bày trong sơ đồ bên dưới. Sự phân chia loại hình nghiên cứu như trên đây được áp
dụng phổ biến trên thế giới. Phân chia là để nhận thức rõ bản chất của nghiên cứu khoa

học, để có cơ sở lập kế hoạch nghiên cứu, cụ thể hóa các cam kết trong hợp đồng nghiên
cứu giữa các đối tác. Tuy nhiên trên thực tế, trong một đề tài có thể tồn tại cả ba loại hình
nghiên cứu, hoặc tồn tại hai trong ba loại hình nghiên cứu.
I. LÀM THẾ NÀO ĐỂ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐẠT HIỆU QUẢ
1. Trình tự các bước cần tiến hành trong nghiên cứu khoa
học
Rất nhiều nghiên cứu viên gặp khó khăn trong giai đoạn đầu nghiên cứu vì không
biết làm gì trước, làm gì sau. Do vậy họ thường bố trí công việc nghiên cứu lôn xộn,
không có tổ chức. Điều này trái ngược hoàn toàn với yêu cầu của nghiên cứu khoa học
là phải được tổ chức một cách khoa học, bài bản. Dẫu rằng tùy từng nghiên cứu cụ thể
mà sẽ có các bước tiến hành cụ thể, nhưng tác giả cho rằng người nghiên cứu nên tiến
hành một số bước bắt buộc theo trình tự thể hiện trên hình :

Bước 1: Mô tả các khó khăn trên thực tế
Trong thực tế khi gặp khó khăn thì lúc đó mới cần tiến hành nghiên cứu khoa học
với mục đích là giải quyết các khó khăn đó. Vậy có thể nói việc mô tả các khó khăn
đang gặp phải chính là sự mở đầu cho một nghiên cứu. Có rất nhiều nghiên cứu
không chỉ ra được các khó khăn hiệu hữu vì vậy tác giả không biết được tại sao
những nghiên cứu này lại được tiến hành và nhằm mục đích gì.
Bước 2: Tổng quan về các nghiên cứu liên quan
Đây là thời gian tìm hiểu xem vấn đề dự định nghiên cứu đã và đang được nghiên
cứu bởi các học giả khác chưa, ở mức độ nào qua đó có thể học những điều hay và
tránh được việc lặp lại trong nghiên cứu trước. Tuy nhiên tác giả thấy có rất nhiều
nghiên cứu viên không tìm hiểu về các nghiên cứu đã thực hiện mà bắt tay vào
nghiên cứu ngay, dẫn đến việc không có một cái nhìn tổng quan về cần nghiên cứu.

Bước 3: Xác định mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu là những dự định đặt ra để giải quyết được các khó khăn đã chỉ
ra ở bước 1. Nghiên cứu viên phải luôn bám theo các mục tiêu đã đề ra trong suốt
quá trình và phải hoàn thành chúng trước khi nghiên cứu được khép lại. Các nghiên
cứu hiện nay thường thể hiện rất rõ ràng phần này
Bước 4: Phương pháp nghiên cứu
Đây là phần chỉ ra hướng nghiên cứu mà nghiên cứu viên muốn tiến hành để đạt
được mục tiêu đề ra trong bước 3. Thông thường, các phương pháp thu thập dữ liệu
hay thí nghiệm và phân tích chúng phải được thể hiện rõ. Ngoài ra, các giả thuyết và
phạm vi nghiên cứu, kinh phí và thời gian cần thiết, các đề xuất dự định, … cũng
cần phải được chỉ ra một cách rõ ràng.
Bước 5: Dữ liệu thực tế hoặc giả định cụ thể

Dữ liệu là phần rất quan trọng trong nghiên cứu khoa học. Chúng có thể được thu
thập qua quá trình điều tra tại hiện trường hoặc là dữ liệu giả định thu được từ thí
nghiệm, mô phỏng. Những dữ liệu này có thể chỉ ra những phát triển của thực tế
trong quá khứ và hiện tại, qua đó có thể dự đoán tương lai, so sánh với lý thuyết,…
Thông thường, giai đoạn thu thập dữ liệu tiêu tốn rất nhiều thời gian và tiền bạc của
người nghiên cứu và sự chính xác của dữ liệu sẽ ảnh hưởng lớn đến kết quả cuối
cùng của nghiên cứu.
Bước 6: Phân tích dữ liệu hoặc chạy chương trình
Đến đây nghiên cứu khoa học sẽ có 2 hướng đi. Một là phân tích các dữ liệu thu
thập được để có các kết luận cho những điều đã và đang xẩy ra trong thực tế, từ đó
có các đề xuất cho tương lai. Một cách khác là lập ra các chương trình máy tính để
mô phỏng, tính toán lý thuyết dựa vào hoặc so sánh với các dữ liệu thực tế. Phần này

thường liên quan tới các chuyên môn sâu nên chỉ có những người có cùng lĩnh vực
nghiên cứu mới hiểu và quan tâm đến, còn độc giả thông thường nói chung không
chú ý đến.
Bước 7: Phát hiện hoặc đề xuất cái mới
Thường mỗi nghiên cứu khoa học sẽ tiến đến kết thúc sau khi một vài phát hiện
hoặc đề xuất mới được đưa ra. Những điều mới này chính là kết quả cuối cùng của
nghiên cứu có thể áp dụng làm cho thực tế hiện tại và tương lai tốt hơn và phải thỏa
mãn được các mục tiêu nghiên cứu đề ra trong bước 3. Nhiều nghiên cứu không thể
hiện rõ phần này sẽ gây khó hiểu cho người đọc. Tác giả đề nghị phần này phải tách
ra riêng biệt, không nên gộp vào phần phân tích dữ liệu hoặc phần kết luận.
Bước 8: Kết luận
Đây là phần cuối cùng và được độc giả chú ý đến trước tiên để xem kết quả của

nghiên cứu rồi sau đó mới đến các phần khác nếu có quan tâm. Từ “kết luận” cũng
đã thể hiện rõ ý nghĩa của nó. Từ “kết” có nghĩa là kết thúc, tổng kết. Người nghiên
cứu phải đúc kết lại toàn bộ nghiên cứu theo một trình tự khoa học và ngắn nhất để
người đọc có thể hình dung tổng thể toàn bộ quá trình. Từ “luận” là bình luận các

×