Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.9 KB, 32 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. NH bao
gồm nhiều loại tuỳ thuộc sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói
riêng, trong đó, NHTM thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số
lượng các NH.
Các NHTM thường được biết đến như là một chủ thể của quá trình phân phối của cải
xã hội trong hệ thống tài chính quốc gia, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ mà
nhiệm vụ chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cho vay và
cung ứng các dịch vụ thanh toán. Hệ thống NHTM ra đời với mạng lưới rộng khắp nên đã
thực sự tiếp cận được với các chủ thể tạm thời thừa vốn và các chủ thể tạm thời thiếu vốn
trong nền kinh tế. Là một trung gian tài chính, NHTM tổ chức huy động các luồng tiền
nhàn rỗi trong xã hội, sau đó thực hiện phân phối lại các nguồn vốn này cho các chủ thể
đang thiếu vốn và thực sự cần vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, phục vụ đời sống.
Với vai trò quan trọng như vậy, nhưng quan niệm thế nào về một NH, và sự phân biệt
nó với các tổ chức phi NH không phải là điều đơn giản. Rõ ràng, có thể định nghĩa NH
thông qua chức năng mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề không chỉ
chức năng của các NH thay đổi, mà có sự “thâm nhập” vào chức năng hoạt động NH của
các đối thủ cạnh tranh. Do đó tuỳ theo điều kiện của mỗi nước và sự phát triển của hệ
thống tài chính nước đó mà có những định nghĩa khác nhau về NH.
Theo luật NH của Pháp thì NH được định nghĩa: “NHTM là những xí nghiệp hay cơ
sở nào đó thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký khác, hay hình thức khác
số tiền mà họ dung cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”
Còn luật pháp Ấn Độ lại có cái nhìn về NH như sau, họ định nghĩa: “NHTM là cơ sở
nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư.”
Đó là các quan điểm về NH đứng trên giác độ luật pháp. Còn trên giác độ tài chính NH
thì sao? Một định nghĩa khác về NH được Giáo sư Peter Rose đưa ra như sau: “NH là loại
hình tổ chức tài chính cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng,
tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ


một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.”
Ở Việt Nam, theo Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990 của Việt Nam: “Ngân hàng thương
mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà nghiệp vụ thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền
gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, chiết khấu
và làm phương tiện thanh toán”.
Theo quy định tại luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 định nghĩa: “Ngân hàng
thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các
hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”. Như
vậy thông qua một số khái niệm về NHTM, ta có thể hiểu NHTM là một loại hình doanh
nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tín dụng với mục đích thu lợi nhuận, và nó có
những đặc trưng như sau :
- Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép nhân ký thác của công chúng với
trách nhiệm hoàn trả.
- Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của công chúng để
cho vay, chiết khấu và thực hiện các dịch vụ tài chính khác.
Như vậy NHTM cũng là một doanh nghiệp nhưng là một doanh nghiệp đặc biệt, nó
không trực tiếp tham gia sản xuất lưu thông hàng hoá nhưng lại góp phần phát triển kinh
tế, xã hội thông qua việc cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, thực hiện chức năng trung
gian thanh toán và dịch vụ NH. Lịch sử ra đời và phát triển của ngành NH đã chứng minh
được rằng: NHTM là sản phẩm tất yếu của quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá và
NHTM cũng lại chính là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển lên tầm cao mới.
1.1.2. Chức năng của Ngân hàng Thương mại
1.1.2.1. Chức năng trung gian tín dụng
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của NHTM và có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là “cầu nối” giữa
người dư thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Thông qua việc huy động các khoản vốn
tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế bằng nhiều hình thức, NHTM hình thành quỹ
cho vay để cung cấp tín dụng cho nền kinh tế. Với chức năng này NHTM vừa đóng vai trò
là người đi vay vừa đóng vai trò là người cho vay.

Với chức năng trung gian tín dụng, NHTM đã góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên
tham gia bao gồm: người gửi tiền, ngân hàng, người đi vay, đồng thời góp phần thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế.
- Đối với người gửi tiền thì thu được lợi từ khoản vốn tạm thời nhàn rỗi của mình gửi
tại NH do NH trả lãi đồng thời NH còn đảm bảo sự an toàn về khoản tiền gửi và
cung cấp các dịch vụ thanh toán tiện lợi.
- Đối với người đi vay thì được thỏa mãn nhu cầu vay vốn để kinh doanh.
- Đối với NHTM thì kiếm được lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi
suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới.
- Đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế thông qua việc cung ứng vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất được
thực hiện liên tục với quy mô ngày một mở rộng. Thực hiện chức năng này. NHTM
đã biến vốn tạm thời nhàn rỗi chưa tham gia hoạt động thành vốn hoạt động, kích
thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Ngày nay quan niệm chức năng tài chính của NHTM trở nên biến hoá hơn. Sự phát
triển của thị trường tài chính làm xuất hiện những khía cạnh khác của chức năng này. NH
có thể đứng ra làm trung gian giữa nhà phát hành chứng khoán với những nhà đầu tư,
chuyển giao những mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán,… Do đó, NHTM không chỉ
làm trung gian giữa người gửi tiền và người vay tiền mà còn là trung gian giữa người đầu
tư và người cần vay vốn trên thị trường.
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của NHTM
quyết định sự tồn tại và phát triển của NH đồng thời cũng là cơ sở để thực hiện các chức
năng khác.
1.1.2.2. Chức năng trung gian thanh toán
Ngân hàng thương mại làm trung gian thanh toán khi thực hiện thanh toán theo yêu cầu
của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi thanh toán của họ để thanh toán tiền
hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và
các khoản thu khác. NHTM đóng vai trò là người “thủ quỹ” cho các doanh nghiệp và cá
nhân bởi NH là người giữ tài khoản của họ và thực hiện các lệnh thu chi của khách hàng.
Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán trên cở sở thực hiện

chức năng trung gian tín dụng. Bởi vì thông qua việc nhận tiền gửi, NH đã mở cho khách
hàng tài khoản tiền gửi để theo dõi các khoản thu, chi. Đó chính là tiền đề để khách hàng
thực hiện thanh toán qua NH. Hơn nữa, việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt giữa các
chủ thể trong nền kinh tế có nhiều hạn chế như rủi ro, chi phí lớn,…điều này đã tạo thêm
nhu cầu thanh toán qua NH của khách hàng.
Chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế - xã
hội. NHTM cung ứng cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tùy theo nhu cầu. Các
chủ thể kinh tế không cần giữ, mang và thanh toán, chi trả cho khách hàng bằng tiền mặt.
Do đó tiết kiệm được chi phí, thời gian và đảm bảo được thanh toán an toàn. Đồng thời
thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn,…góp
phần phát triển kinh tế - xã hội.
Đối với NHTM, chức năng này góp phần tăng thêm lợi nhuận cho NH thông qua việc
thu phí thanh toán, tăng nguồn vốn cho vay của NH thể hiện trên số dư Có trogn tài khoản
tiền gửi của khách hàng.
1.1.2.3. Chức năng tạo tiền
Nguồn vốn NHTM huy động được thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản đối
với khách hàng của mình để thanh toán cho khách hàng của NH khác tạo nên số tiền gửi
(tức tiền tín dụng). Cứ như thế số tiền này được vận hành qua nhiều NHTM sẽ làm cho nó
lớn lên gấp nhiều lần so với số ban đầu. Mức mở rộng tiền gửi này phụ thuộc vào hệ số mở
rộng tiền gửi. Hệ số này chịu tác động bởi tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Như vậy, quá trình tạo tiền chỉ có thể thực hiện được khi có sự tham gia của cả hêj
thống NHTM chứ bản thân một NHTM không thể tạo ra được. Tuy nhiên, xét theo phương
diện toàn thể hệ thống NH thì số tiền dự trữ (tiền gửi) đó không rời khỏi hệ thống mà trở
thành khoản dự trữ của NH khác để NH này tạo ra các khoản cho vay mới và nhờ vậy quá
trình tạo tiền lại tiếp tục.
Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng phương tiện thanh toán trong nền
kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Rõ ràng khái niệm về tiền hay tiền
giao dịch không chỉ là tiền do NHTW phát hành ra mà còn bao gồm một bộ phận quan
trọng là lượng tiền ghi sổ do các NHTM tạo ra.
1.1.3. Những hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại

1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn
Đây là nghiệp vụ cơ bản, đầu tiên chủ yếu của NHTM, mà qua nghiệp vụ này thì các
nghiệp vụ khác của NHTM mới thực hiện được.
Để thành lập NHTM phải có một số vốn nhất định (vốn pháp định), đồng thời mỗi
NHTM phải có một số vốn ban đầu (vốn tự có) để làm tiền đề cho các hoạt động kinh
doanh của mình. Tuy nhiên, đối với hầu hết các NH thì số vốn tự có là rất nhỏ mà nguồn
vốn chủ yếu của các NHTM là vốn huy động từ các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế
thông qua việc thu hút tiền gửi bằng các hình thức khác nhau và cung cấp các dịch vụ ngân
hàng. Cụ thể, NHTM thu hút vốn bằng các hình thức sau:
- Huy động tiền gửi: NHTM cung cấp tới khách hàng đa dạng các loại hình tiền gửi
như tiết kiệm có kỳ hạn, không kỳ hạn; Tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn; Tiền gửi
thanh toán; Tài khoản séc; Chứng chỉ tiền gửi (CDs)… với những cách tính lãi suất
hấp dẫn như: Tính lãi định kỳ; Lãi suất bậc thang; Lãi cộng dồn; Lãi suất luỹ tiến…
để thu hút nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư và nguồn tiền chưa cần dùng đến của
các tổ chức.
- Huy động trên thị trường liên NH: Đi vay các tổ chức tín dụng khác trên thị trường
liên NH là các mà nhiều ngân hàng thường dùng vào những thời điểm nhất định như
đáp ứng tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay chi trả cấp bách.
- Huy động trên thị trường vốn: Các NHTM có thể phát hành các giấy nợ như kỳ
phiếu, trái phiếu, tín phiếu để huy động vốn trung và dài hạn, tài trợ dự án hay đầu
tư vào bất động sản, mua sắm nhà cửa, văn phòng. Tuy nhiên nguồn huy động này
phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của thị trường tài chính cũng như uy tín của
ngân hàng phát hành.
- Vay từ NHTW: Với vai trò là nhà quản lý cho Chính phủ các nước trong lĩnh vực
ngân hàng - tài chính, NHTW là người cho vay cuối cùng đối với các NHTM. Với
mục đích giải quyết nhu cầu cấp bách về thiếu hụt dự trữ bắt buộc hay thanh toán
khẩn cấp, NHTW cho các NHTM vay dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu hoặc
tái cấp vốn. Tuy nhiên để vay được từ NHTW thì NHTM phải chịu sự kiểm soát
chặt chẽ.
- Các nguồn huy động khác khác: bao gồm nguồn uỷ thác đầu tư, nguồn tiền thanh

toán,… Các nguồn uỷ thác đầu tư có thể từ Ngân sách Nhà nước, các tổ chức phi
Chính phủ, các tổ chức quốc tế,… uỷ thác cho ngân hàng sử dụng vốn hoặc rải ngân
vốn tới người thụ hưởng. Ngoài ra ngân hàng có thể sử dụng nguồn tiền thanh toán
như tiền ký quỹ khi mở L/C hoặc xin bảo lãnh. Nguồn huy động này phụ thuộc vào
hoạt động ngoại bảng của NHTM và chất lượng các dịch vụ thanh toán mà ngân
hàng cung cấp.
1.1.3.2. Hoạt động cho vay và đầu tư
Các NHTM hoạt động chủ yếu dựa trên vốn huy động, hoạt động cho vay và đầu tư là
hoạt động cơ bản và thường xuyên của NHTM để bảo toàn và tăng trưởng nguồn vốn.
- Hoạt động cho vay: Hoạt động cho vay thể hiện vai trò trung gian tài chính của
NHTM đối với nền kinh tế và là kênh dẫn vốn hiệu quả nhất. Hoạt động cho vay
của NHTM được coi là cách tạo tiền (tiền ghi sổ) của hệ thống ngân hàng. Trong
bảng tổng kết tài sản của một NHTM, cho vay luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Theo
thời hạn vay có thể chia ra thành cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; Theo hình
thức bảo đảm thì bao gồm cho vay có tài sản đảm bảo và cho vay không có tài sản
đảm bảo… Nhưng dù có phân chia theo tiêu thức nào thì điều mà NHTM luôn quan
tâm đó là tính an toàn và khả năng sinh lời của mỗi khoản vay.
- Hoạt động đầu tư: Đầu tư là hoạt động của các NHTM nhằm đa dạng hoá tài sản và
phân tán rủi ro theo nguyên tắc không nên bỏ trứng vào cùng một giỏ. NHTM đầu
tư nguồn vốn huy động được vào thị trường tài chính hay hùn vốn kinh doanh. Các
NHTM thường xuyên nắm giữ chứng khoán vì đây là tài sản không chỉ mang lại thu
nhập mà còn có thể đem bán khi cần. Ngoài ra, các NHTM còn đầu tư góp vốn hoặc
hùn vốn vào những dự án lớn, thành lập các công ty. Với khả năng phân tích tài
chính và thẩm định dự án tốt, những dự án và công ty mà NHTM góp vốn thường
đem lại hiệu quả tài chính cao. Vì vậy để hạn chế hoạt động đầu tư của các NHTM,
chính phủ một số nước quy định việc NHTM tham gia vào thị trường chứng khoán
phải có công ty tài chính hạch toán độc lập hay không được đầu tư quá 40% vốn
điều lệ công ty.
1.1.3.3. Hoạt động trung gian
Đặc trưng cơ bản của hoạt động này là NH phải bỏ vốn ra rất ít thậm chí không phải bỏ

vốn ra để kinh doanh, rủi ro ít song đối với những nghiệp vụ này thì đòi hỏi kỹ thuật và
công nghệ NH.
Hoạt động trung gian là việc NH đứng ra làm trung gian, làm môi giới để phục vụ theo
yêu cầu của khách hàng như nghiệp vụ thu hộ, nghiệp vụ chi hộ, nghiệp vụ thanh toán,
nghiệp vụ phát hành chứng khoán, nghiệp vụ ủy thác, tư vấn tài chính, bảo lãnh, bảo quản
vật có giá,.. và thu phí các hoạt động đó. Thông qua việc thực hiện các hoạt động này, NH
sẽ được hưởng một khoản lệ phí hoa hồng - là một phần tạo nên thu nhập cho NH. Khi nền
kinh tế ngày càng phát triển thì nghiệp vụ này ngày càng được mở rộng và góp phần đem
lại nguồn thu nhập đáng kể cho NH.
Do đó trong quá trình hoạt động, NHTM ngoài việc đầu tư cho các hoạt động huy động
và sử dụng vốn thì NH cũng nên quan tâm đến việc đầu tư trang thiết bị, đào tạo đội ngũ
cán bộ khoa học - kỹ thuật, áp dụng được các ứng dụng tối tân nhất của công nghệ NH để
mở rộng các hoạt động trung gian.
Đến nay các hoạt động trung gian đã góp phần mang lại nguồn thu nhập ổn định và rủi
ro thấp cho NH. Trong đó hoạt động bảo lãnh cũng góp phần không nhỏ và rất phát triển
trong nền kinh tế thị trường., đặc biệt là các giao dịch thương mại quốc tế. Nền kinh tế thế
giới ngày càng phát triển, các hợp đồng có giá trị lớn xuất hiện ngày càng nhiều vì vậy
càng khẳng định sự cần thiết của bảo lãnh trong NH.
Có thể nói, hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn và hoạt động trung gian là
ba hoạt động chủ yếu của NHTM, các hoạt động này có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Chính vì vậy người làm NH phải biết bố trí một cách khoa học và phù hợp giữa các hoạt
động để đảm bảo NH hoạt động có hiệu quả.
1.2. HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm
Hoạt động bảo lãnh NH ra đời đầu tiên ở Mỹ vào những năm 70 dưới hình thức Bảo
lãnh thư hoặc Tín dụng thư dự phòng và sau đó được quốc tế hoá như là giải pháp hữu hiệu
nhất đảm bảo thực thi nghĩa vụ, đặc biệt là nghĩa vụ tài chính trong các giao dịch thương
mại ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Ngày nay, khả năng ứng dụng rộng rãi trong các loại hình giao dịch (kể cả trong các
giao dịch tài chính và phi tài chính, thương mại hay phi thương mại) nên vị trí của bảo lãnh

NH ngày càng được củng cố và mở rộng không ngừng. Hầu hết các giao dịch lớn trong
phạm vi nội địa cũng như trên phạm vi quốc tế đều có sự hỗ trợ của bảo lãnh NH. Cụ thể
thì hoạt động bảo lãnh NH được áp dụng trong mọi lĩnh vực như: vay vốn, đấu thầu, thực
hiện hợp đồng, đảm bảo chất lượng sản phẩm, thanh toán, hoàn thanh toán, bảo hành, bảo
trì, bảo dưỡng…
Có thể nhìn nhận bảo lãnh NH dưới các góc độ sau:
- Xét theo khía cạnh học thuật, bảo lãnh NH là một hình thức “ tín dụng chữ ký”, là
hoạt động không dùng đến vốn của NH.
- Xét theo khía cạnh thương mại quốc tế, bảo lãnh NH được xem như một loại hình
tài trợ thương mại nhằm chống đỡ những tổn thất của người thụ hưởng bảo lãnh do
sự vi phạm nghĩa vụ của phía đối tác.
- Theo luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12, “ Bảo lãnh NH là một trong các
hình thức cấp tín dụng, được thực hiện thông qua sự cam kết bằng văn bản của tổ
chức tín dụng với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết”.
Vậy bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh)
với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ
chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
- Các thành phần tham gia trong nghiệp vụ bảo lãnh thường có 3 bên:
+ Bên được bảo lãnh: Là bên yêu cầu NH mở thư bảo lãnh. Đây là khách hàng của NH.
Trong trường hợp có sự vi phạm hợp đồng, NH sẽ phải thanh toán thay và bên được
bảo lãnh phải có nghĩa vụ bồi hoàn cho NH.
+ Bên nhận bảo lãnh: là bên được hưởng bồi thường theo các quy định trong thư bảo
lãnh khi có sự vi phạm hợp đồng, với điều kiện bên nhận bảo lãnh phải xuất trình đầy
đủ các chứng từ phù hợp với các điều khoản được quy định trong hợp đồng bảo lãnh.
+ Bên bảo lãnh: là bên đứng ra phát hành thư bảo lãnh và có nghĩa vụ thanh toán cho
các bên nhận bảo lãnh khi bên này yêu cầu; đồng thời xuất đầy đủ các chứng từ phù
hợp với những điều đã kí kế trong hợp đồng bảo lãnh, Bảo lãnh NH có nghĩa là NH là

bên bảo lãnh.
1.2.2. Đặc điểm của nghiệp vụ bảo lãnh
 Bảo lãnh là mối quan hệ nhiều bên phụ thuộc lẫn nhau
Quan hệ giữa người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh. Đây là cơ sở phát sinh
yêu cầu bảo lãnh. Trong mối quan hệ này, người được bảo lãnh có nghĩa vụ bắt buộc phải
thực hiện đối với người được hưởng bảo lãnh. Đó có thể là nghĩa vụ về tài chính( nghĩa vụ
trả nợ, nghĩa vụ đóng thuế,..) hoặc nghĩa vụ phi tài chính (như nghĩa vụ cung ứng hàng
hóa, dịch vụ, nghĩa vụ bảo hành sản phẩm,…).
Quan hệ giữa NH bảo lãnh với người được bảo lãnh. Đó là quan hệ giữa NH cấp tín
dụng và khách hàng hưởng tín dụng.
Trong nghiệp vụ bảo lãnh thường có sự tham gia đồng thời của 3 hợp đồng độc lập:
Hợp đồng giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh (được gọi là “thư bảo lãnh”), Hợp đồng
giữa bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh (được gọi là “hợp đồng phát hành bảo lãnh”), hợp
đồng giữa bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh (đây có thể là hợp đồng mua bán, hợp
đồng thi công, hồ sơ vay vốn,..). Tuy có sự phân chia, nhưng ba mối quan hệ này vẫn có
mối quan hệ gắn kết nhau và có ảnh hưởng lẫn nhau. Do đó, mỗi bên có trách nhiệm thực
hiện hợp đồng với hai bên còn lại.
 Tính độc lập của bảo lãnh
Bảo lãnh NH có tính độc lập so với hợp đồng. Mặc dù mục đích của NH là bồi hoàn
cho người thụ hưởng những thiệt hại từ việc không thực hiện hợp đồng của người được
bảo lãnh trong quan hệ hợp đồng của người được bảo lãnh, nhưng việc thanh toán của một
bảo lãnh chỉ hoàn toàn căn cứ vào các điều khoản và điều kiện được quy định trong bảo
lãnh.
 Tính chất vô điều kiện của bảo lãnh NH
Tính chất này được thể hiện ở chỗ, tổ chức tín dụng bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ
đối với người nhận bảo lãnh ngay sau khi người này đã xuất trình các chứng từ phù hợp
với nội dung của thư bảo lãnh hay cam kết bảo lãnh do tổ chức tín dụng phát hành, mà
không phụ thuộc vào việc người được bảo lãnh có khả năng tự thực hiện nghĩa vụ của họ
hay không. Sự ghi nhận tính chất vô điều kiện trong giao dịch bảo lãnh NH là một đảm bảo
tương đối chắc chắn cho lợi ích của người nhận bảo lãnh, đồng thời cũng là lợi thế của bảo

lãnh NH so với các hình thức bảo lãnh khác không phải do tổ chức tín dụng thực hiện. Nhờ
lợi thế này các tổ chức tín dụng tỏ ra là người có khả năng cung cấp dịch vụ bảo đảm tốt
nhất trên thị trường và dường như sự bảo đảm bằng bảo lãnh của tổ chức tín dụng bao giờ
cũng được người nhận bảo lãnh ưa chuộng hơn sự bảo đảm bằng bảo lãnh của các chủ thể
khác, do tính chất độc lập, vô điều kiện và không thể huỷ ngang của bảo lãnh NH. NH
không thể viện cớ bên được bảo lãnh còn nợ tiền của NH, bên được bảo lãnh phá sản…để
trì hoãn việc thanh toán cho bên nhận bảo lãnh khi bên nhận bảo lãnh đưa ra đầy đủ chứng
từ.
 Tính phù hợp của bảo lãnh
Khi người thụ hưởng bảo lãnh đến yêu cầu NH thanh toán thì NH có trách nhiệm kiểm
tra các chứng từ do người thụ hưởng xuất trình. NH bảo lãnh có quyền từ chối thanh toán
nếu như chứng từ có dấu hiệu không hợp lệ hay những điều kiện của bảo lãnh không được
đáp ứng.
 Bảo lãnh NH là một hoạt động ngoại bảng
Bảo lãnh NH là một hình thức tài trợ thông qua uy tín. NH không phải xuất tiền ngay
khi kí bảo lãnh. Do đó bảo lãnh được coi là một tài sản ngoại bảng. Khi NH thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh cho bên nhận bảo lãnh thì bảo lãnh được xếp vào nội bảng. Lúc này bảo
lãnh được xếp vào loại tài sản xấu cấu thành nợ quá hạn. Qua đó cho ta thấy, bảo lãnh cũng
là một nghiệp vụ chứa đựng rủi ro như một khoản cho vay. Do vậy, NH phải phân tích kỹ
lưỡng khách hàng trước khi nhận bảo lãnh.
 Bảo lãnh NH là giao dịch không thể đơn phương huỷ ngang
Theo thông lệ quốc tế bởi những người đại diện có thẩm quyền của tổ chức tín dụng
bảo lãnh, đặc điểm này không được ghi nhận trong quy tắc thực hành tín dụng dự phòng
quốc tế. “.. là cam kết không huỷ ngang, độc lập , kèm chứng từ và ràng buộc khi phát
hành . . .” mà còn được công nhận bởi luật quốc gia của nhiều nước trên thế giới về bảo
lãnh NH. Tuy nhiên, đặc điểm này chưa được phản ánh trong pháp luật thực định Việt Nam
về bảo lãnh nói chung và về bảo lãnh NH nói riêng, khiến cho chế định về bảo lãnh NH
trong pháp luật Việt Nam thiếu sự tương đồng với chế định về bảo lãnh NH trong pháp luật
của các nước cũng như pháp luật quốc tế, tập quán và thông lệ quốc tế về bảo lãnh .
Tính chất không thể huỷ ngang của bảo lãnh NH thể hiện ở chỗ, sau khi cam kết bảo

lãnh hay thư cam kết đã được phát hành hợp lệ bởi một tổ chức tín dụng, không một
cơ quan nào (ví dụ như chủ tịch hội đồng quản trị hay tổng giám đốc hoặc giám đốc
chi nhánh…) có thể lấy danh nghĩa đại diện cho tổ chức tín dụng phát hành bảo lãnh
để tuyên bố đơn phương huỷ bỏ cam kết bảo lãnh , trừ khi tuyên bố này được chấp
nhận bởi người nhận bảo lãnh. Nguyên tắc này đảm bảo cho người nhận bảo lãnh có
thể yên tâm đòi tiền tổ chức tín dụng bảo lãnh khi đến hạn của nghĩa vụ được bảo
lãnh mà người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ của họ, bằng cách xuất trình
chứng cứ về việc người được bảo lãnh đã vi phạm về nghĩa vụ đối với mình. Nếu bảo
lãnh NH không có tính chất này, nghĩa là nếu bên bảo lãnh có thể đơn phương huỷ
ngang bất kỳ lúc nào theo ý của mình thì khi đó quyền lợi của người nhận bảo lãnh,
cho dù của người có khả năng tài chính mạnh như tổ chức tín dụng, cũng sẽ trở thành
vô nghĩa và không cần thiết
 Bảo lãnh NH là giao dịch được xác lập và thực hiện dựa trên chứng từ
Tính chất chứng từ của bảo lãnh NH thể hiện ở chổ, khi tổ chức tín dụng phát hành
cam kết bảo lãnh (thư bảo lãnh) cũng như khi người nhận bảo lãnh thực hiện quyền yêu
cầu hay khi tổ chức tín dụng bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ của người bảo lãnh ,các chủ thể
này đều bắt buộc phải thiết lập bằng văn bản. Những văn bản này không những là bằng
chứng chứng minh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch bảo lãnh mà còn là
cơ sở pháp lý để các bên thực hiện được quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình đối với phía
bên kia. Chẳng hạn, khi người nhận bảo lãnh yêu cầu tổ chức tín dụng bảo lãnh thực hiện
nghĩa vụ thay người được bảo lãnh, họ phải xuất trình các chứng từ phù hợp với nội dung
của cam kết bảo lãnh thì mới được trả tiền. Ngược lại, tổ chức tín dụng bảo lãnh cũng phải
dựa vào văn bản bảo lãnh (là một loại chứng từ) do mình phát hành và đối chiếu với các
chứng từ do người nhận bảo lãnh thiết lập và xuất trình để xác định việc đòi tiền của người
nhận bảo lãnh có hợp lệ không và mình có phải trả tiền theo yêu cầu đó hay không.
Theo thông lệ quốc tế về bảo lãnh NH, có ba loại chứng từ quan trọng nhất làm cơ sở
cho các bên thực hiện giao dịch bảo lãnh NH, đó là văn bản bảo lãnh (hợp đồng bảo
lãnh – cam kết bảo lãnh hay thư bảo lãnh); yêu cầu trả tiền (Demand for payment) và
tuyên bố vi phạm (statement of default). Nếu không có ba loại chứng từ này, các bên
không thể xác định được việc bảo lãnh NH có tồn tại hay không và quyền, nghĩa vụ

của các bên sẽ được thực hiện như thế nào. Việc xây dựng nguyên tắc bảo lãnh dựa
vào chứng từ không chỉ nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp và chính đáng của các
bên giao dịch, mà còn góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm cũng như tính kỷ luật
hợp đồng, trên cơ sở đó tạo dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch
và an toàn hiệu quả cho các tổ chức tín dụng.
1.2.3. Chức năng của nghiệp vụ bảo lãnh
1.2.3.1. Bảo lãnh cung cấp một sự đảm bảo cho người thụ hưởng
Mục đích của bảo lãnh NH là phải bồi hoàn tài chính cho người thụ hưởng bảo lãnh
những thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh gây ra. Do đó bảo
lãnh mang chức năng bảo đảm hơn là thanh toán. Điều này được thể hiện rất rõ trong bảo
lãnh dự thầu, bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm, bảo lãnh bảo đảm chất lượng công
trình…Do vậy bảo lãnh được dùng cho mục đích an toàn cho người thụ hưởng khi có sự vi
phạm hợp đồng của người được bảo lãnh.
1.2.3.2. Bảo lãnh là một công cụ tài trợ
Trong các hợp đồng thi công và các hợp đồng sản xuất hàng hoá lớn cần phải có một
thời gian dài để thực hiện hợp đồng. Thực tế này đặt ra nhu cầu cần phải được tạm ứng
trước một số tiền để thực hiện hợp đồng. Ví dụ công ty xây dựng sẽ yêu cầu chủ công trình
ứng trước một số tiền để mua nguyên vật liệu cho công trình và trả lương cho công nhân.
NH của công ty xây dựng sẽ phát hành "Bảo lãnh hoàn thanh toán" như là một công cụ tài
trợ để công ty xây dựng nhận được một khoản tiền ứng trước từ chủ đầu tư
Nhờ hoạt động bảo lãnh của NH mà hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng
được thực hiện đúng tiến độ và đạt hiệu quả cao. Đặc biệt trong thương mại quốc tế, bảo
lãnh được biết đến như một công cụ tài trợ cho xuất nhập khẩu. Đối với thị trường chúng
khoán ở những nước phát triển, NH là người bảo lãnh tài trợ cho các doanh nghiệp phát
hành chứng khoán…
1.2.3.3. Bảo lãnh có chức năng thúc đẩy hoàn thành hợp đồng
Chức năng này xuất phát từ người được bảo lãnh, có thể bị người thụ hưởng bảo lãnh
yêu cầu thanh toán bầt kỳ lúc nào trong thời gian hiệu lực của bảo lãnh nếu như họ vi phạm
hợp đồng, ở bất kể mức độ nào, là bao nhiêu. Người được bảo lãnh luôn phải chịu áp lực
của việc phải bồi hoàn bảo lãnh. Chính vì vậy bảo lãnh như có tác dụng thúc đẩy người

được bảo lãnh hoàn tất hợp đồng đã được ký kết và hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn.
1.2.4. Vai trò của nghiệp vụ bảo lãnh
 Đối với nền kinh tế:
Bảo lãnh đóng vai trò là chất xúc tác thương mại. Nhờ có bảo lãnh mà việc thực hiện
hợp đồng vay vốn mở rộng sản xuất kinh doanh trở nên thuận lợi hơn.
Nhu cầu về vốn luôn là một vấn đề cấp thiết, nhất là trong điều kiện hiện nay, trong xu
thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, việc vay vốn nước ngoài trở nên phổ biến và
đóng vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên do khoảng cách địa lý, bất đồng ngôn ngữ là những
trở ngại khiến các thành viên không hiểu rõ nhau. Do đó, trong quan hệ hợp tác nhất thiết
phải có hoạt động bảo lãnh bảo đảm cho quyền lợi của các bên.
 Đối với bên được bảo lãnh
Bảo lãnh ra đời đã trở thành công cụ tài trợ, giúp cho bên được bảo lãnh có thể vay vốn
với chi phí thấp hơn.
Do đó mà bên được bảo lãnh có thể sử dụng được nguồn vốn một cách triệt để và tối
ưu nhất. Nhờ có bảo lãnh đã giúp cho bên được bảo lãnh có thể tiếp cận được với những
dự án, những hợp đồng…ngay cả khi họ chưa có đủ uy tín đối với đối tác, cho dù họ hoàn
toàn có khả năng và phương tiện thực hiện hợp đồng.
Ngoài ra, nhờ có bảo lãnh mà bên bảo lãnh thường xuyên chịu sự giám sát của NH, tạo
động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có trách nhiệm hơn và hoàn thành các
nghĩa vụ của mình đối với bên nhận bảo lãnh.
 Đối với bên nhận bảo lãnh
Bảo lãnh là công cụ bảo đảm quyền lợi cho họ. Có bảo lãnh bên nhận bảo lãnh sẽ ít có
nguy cơ bị thiệt hại hơn bởi tổ chức bảo lãnh là một tổ chức được họ tín nhiệm. Nếu rủi ro
xảy ra, khi đối tác của họ (bên được bảo lãnh) không thực hiện đúng các cam kết trong hợp
đồng và không bồi thường cho bên nhận bảo lãnh những thiệt hại, bên nhận bảo lãnh sẽ

×