Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHTM VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.5 KB, 18 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHTM VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI
NHTM
1.1.

NHTM và vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế
1.1.1. Khái niệm NHTM
Ngân hàng thương mại là nơi nhận tiền ký thác, tiền gửi khơng kỳ hạn và có kỳ hạn

để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của
chính ngân hàng.
Theo điều 20 Luật Các Tổ chức tín dụng do Quốc hội khóa X thơng qua tháng
12/1997 có nêu: Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện
toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan. Tổ chức tín dụng là loại
hình doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của
pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền
gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Hiện nay ở Việt Nam, NHTM tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau:
- Ngân hàng thương mại Nhà nước: Đây là các ngân hàng giữ vai trò chủ đạo trong
hệ thống ngân hàng ở nước ta, do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức hoạt động
kinh doanh, góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế của Nhà nước.
- Ngân hàng thương mại cổ phần: Là NHTM được thành lập dưới hình thức cơng ty
cổ phần, trong đó có các doanh nghiệp Nhà nước, tổ chức tín dụng, tổ chức khác và cá
nhân cùng góp vốn theo quy định của ngân hàng Nhà nước . Loại hình ngân hàng này
hiện tại nhỏ hơn ngân hàng thương mại Nhà nước về quy mô nhưng về số lượng nhiều
hơn và ngày càng tỏ ra năng động và nhanh chóng đổi mới công nghệ nhằm mục tiêu hội
nhập.
- Ngân hàng liên doanh: Là ngân hàng được thành lập trên cơ sở hợp đồng liên
doanh. Vốn điều lệ là vốn góp của bên ngân hàng Việt Nam và bên ngân hàng nước
ngồi, có trụ sở chính tại Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam.
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: Là đơn vị phụ thuộc của ngân hàng nước ngoài,
được ngân hàng nước ngoài bảo đảm chịu trách nhiệm đối với mọi nghĩa vụ và cam kết




của chi nhánh tại Việt Nam. Chi nhánh ngân hàng nước ngồi có quyền và nghĩa vụ do
pháp luật Việt Nam quy định, hoạt động theo giấy phép mở chi nhánh và các quy định
liên quan của pháp luật Việt Nam.
Bất cứ hình thức hoạt động nào của NHTM cũng bao gồm ba nghiệp vụ: nghiệp vụ
nợ (huy động vốn), nghiệp vụ có (sử dụng vốn) và nghiệp vụ mơi giới trung gian (dịch vụ
thanh toán, tư vấn, bảo lãnh…). Ba loại nghiệp vụ trên có mối quan hệ mật thiết, có tác
động hỗ trợ, thúc đẩy cùng phát triển tạo nên uy tín cho ngân hàng.
Ngân hàng thương mại ra đời do yêu cầu của sự phát triển nền kinh tế: cơ sở nền sản
xuất và lưu thông hàng hóa, và nền kinh tế ngày càng phát tiển càng cần đến hoạt động
của các NHTM. Thông qua việc thực hiện các chức năng, vai trị của mình nhất là chức
năng trung gian tín dụng NHTM đã trở thành một bộ phận thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.2. Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế
1.1.2.1. Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức kinh tế muốn sản
xuất, kinh doanh thì cần phải có vốn để đầu tư, mua sắm tư liệu, phương tiện để sản xuất
kinh doanh…mà nhu cầu về vốn của doanh nghiệp, cá nhân luôn luôn lớn hơn vốn tự có,
do đó cần phải tìm đến những nguồn vốn từ bên ngồi. Mặt khác lại có một lượng vốn
nhàn rỗi do q trình tiết kiệm, tích luỹ của cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức khác .
Với hoạt động đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá
nhân, mọi thành phần kinh tế thơng qua nghiệp vụ tín dụng, NHTM đã cung cấp vốn cho
nền kinh tế, đáp ứng đầy đủ kịp thời cho q trình tái sản xuất. Chính nhờ hoạt động của
hệ thống NHTM, đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp có điều kiện cải thiện
hoạt động kinh doanh của mình, góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế.
1.1.2.2. Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, hoạt động của NHTM nếu có hiệu
quả sẽ thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông
qua hoạt động tín dụng và thanh tốn giữa các NHTM trong hệ thống, các NHTM đã góp
phần mở rộng hay thu hẹp lượng tiền trong lưu thông. Hơn nữa, bằng việc cấp các khoản

tín dụng cho nền kinh tế, NHTM thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp, phân chia


vốn của thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả, thực thi vai trị điều tiết vĩ mơ
đúng theo phương châm “Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”.
1.1.2.3. Ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác
động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật
cạnh tranh và sản xuất phải trên cơ sở đáp ứng nhu cầu thị trường về mọi phương diện giá
cả, khối lượng, chất lượng... Để có thể đáp ứng tốt nhất những nhu cầu đó doanh nghiệp
khơng những cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ cấu kinh tế mà
cịn phải khơng ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đưa cơng nghệ mới vào sản xuất, tìm tịi
và sử dụng ngun vật liệu mới, mở rộng quy mơ sản xuất một cách thích hợp. Những
hoạt động này địi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư lớn, nhiều khi vượt quá khả năng của
doanh nghiệp. Do đó để giải quyết khó khăn này doanh nghiệp đến ngân hàng xin vay
vốn để thoả mãn nhu cầu đầu tư của mình.Thơng qua hoạt động cấp tín dụng cho doanh
nghiệp, ngân hàng là cầu nối doanh nghiệp với thị trường. Nguồn vốn tín dụng của ngân
hàng cung cấp cho doanh nghiệp đóng vai trị rất quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng về mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu của thị trường và
từ đó tạo cho doanh nghiệp chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh.
1.1.2.4. Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia và nền tài chính
quốc tế
Trong nền kinh tế thị trường khi các mối quan hệ hàng hố, tiền tệ ngày càng được
mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng
trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế ở các quốc gia luôn gắn liền với sự
phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. Vì
vậy nền tài chính của mỗi quốc gia cũng phải hịa nhập với nền tài chính quốc tế và
NHTM với các hoạt động của mình đã đóng góp vai trị vơ cùng quan trọng trong sự hòa
nhập này. Với các nghiệp vụ như thanh toán quốc tế, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ
khác NHTM tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển. Cịn thơng qua

hoạt động thanh tốn, kinh doanh ngoại hối, quan hệ tín dụng với các NHTM nước ngoài


NHTM đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động
của nền tài chính quốc tế.
1.1.3. Các hoạt động cơ bản của NHTM
Ngân hàng đóng vai trị quan trọng trong việc điều hòa, cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Với sự phát triển kinh tế và công nghệ hiện nay, hoạt động ngân hàng đã có những bước tiến
rất nhanh, đa dạng và phong phú hơn song ngân hàng vẫn duy trì các nghiệp vụ cơ bản sau:
1.1.3.1. Nghiệp vụ huy động vốn
Đây là nghiệp vụ cơ bản và quan trọng nhất, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của
ngân hàng. Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng ngày càng mở rộng sẽ tạo uy tín cho ngân
hàng ngày càng cao. Do đó các NHTM phải căn cứ vào chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế
của đất nước, của địa phương, từ đó đưa ra các loại hình huy động vốn phù hợp, nhất là các
nguồn vốn trung, dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Nghiệp vụ huy động vốn cụ thể bao gồm các nghiệp vụ sau:
 Nghiệp vụ tiền gửi
Đây là nghiệp vụ phản ánh hoạt động ngân hàng nhận các khoản tiền gửi từ các
doanh nghiệp vào để thanh tốn hoặc với mục đích bảo quản tài sản mà từ đó NHTM có
thể huy động được. Ngồi ra NHTM cũng có thể huy động các khoản tiền nhàn rỗi của cá
nhân hay các hộ gia đình được gửi vào ngân hàng với mục đích bảo quản hoặc hưởng lãi
trên số tiền gửi.
 Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá
Các NHTM phần lớn sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn có tính thời
hạn tương đối dài và ổn định, nhằm đảm bảo khả năng đầu tư, khả năng cung cấp đủ các
khoản tín dụng mang tính trung và dài hạn vào nền kinh tế. Hơn nữa, nghiệp vụ này còn
giúp các NHTM giảm thiểu rủi ro và tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh
doanh.
 Nghiệp vụ đi vay
Nghiệp vụ đi vay được các NHTM sử dụng thường xuyên nhằm mục đích tạo vốn

kinh doanh cho mình bằng việc vay các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền tệ và vay
ngân hàng Nhà nước dưới các hình thức tái chiết khấu hay vay có đảm bảo. Trong đó các


khoản vay từ ngân hàng Nhà nước chủ yếu nhằm tạo sự cân đối trong điều hành vốn của
bản thân NHTM khi mà nó khơng tự cân đối được nguồn vốn trên cơ sở khai thác tại chỗ.
 Nghiệp vụ huy động vốn khác
Ngoài ba nghiệp vụ huy động vốn cơ bản kể trên, NHTM cịn có thể tạo vốn kinh
doanh cho mình thơng qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các tổ chức, cá nhân
trong và ngồi nước. Đây là khoản vốn huy động khơng thường xuyên của NHTM,
thường để nhận được khoản vốn này đòi hỏi các ngân hàng phải lập ra các dự án cho từng
đối tượng hoặc nhóm đối tượng phù hợp với đối tượng các khoản vay.
1.1.3.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn
Đây là nghiệp vụ trực tiếp mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, nghiệp vụ sử dụng vốn có
hiệu quả sẽ nâng cao uy tín của ngân hàng, quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên
thị trường. Do vậy ngân hàng cần phải nghiên cứu và đưa ra chiến lược sử dụng vốn của mình
sao cho hợp lý nhất.
 Một là, ngân hàng tiến hành cho vay
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM. Theo thống kê nhìn chung thì
khoảng 60%-75% thu nhập của ngân hàng là từ các hoạt động cho vay. Thành công hay
thất bại của một ngân hàng tùy thuộc chủ yếu vào việc thực hiện kế hoạch tín dụng và
thành cơng của tín dụng xuất phát từ chính sách cho vay của ngân hàng. Các loại cho vay
có thể phân loại bằng nhiều cách, bao gồm: mục đích, hình thức bảo đảm, kỳ hạn, nguồn
gốc và phương pháp hoàn trả…
 Hai là, tiến hành đầu tư
Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện của hàng loạt những nhu cầu khác
nhau. Ngồi hình thức phổ biến là cho vay, ngân hàng còn sử dụng vốn để đầu tư. Có 2
hình thức chủ yếu mà các NHTM có thể tiến hành là :
- Đầu tư vào mua bán kinh doanh các chứng khốn hoặc đầu tư góp vốn vào các
doanh nghiệp, các công ty khác.

- Đầu tư vào trang thiết bị TSCĐ phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
 Ba là, nghiệp vụ ngân quỹ


Lợi nhuận luôn là mục tiêu cuối cùng mà các chủ thể khi tham gia tiến hành sản
xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đằng sau mục tiêu quan trọng đó là hàng loạt các nhân tố cần
quan tâm. Một trong những nhân tố đó là tính an tồn. Nghề ngân hàng là một nghề kinh
doanh đầy mạo hiểm, trong hoạt động của mình ngân hàng khơng thể bỏ qua sự an tồn.
Vì vậy, ngồi việc cho vay và đầu tư để thu lợi nhuận, ngân hàng còn phải sử dụng một
phần nguồn vốn huy động được để đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện
các quy định về dự trữ bắt buộc do Trung ương đề ra.
1.1.3.3. Nghiệp vụ khác
Là trung gian tài chính, ngân hàng có rất nhiều lợi thế. Một trong những lợi thế đó là
ngân hàng thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch
vụ. Để thanh tốn nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho
khách hàng nhiều hình thức thanh tốn như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu,
các loại thẻ cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử… Mặt khác, các NHTM cịn tiến hành
mơi giới, mua, bán chứng khoán cho khách hàng và làm đại lý phát hành chứng khốn
cho các cơng ty. Ngồi ra ngân hàng cịn thực hiện các dịch vụ ủy thác như ủy thác cho
vay, ủy thác đầu tư, ủy thác cấp phát, ủy thác giải ngân và thu hộ.
Như vậy, các nghiệp vụ trên nếu thực hiện tốt sẽ đảm bảo cho ngân hàng tồn tại và
phát triển vững mạnh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, vì các
nghiệp vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ thường xuyên tác động qua lại với nhau. Nguồn
vốn huy động ảnh hưởng tới quyết định sử dụng vốn, ngược lại nhu cầu sử dụng vốn ảnh
hưởng tới quy mô, cơ cấu của nguồn vốn huy động. Các nghiệp vụ trung gian tạo thêm
thu nhập cho ngân hàng nhưng mục đích chính là thu
hút khách hàng, qua đó tạo điều kiện cho việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả.
1.2. Khái niệm và vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM
1.2.1. Khái niệm vốn của NHTM
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động được,

dùng để cho vay, đầu tư hoặc để thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Vốn của ngân hàng được hình thành qua các nguồn khác nhau. Để bắt đầu hoạt động
của ngân hàng thì chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định, được gọi là vốn ban


đầu. Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng khối lượng vốn của mình thơng qua
các hoạt động huy động vốn như nghiệp vụ tiền gửi, nghiệp vụ đi vay và các nghiệp vụ
khác (dịch vụ ủy thác, trung gian thanh toán…).
Thực chất, vốn của ngân hàng là một bộ phận của thu nhập quốc dân tạm thời nhàn
rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, người chủ sở hữu của chúng gửi vào
ngân hàng với mục đích thanh tốn, tiết kiệm hay đầu tư. Nói cách khác, họ chuyển
nhượng quyền sử dụng vốn cho ngân hàng, để ngân hàng trả lại cho họ một khoản thu
nhập.
Như vậy, ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối lại vốn dưới
hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh q trình ln chuyển vốn, kích thích mọi hoạt động
kinh tế phát triển. Đồng thời chính các hoạt động đó lại quyết định sự tồn tại và phát triển
hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.2.2. Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM
1.2.2.1. Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Khác với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, hoạt động
của ngân hàng có những đặc trưng riêng, vốn khơng chỉ là phương tiện kinh doanh chính
mà cịn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hóa
đặc biệt trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán (thị
trường vốn dài hạn). Quá trình kinh doanh tiền tệ của ngân hàng được mã hóa bằng cơng
thức T-T’, trong đó T là nguồn vốn bỏ ra ban đầu, T’ là nguồn vốn thu về sau một quá
trình đầu tư, tiến hành hoạt động kinh doanh : T’>T. Từ công thức này có thể khẳng định
ngân hàng nào trường vốn là ngân hàng có nhiều thế mạnh trong cạnh tranh. Vì vậy,
ngồi nguồn vốn ban đầu cần thiết (vốn điều lệ) theo quy định thì ngân hàng ln phải
chăm lo tới việc tăng trưởng nguồn vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình.
1.2.2.2. Vốn quyết định năng lực thanh tốn và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên

thương trường
Ngân hàng hoạt động dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau, nếu khơng có uy tín thì ngân
hàng khơng thể tồn tại và ngày càng mở rộng hoạt động của mình. Uy tín được thể hiện ở
khả năng sẵn sàng chi trả cho khách hàng của ngân hàng. Khả năng thanh toán của ngân


hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn. Vì vậy, loại trừ các nhân tố
khác, khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung và
vốn khả dụng của ngân hàng nói riêng. Với khả năng huy động vốn cao, ngân hàng có thể
hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh
có hiệu quả, góp phần vừa giữ được chữ tín, vừa nâng cao thanh thế của ngân hàng trên
thương trường.
1.2.2.3. Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh giúp
các doanh nghiệp có khả năng tự hồn thiện mình hơn. Với ngân hàng vốn chính là yếu
tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Thực tế đã chứng minh : quy mơ vốn,
trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật hiện đại là điều kiện
tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn, và nguồn vốn lớn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngân
hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mơ,
khối lượng tín dụng, chủ động về thời hạn, lãi suất. Kết quả của sự gia tăng trên giúp
ngân hàng kinh doanh đa năng trên thị trường, phân tán rủi ro, tạo thêm vốn cho ngân
hàng và khi đó tất yếu trên thương trường sức cạnh tranh của ngân hàng sẽ tăng lên.
1.2.2.4. Vốn quyết định quy mơ tín dụng và các hoạt động khác
Tùy theo quy mô và cơ cấu nguồn vốn huy động được mà các ngân hàng sẽ quyết
định quy mô và cơ cấu đầu tư. Với nguồn vốn huy động lớn, ngân hàng có đủ khả năng
mở rộng phạm vi và khối lượng cho vay khơng chỉ giới hạn trên thị trường trong nước mà
cịn cho vay vượt ra khỏi lãnh thổ một quốc gia (cho vay trên thị trường quốc tế). Ngược
lại, do khả năng vốn hạn hẹp nên các ngân hàng nhỏ không có những phản ứng nhanh
nhạy trước sự biến động của lãi suất, ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư. Nói
chung, một ngân hàng có nguồn vốn dồi dào sẽ đáp ứng được nhu cầu xin vay, dễ dàng

mở rộng thị trường tín dụng, tăng khả năng thanh toán và các dịch vụ khác của ngân
hàng.
1.3. Nguồn vốn của NHTM
1.3.1. Tính chất của các loại vốn trong NHTM
1.3.1.1. Vốn tự có


Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được thuộc về sở
hữu của ngân hàng. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài để hình thành nên
trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Vốn này chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn của
ngân hàng song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân hàng.
Vì đây là nguồn vốn ổn định nên một mặt ngân hàng chủ động sử dụng nó vào mục
đích kinh doanh của mình, mặt khác lại coi như tài sản đảm bảo, gây lòng tin đối với
khách hàng và duy trì khả năng thanh tốn trong trường hợp ngân hàng gặp rủi ro tín
dụng.
Vốn tự có gồm : vốn tự có cơ bản, vốn tự có bổ sung.
 Vốn tự có cơ bản : là vốn điều lệ, vốn pháp định.
- Vốn điều lệ : do các cổ đơng đóng góp và được ghi vào điều lệ hoạt động của ngân
hàng, theo quy định tối thiểu phải bằng vốn pháp định.
- Vốn pháp định : là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập ngân hàng do pháp luật
quy định.
 Vốn tự có bổ sung : quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng bù đắp rủi ro, quỹ
khen thưởng, quỹ phúc lợi…
1.3.1.2. Vốn huy động
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức
kinh tế và cá nhân trong xã hội thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh
tốn, nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh.
Nguồn vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, ngân hàng chỉ có quyền
sử dụng chứ khơng có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả đúng thời hạn cả gốc và
lãi khi đến hạn hoặc khi họ có nhu cầu rút. Vốn huy động đóng vai trị rất quan trọng đối

với mọi hoạt động kinh doanh của NHTM.
Nguồn vốn huy động không ngừng tăng lên, tỷ lệ thuận với mọi thành phần kinh tế
trong xã hội. Do đó, các NHTM ln quan tâm khai thác để mở rộng tín dụng. Nhưng
nguồn vốn này chỉ được sử dụng một phần để kinh doanh, còn phải dự trữ một tỷ lệ hợp
lý để đảm bảo khả năng thanh tốn. Vốn huy động gồm có : vốn tiền gửi và phát hành
những giấy tờ có giá.


1.3.1.3. Vốn đi vay
Vốn đi vay là khoản tiền vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng
huy động vốn bị hạn chế. Đây là nguồn chủ yếu để chống rủi ro thanh khoản của các
ngân hàng.
 Vay ngân hàng Nhà nước
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của các NHTM.
Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ, NHTM thường vay NHNN. Hình thức cho vay chủ
yếu của NHNN là tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn). Thông thường NHNN chỉ chiết khấu
cho những thương phiếu có chất lượng (thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và
phù hợp với mục tiêu của NHNN trong từng thời kì. Trong điều kiện chưa có thương
phiếu, NHNN cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất
định.
 Vay các tổ chức tín dụng khác
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng
khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có lượng dự trữ vượt u cầu sẽ
có thể sẵn lịng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các
ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản.
Như vậy nguồn vay các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách
và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ NHNN.
1.3.1.4. Vốn khác
Ngoài các nguồn trên, ngân hàng còn thực hiện huy động vốn thơng qua nguồn ủy
thác, nguồn trong thanh tốn và các nguồn khác.

NHTM thực hiện các dịch vụ ủy thác như ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác
cấp phát, ủy thác giải ngân và thu hộ…, các hoạt động này tạo nên nguồn ủy thác tại ngân
hàng. Ngoài ra các hoạt động thanh tốn khơng dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn
trong thanh tốn : séc trong q trình chi trả, tiền kí quỹ để mở L/C…. Các khoản nợ
khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả…cũng góp phần làm tăng nguồn huy động trong
cơng tác huy động vốn của ngân hàng thương mại.
1.3.2. Các hình thức huy động vốn của NHTM


1.3.2.1. Theo thời gian huy động
 Vốn ngắn hạn: là hình thức NHTM huy động vốn khơng kỳ hạn và có kỳ hạn với
thời gian ngắn. Nguồn vốn này tối đa là một năm.
 Vốn trung hạn: có thời gian huy động từ một năm đến ba năm. Nguồn vốn này
được các NHTM sử dụng để cho các doanh nghiệp vay trung hạn đối với các dự án đầu
tư chiều sâu mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm mang lại hiệu quả kinh tế
thiết thực cho bản thân doanh nghiệp.
 Vốn dài hạn: nguồn vốn này có thời gian huy động trên ba năm và được NHTM
sử dụng vào nhiệm vụ đầu tư phát triển theo định hướng phát triển kinh tế của Đảng và
Nhà nước như: đầu tư vào các dự án phục vụ quốc tế dân sinh, các dự án đổi mới thiết bị
công nghệ, xây mới các nhà máy…Lãi suất mà NHTM phải trả cho chủ sở hữu nguồn
vốn này thường rất cao.
1.3.2.2. Huy động vốn theo đối tượng khách hàng và tình huống sử dụng
 Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi thanh tốn
Tiền gửi thanh tốn là hình thức huy động vốn của NHTM bằng cách mở cho khách
hàng tài khoản gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán. Tài khoản này mở cho các đối tượng
khách hàng, cá nhân hoặc tổ chức, có nhu cầu thực hiện thanh tốn qua ngân hàng.
Do tài khoản tiền gửi là loại tài khoản khơng kỳ hạn, khách hàng có thể rút tiền bất
cứ lúc nào mà không cần báo trước cho ngân hàng, nên ngân hàng rất khó kế hoạch hóa
việc sử dụng loại tiền gửi này. Chính vì vậy đối với loại tiền gửi này thường ngân hàng
trả lãi suất thấp hoặc không trả lãi cho khách hàng.

Do không được hưởng lãi cao, nên khách hàng thường duy trì số dư tài khoản tiền
gửi thanh tốn khơng nhiều, chỉ vừa đủ đáp ứng nhu cầu chi trả hàng ngày. Mặc dù số dư
tài khoản tiền gửi thanh toán của từng khách hàng thường không lớn, nhưng do là trung
tâm tập trung tiền tệ và cung cấp dịch vụ thanh toán nên NHTM có số lượng khách hàng
rất đơng khiến cho tổng số vốn huy động qua tiền gửi thanh toán của tất cả khách hàng
trở nên lớn đáng kể.
 Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi cá nhân


Tài khoản tiền gửi cá nhân được mở cho khách hàng cá nhân có nhu cầu sử dụng.
Loại tài khoản này thích hợp cho cá nhân có nhu cầu nhận chuyển tiền vào tải khoản như
nhận tiền lương hàng tháng, nhận chuyển tiền từ nước ngoài hoặc từ cá nhân khác trong
nước. Thông thường số dư tài khoản này tăng lên khi khách hàng nhận tiền lương vào
thời điểm trả lương và giảm dần khi khách hàng rút tiền về chi tiêu. Mặc dù số dư trên tài
khoản tiền gửi cá nhân thường không lớn, nhưng với số lượng tài khoản rất lớn, ngân
hàng có thể huy động được khối lượng vốn đáng kể.
 Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi tiết kiệm
 Tiết kiệm không kỳ hạn
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn dành cho đối tượng khách hàng cá nhân hoặc tổ
chức, có tiền tạm thời nhàn rỗi muốn gửi ngân hàng vì mục tiêu an tồn và sinh lợi nhưng
không thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền gửi trong tương lai. Đối với khách hàng khi
chọn lựa hình thức tiền gửi này thì mục tiêu an toàn và tiện lợi quan trọng hơn là mục tiêu
sinh lợi. Đối với ngân hàng, vì loại tiền gửi này khách hàng muốn rút bất cứ lúc nào cũng
được nên ngân hàng phải đảm bảo tồn quỹ để chi trả và khó lên kế hoạch sử dụng tiền gửi
để cấp tín dụng. Do vậy, ngân hàng thường trả lãi rất thấp cho loại tiền gửi này (khoảng
0,25%/tháng).
 Tiết kiệm định kỳ
Tiền gửi tiết kiệm định kỳ dành cho khách hàng cá nhân và tổ chức có nhu cầu gửi
tiền vì mục tiêu an tồn, sinh lợi và thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền trong tương lai.
Mục tiêu quan trọng của khách hàng khi lựa chọn hình thức tiền gửi này là lợi tức có

được theo định kỳ. Do vậy lãi suất đóng vai trị quan trọng và cao hơn lãi suất trả cho loại
tiền gửi không kỳ hạn. Mức lãi suất còn thay đổi tùy theo loại kỳ hạn gửi (1 tháng, 3
tháng, 6 tháng,…hoặc lâu hơn đến 36 tháng), tùy theo loại đồng tiền gửi tiết kiệm (VND,
USD, EUR hay vàng) và tùy theo uy tín và rủi ro của ngân hàng nhận tiền gửi.
 Các loại tiết kiệm khác
Ngoài hai loại tiền gửi tiết kiệm chính là tiết kiệm khơng kỳ hạn và tiết kiệm định
kỳ, hầu hết các NHTM đều có những loại tiền gửi tiết kiệm khác như tiết kiệm tiện ích,
tiết kiệm có thưởng, tiết kiệm an khang với nét đặc trưng riêng nhằm làm cho sản phẩm


của mình ln được đổi mới theo nhu cầu khách hàng và tạo ra rào cản dị biệt để chống
lại sự bắt chước của các đối thủ cạnh tranh.
1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng công tác huy động vốn
1.3.3.1. Chất lượng huy động vốn là gì?
Huy động vốn được xem là có hiệu quả, đạt được chất lượng khi thỏa mãn những
điều kiện sau:
- Vốn huy động phải đạt được chỉ tiêu mà ngân hàng lập kế hoạch đề ra, đáp ứng
được nhu cầu cho vay đối với mọi thành phần kinh tế, bên cạnh đó ngân hàng cịn có thể
dùng để đầu tư hoặc kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi.
- Chi phí cho nguồn vốn huy động phải thấp nhất, đảm bảo cho việc cho vay có lãi.
- Cơ cấu nguồn vốn huy động dài hạn phải chiếm tỷ trọng nhiều hơn cơ cấu vốn huy
động ngắn hạn vì nguồn huy động dài hạn có tính chất ổn định, ngân hàng có thể dễ dàng
lập kế hoạch cho việc sử dụng nguồn vốn này.
Với những điều kiện trên thì nếu một NHTM thực hiện được thì cơng tác huy động
vốn của NHTM đó đạt được chất lượng và hiệu quả.
1.3.3.2. Chi phí huy động vốn
Theo cách nói truyền thống, một ngân hàng có hai lĩnh vực kinh doanh nòng cốt:
huy động vốn và lựa chọn tài sản sinh lời để đầu tư các nguồn vốn huy động được. Các
ngân hàng luôn nỗ lực để tạo ra lợi nhuận từ hai lĩnh vực này. Do đó, phương pháp xác
định chi phí huy động vốn rất hữu ích cho ngân hàng để xây dựng

chính sách kinh doanh có hiệu quả. Có hai lý do chủ yếu mà ngân hàng quan tâm khi xác
định chi phí huy động vốn:
- Tính tốn tương đối chính xác chi phí huy động vốn là yếu tố cơ bản để xác định
mức lợi nhuận mà ngân hàng cần thu được từ các tài sản có sinh lời.
- Loại hình nguồn vốn mà ngân hàng huy động được và việc sử dụng nguồn vốn
này ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và rủi ro vốn.

 Tính chi phí huy động vốn theo chi phí bình qn gia quyền theo phương pháp
nguyên giá (Historical average cost method)


Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất. Phương pháp này chú trọng vào cơ
cấu hỗn hợp các nguốn vốn mà ngân hàng đã huy động được trong quá khứ và xem xét
cẩn thận mức lãi suất mà thị trường đã áp đặt ngân hàng phải trả cho mỗi nguồn vốn đi
vay. Tích số của lãi suất phải trả và tổng mức vốn đi vay được sử dụng trong q khứ tạo
thành chi phí nguồn vốn bình qn gia quyền. Nó được tính tốn theo cơng thức lấy chi
phí trả lãi chia cho tổng số vốn đi vay và tiền gởi
Chi phí trả lãi
Chi phí trả lãi bình quân gia quyền =
Tổng số vốn đi vay và tiền gửi
Phương pháp này có ích khi sử dụng để đánh giá tình hình huy động vốn trong q
khứ, nhưng nó có các nhược điểm sau:
- Một vài loại hình nguồn vốn được đem đầu tư vào các tài sản không sinh lời như
dự trữ bắt buộc, tài sản cố định, dự trữ thanh tốn, đóng phí bảo hiểm tiền gửi. Hơn nữa
mỗi loại nguồn vốn và qui mô hoạt động của mỗi ngân hàng lại có mức dự trữ bắt buộc
và yêu cầu dự trữ thanh khoản rất khác nhau.
- Nó khơng bao gồm các chi phí liên quan đến huy động vốn như quảng cáo, chi phí
khuyến mãi trong huy động vốn …
- Thiếu độ tin cậy nếu muốn sử dụng để làm cơ sở quyết định sẽ lựa chọn huy động
loại hình nguồn vốn nào.

Việc lựa chọn nguồn tiền gởi hoặc phi tiền gởi của ngân hàng tuỳ thuộc khơng chỉ
vào chi phí (giá) tương đối của mỗi nguồn mà còn phụ thuộc rủi ro của chúng đối với
ngân hàng. Những nguồn vốn có chi phí thấp có thể có rủi ro cao cho ngân hàng và do
vậy, sẽ tạo khả năng thiệt hại nghiêm trọng hơn. Nhà quản trị phải đương đầu với việc lựa
chọn giữa chi phí và rủi ro, tức là việc đánh đổi giữa rủi ro và chi phí huy động vốn.
Nguồn vốn chi phí thấp có thể phải chịu rủi ro cao về lãi suất, thanh khoản hay là vốn sở
hữu. Như thế, mỗi khi phải huy động vốn mới, nhà quản trị phải lựa chọn một vị trí về
tương quan ưu tiên giữa rủi ro và lợi nhuận trên bảng đối chiếu giữa rủi ro và chi phí theo
từng cách phối hợp giữa các nguồn vốn.
1.3.3.3. Tính ổn định của nguồn vốn


Tính ổn định ở đây bao gồm ổn định về khối lượng, tốc độ tăng trưởng và cơ cấu
nguồn.
Công tác huy động vốn khơng thể có hiệu quả khi mà nguồn vốn huy động được lại
không đạt được quy mô nhất định theo kế hoạch huy động của ngân hàng hay không đáp
ứng nổi nhu cầu về khối lượng vốn cho kinh doanh. Đối với ngân hàng, do mỗi nguồn
vốn có những điểm mạnh, điểm yếu riêng trong việc khai thác và huy động nên cơ cấu
vốn biến đổi sẽ dẫn tới sự biến đổi trong cơ cấu đầu ra: cho vay, đầu tư, bảo lãnh và kéo
theo sự thay đổi trong lợi nhuận, rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
Trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thì quy mơ vốn huy động là một bộ phận
chiếm tỷ trọng cao nhất và có vai trị quan trọng. Sau khi đã huy động được khối lượng
vốn lớn thì cái mà ngân hàng cần quan tâm lúc này là tốc độ tăng trưởng ổn định của nó
vì có thể lúc này quy mơ vốn lớn, nhưng sẽ khó khăn cho ngân hàng khi đưa ra quyết
định cho vay hay đầu tư nếu ngân hàng khơng kiểm sốt, khơng dự đốn được xu hướng
biến động của dòng tiền rút ra và dòng tiền gửi vào.
1.3.3.4. Mối quan hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn
Huy động vốn và sử dụng vốn là hai vấn đề có liên quan mật thiết với nhau. Ngân
hàng khơng chỉ huy động thật nhiều vốn mà cịn phải đầu tư và cho vay có hiệu quả . Nếu
ngân hàng chỉ chú trọng tới huy động vốn mà khơng cho vay hoặc đầu tư thì sẽ bị ứ động

vốn làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Còn nếu khơng huy động đủ vốn để cho vay thì
sẽ mất cơ hội mở rộng khách hàng, làm giảm uy tín của ngân hàng trên thị trường. Sử
dụng vốn là hoạt động nối tiếp quyết định hiệu quả của hoạt động huy động vốn, quyết
định hiệu quả của hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng công tác huy động vốn
1.3.4.1. Nhân tố chủ quan
 Uy tín và vị thế của ngân hàng
Có thể gọi đây là tài sản vơ hình của ngân hàng. Thơng thường khách hàng lựa chọn
những ngân hàng có uy tín và vị thế trên thị trường để giao dịch, vay mượn, thanh tốn và
bảo lãnh. Uy tín và vị thế của ngân hàng có ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn của
khách hàng, thể hiện cụ thể ở năng lực tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh, quá


trình lịch sử và chất lượng marketing. Vì vậy các ngân hàng thơng qua hoạt động của
mình, bằng chất lượng dịch vụ, công nghệ hiện đại và phong cách làm việc văn minh, lịch
sự nhằm thỏa mãn tốt nhất mọi yêu cầu của khách hàng là thiết thực nâng cao uy tín và vị
thế trên thị trường.
 Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Mỗi ngân hàng đều xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh cụ thể. Chiến
lược kinh doanh được xây dựng dựa trên việc ngân hàng xác định vị trí hiện tại của mình
trong hệ thống, thấy được điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức đồng thời dự đốn
được sự thay đổi của mơi trường kinh doanh trong tương lai. Thông qua chiến lược kinh
doanh, ngân hàng có thể quyết định thu hẹp hay mở rộng việc huy động vốn về mặt quy
mơ, có thể thay đổi tỷ lệ các loại nguồn, tăng hay giảm chi phí huy động. Với tác dụng to
lớn như vậy, nếu chiến lược kinh doanh được lựa chọn đúng đắn, các nguồn vốn được
khai thác một cách tối đa thì cơng tác huy động vốn sẽ phát huy được hiệu quả.
 Chính sách lãi suất
Đây là một nhân tố quan trọng có tác động mạnh đến việc huy động vốn của
NHTM, đặc biệt là đối với các khoản vốn mà người gửi với mục đích hưởng lãi. Các
ngân hàng cạnh tranh về lãi suất huy động không chỉ với các ngân hàng khác mà cả với

thị trường tiền tệ. Do đó, chỉ một sự khác biệt nhỏ về lãi suất có thể đẩy dòng vốn nhàn
rỗi trong xã hội theo những chiều hướng khác nhau. Đó cũng là lý do, động lực để các
nhà đầu tư hoặc người gửi tiền chuyển vốn từ ngân hàng này sang ngân hàng khác.
Vì vậy xác định một lãi suất hợp lý, có tính cạnh tranh là một vấn đề vô cùng quan
trọng, phải được nghiên cứu, cân nhắc, tính tốn tỉ mỉ và tồn diện. Tuy nhiên, ngân hàng
phải tính tốn sao cho lãi suất vừa có tính cạnh tranh, vừa phải đảm bảo được chi phí đầu
vào thấp nhất và kinh doanh có lãi.
 Các hình thức huy động và dịch vụ kèm theo
Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, việc đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ của
ngân hàng nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng có ảnh hưởng lớn đến hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Với nhiều loại sản phẩm khác nhau, khách hàng có thể
lựa chọn một sản phẩm phù hợp với điều kiện, khả năng của mình. Có như vậy ngân hàng


mới thu hút được ngày càng nhiều khách hàng đến với mình. Khơng những thế, ngân
hàng cịn phải đưa ra được các dịch vụ kèm theo tốt và đa dạng để tăng lợi thế cạnh tranh.
Với nhiều tiện ích kèm theo sẽ giúp ngân hàng thu hút được ngày càng nhiều nguồn vốn
của mọi thành phần kinh tế và dân cư trong xã hội. Qua đó, tạo thêm nhiều mối quan hệ
gắn bó , chặt chẽ hơn giữa ngân hàng với khách hàng.
 Cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ nhân viên
Có thể nói tất cả mọi khách hàng đều muốn giao dịch với ngân hàng có địa điểm
đẹp, cơ sở vật chất hiện đại, cán bộ nhân viên phục vụ tận tình và lịch thiệp. Một ngân
hàng được trang bị công nghệ hiện đại nhất định sẽ rút ngắn được rất nhiều thời gian xử
lý công việc, đảm bảo được độ chính xác cao trong các giao dịch
kinh tế. Hơn nữa đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ chun mơn cao sẽ giải quyết cơng
việc nhanh chóng, khoa học, từ đó nâng cao hơn chất lượng dịch vụ ngân hàng cung ứng
ra thị trường.
 Mạng lưới hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Tổ chức mạng lưới hoạt động rộng, hợp lý trên địa bàn dân cư giúp ngân hàng có
nhiều cơ hội để thu hút vốn hơn, giúp khách hàng tiết kiệm thời gian và chi phí để thực

hiện giao dịch. Tuy nhiên, việc mở chi nhánh cần phù hợp với điều kiện năng lực của
ngân hàng. Một ngân hàng nằm ở vị trí thuận lợi như khu vực trung tâm, khu đông dân
cư, đi lại thuận tiện sẽ giúp ngân hàng thu hút được nhiều khách hàng hơn.
1.3.4.2. Nhân tố khách quan
 Môi trường pháp lý
Nhân tố này có ảnh hưởng lớn đến nghiệp vụ huy động vốn của NHTM như Luật
các tổ chức tín dụng, Luật NHNN. Những luật này quy định tỷ lệ huy động vốn của
NHTM so với vốn tự có, quy định việc phát hành trái phiếu, kỳ phiếu và quy định cả mức
cho vay của NHTM đối với khách hàng.
Chính sách đầu tư của Nhà nước hợp lý hay khơng hợp lý cũng ảnh hưởng đến
chính sách huy động vốn của ngân hàng. Để khuyến khích sản xuất, đầu tư, Nhà nước có
chính sách bảo hộ cho hàng hóa sản xuất, chính sách trợ giá tạo điều kiện cho sản xuất


kinh doanh phát triển và có lãi. Các doanh nghiệp và người lao động có tích lũy là nền
tảng để ngân hàng huy động vốn được nhiều hơn.
 Môi trường kinh tế - chính trị - xã hội
Trong các hoạt động của ngân hàng thì hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn
luôn bị các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng, thu nhập, tình trạng thất nghiệp, lạm
phát… tác động trực tiếp. Khi nền kinh tế tăng trưởng, sản xuất phát triển, từ đó tạo điều
kiện tích lũy nhiều hơn, việc thu hút vốn của ngân hàng được thuận lợi. Ngược lại, nền
kinh tế suy thoái, lạm phát tăng làm cho nguồn vốn của ngân hàng bị thu hẹp khiến q
trình kinh doanh gặp khó khăn.
Khơng một quốc gia nào có thể phát triển nếu mơi trường chính trị khơng ổn định.
Sự ổn định về chính trị hay về chính sách ngoại giao cũng tác động mạnh mẽ đến quan hệ
vốn của ngân hàng với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.
Nhân khẩu học cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới nguồn vốn thơng qua việc phân
bổ dân cư, trình độ, lứa tuổi. Ngân hàng cũng nên xem xét yếu tố này trong hoạt động
huy động vốn của mình.
 Tỷ giá hối đoái cũng ảnh hưởng tới việc tạo vốn của ngân hàng. Khi đồng Việt Nam

mất giá, dân chúng không muốn giữ đồng nội tệ mà chuyển



×