Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

thuyet trinh quy dau tu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.49 KB, 19 trang )

Chương 1 : Lược sử hình thành quỹ đầu tư
1.1/ Lược sử hình thành quỹ đầu tư trên thế giới
Tư tưởng tập trung các khoản tiền nhỏ thành một nguồn lớn hơn để đầu tư xuất hiện tại châu Âu vào
khoảng giữa thế kỷ 19, khởi thủy ở Hà Lan, đến nửa cuối thế kỷ 19 thì được du nhập sang Anh. Mặc dù
có gốc gác từ châu Âu, nhưng Hoa Kỳ mới là nơi các quỹ đầu tư phát triển mạnh mẽ nhất.
Năm 1893, các khoản quyên góp và ủng hộ tài chính xây dựng và phát triển Đại học Harvard tại Hoa
Kỳ được ghi nhận như sự xuất hiện một quỹ đầu tư. Vào ngày 21/3/1994, quỹ tương hỗ đầu tiên chính
thức được thành lập bởi ba nhà kinh doanh chứng khốn tại Boston (Hoa Kỳ) có tên gọi Quỹ Tín thác các
nhà đầu tư Massachusetts (Massachusetts Investors Trust-MIT). Có lẽ, chính những người sáng lập cũng
khơng thể dự báo trước tương lai phát triển phổ biến của loại hình này.
Sau một năm thành lập, Massachusetts Investors Trust với 50.000 đô-la Mỹ ban đầu đã sở hữu khối
tài sản trị giá 392.000 USD và thu hút gần 200 nhà đầu tư. MIT tập trung và các cổ phiếu lớn, tăng trưởng
nhanh và có trả cổ tức. Danh mục đầu tư của Quỹ gồm các loại cổ phiếu của General Electric Co.,
Standard Oil Of Indiana (ngày nay là một phần của BP PLC) và American Telephone & Telegraph Co.
(AT&T Inc.). Không giống nhiều quỹ đầu tư hoạt động trong thời kỳ này, MIT tránh sử dụng các đòn bẩy
tài chính để huy động nguồn đầu tư. Khi thị trường chứng khoán Hoa Kỳ chạm đáy vào năm 1932, nhiều
quỹ đầu tư đã gục ngã nhưng MIT vẫn trụ vững và tồn tại cho đến hôm nay, với tên gọi được biết đến
rộng rãi MFS Investment Management.
Khủng hoảng 1929 làm chậm quá trình tăng trưởng các quỹ đầu tư tương hỗ tại Hoa Kỳ. Luật chứng
khoán năm 1933 và Luật Giao dịch chứng khoán năm 1934 được ban hành nhằm khôi phục thị trường.
Theo hai đạo luật này, các quỹ đầu tư phải đăng ký hoạt động với Ủy ban SEC (Securities & Exchance
Comission) và cung cấp bản báo bạch tới các nhà đầu tư tiềm năng. Tới năm 1940, SEC tiếp tục ban hành
Luật Công ty đầu tư với các chỉ dẫn pháp lý bắt buộc các quỹ đầu tư phải tuân theo, được áp dụng tới tận
ngày nay.
Niềm tin được phục hồi trên thị trường chứng khoán và các quỹ tương hỗ bắt đầu nở rộ. Tới cuối
thập kỷ 60 của thế kỷ trước, Hoa Kỳ có khoảng 270 quỹ với giá trị tài sản nắm giữ ước khoảng 48 tỷ đôla Mỹ.
Năm 1976, John C. Bogle mở quỹ đầu tư chỉ số thị trường đầu tiên, có tên First Index Investment
Trust. Vào tháng 11 năm 2000, đây là quỹ tương hỗ có giá trị lớn nhất trong lịch sử với 100 tỷ đô-la Mỹ
tài sản. Quỹ này ngày nay có tên gọi Vanguard 500 Index.
Hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Mỹ
Quỹ đầu tư chứng khoán ở Mỹ có một lịch sử khá lâu đời và đã nhanh chóng phát huy được những


đặc tính ưu việt của mình nhờ được sự hỗ trợ đáng kể của một nền kinh tế phát triển khá ổn định và một
thị trường chứng khốn hoạt động có hiệu quả.
Quỹ đầu tư chứng khoán ở Anh
Quỹ đầu tư chứng khoán ở Anh có thể tồn tại dưới hai dạng kết thúc đóng và kết thúc mở tương ứng
với hai loại hình quỹ đặc trưng của Anh là Quỹ tín thác đầu tư và Quỹ tín thác đơn vị.
Ở Anh, các cơng ty quản lý quỹ hay Quỹ đầu tư cũng không đảm nhận việc mua bán chứng chỉ quỹ
hay cổ phiếu trực tiếp tới công chúng, chức năng này thường do một cơng ty chứng khốn thực hiện


Các Quỹ đầu tư ở Nhật mang một số đặc điểm nổi bật sau. Các quỹ chỉ tồn tại theo mơ hình tín thác
chứ khơng theo mơ hình cơng ty
Hệ thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Nhật Bản
Quỹ đầu tư lần đầu tiên xuất hiện ở Nhật vào năm 1941. Trải qua nhiều khó khăn nhưng kể từ năm
1996 trở lại đây, các Quỹ đầu tư đã thực sự bước vào giai đoạn phát triển ổn định và đóng một vai trò
quan trọng vào sự phát triển của thị trường chứng khốn và nền kinh tế nói chung
Quỹ đầu tư chứng khoán tại Hàn Quốc
Quỹ đầu tư chứng khoán Hàn Quốc được hình thành từ năm 1969 với mơ hình tương tự như mơ hình
Quỹ đầu tư dạng tín thác ở Anh. Chính phủ Hàn Quốc quyết định chọn mơ hình này là nhằm hỗ trợ cho
chính phủ trong các chính sách phát triển kinh tế. Bởi vì Quỹ đầu tư mơ hình tín thác là yếu tố cần thiết
trong việc huy động được một lượng vốn khổng lồ cho tiến trình phát triển kinh tế trong ngắn hạn và đem
lại sự ổn định cho thị trường tài chính thơng qua hoạt động đầu tư chứng khốn gián tiếp. Hiện nay, Hàn
Quốc đã cho phép tồn tại cả hai mơ hình tín thác và cơng ty
Quỹ đầu tư chứng khoán ở Thái Lan
Chỉ sau khi thị trường chứng khoán Thái Lan ra đời được một năm (năm 1974), chính phủ Thái Lan
đã rất chú trọng đến việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh chứng khoán và tăng cường khả năng huy động
vốn bằng cách thiết lập Quỹ đầu tư chứng khốn dưới dạng cơng ty trách nhiệm hữu hạn. Nhờ đó giúp
giới đầu tư Thái Lan vốn rất bỡ ngỡ với thị trường chứng khốn có thể có được một phương thức đầu tư
mới đơn giản và an toàn hơn nhờ tính đầu tư chuyên nghiệp của quỹ. Tuy nhiên phải đến hai năm sau, hệ
thống Quỹ đầu tư chứng khốn Thái Lan mới chính thức đi vào hoạt động. Trải qua nhiều thăng trầm, đến
những năm 90, kể từ khi Luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán mới ra đời vào năm 1992 thì hệ

thống Quỹ đầu tư chứng khoán ở Thái Lan mới phát triển rực rỡ. Sự thành công này phụ thuộc rất nhiều
vào khả năng phân phối và dịch vụ của các Quỹ đầu tư. Các quỹ đã xây dựng được các kênh phân phối rất
mạnh thông qua việc liên kết với các ngân hàng thương mại lớn. Góp thêm vào sự phát triển của các quỹ
còn phải kể đến các văn bản luật và quy chế của uỷ ban chứng khoán hoạt động khá hiệu quả do được
soạn thảo bởi những người có kinh nghiệm. Bên cạnh đó, Thái Lan cũng khuyến khích việc liên doanh
với nước ngoài để thành lập Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ nhằm tranh thủ vốn và kỹ năng của đối
tác nước ngoài. Một vấn đề nữa không kém phần quan trọng là cùng với sự hoạt động của các tổ chức tín
thác đầu tư, Thái Lan cũng đã có một sự quan tâm đúng mức đến việc đào tạo nguồn nhân lực cho hệ
thống Quỹ đầu tư chứng khốn.
1.2/ Lược sử hình thành quỹ đầu tư tại VN
Những quỹ đầu tư đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng đầu những năm 1990. Trong nửa đầu
những thập kỷ 90, có tám quỹ đầu tư tiến hành hoạt động tại Việt Nam với tổng lượng vốn huy động
khoảng 700 triệu USD. Những khó khăn trong nỗ lực tìm kiếm cơ hội bỏ vốn cùng tác động của khủng
hoảng tài chính-tiền tệ năm 1997 đã khiến các quỹ nản lòng và lần lượt rút lui. Thời điểm sau năm 1997
chỉ còn lại hai quỹ đầu tư là Vietnam Enterprise Investment Fund (VIEL) do công ty Dragon Capital quản
lý và Vietnam Frontier Fund (VFF) thuộc tập đồn Finasa. Bản thân VFF, với qui mơ 50 triệu USD, rốt
cuộc cũng ra khỏi Việt Nam sau 10 năm hoạt động. Chỉ khi thị trường chứng khốn có những dấu hiệu
tăng trưởng tích cực, quỹ này mới trở lại với qui mô khiêm tốn hơn- 15 triệu USD, năm 2005.


Giai đoạn từ 2002 đến 2005, hoạt động của các quỹ đầu tư tương đối trầm lặng. Mặc dù vậy vẫn xuất
hiện thêm nhiều quỹ mới thuộc các công ty Mekong Capital, VinaCapital, IDG, VietFund hay PXP Asset
Management.
Cùng với những biến đổi tích cực và mạnh mẽ của thị trường chứng khốn, từ giữa năm 2006, hệ
thống tài chính Việt Nam ghi nhận giai đoạn bùng nổ các quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ. Trong hai
năm 2006-2007, khoảng 20 quỹ đầu tư được mở mới. UBCKNN cũng cấp giấy phép hoạt động cho 17
công ty quản lý quỹ. Trong số này, nổi bật có Cơng ty liên doanh Quản lý quỹ đầu tư BIDV-Vietnam
Partners với quỹ VIF có qui mơ vốn tối đa 1.600 tỷ đồng và một loạt công ty thành lập vào nửa cuối năm
2007 với qui mô vốn lớn: Công ty cổ phần Quản lý quỹ đầu tư FPT (vốn điều lệ lớn nhất thị trường- 110
tỷ đồng), Công ty TNHH Quản lý quỹ SSI (vốn điều lệ 30 tỷ đồng), Công ty TNHH Quản lý quỹ đầu tư

chứng khốn Đơng Á (vốn điều lệ- 30 tỷ đồng) Còn phải kể tới hoạt động của các cơng ty chứng khốn
nước ngồi tại Việt Nam như Nomura Internetional (Hongkong), Blackhorse Asset Management Pte Ltd.
(Singapore) hay Mirae Asset Maps Investment Management Co., Ltd. (Hàn Quốc).

Chương 2: Thực trạng hoạt động của quỹ đầu tư tại Việt Nam
2.1 Tổng quan về các quỹ đầu tư tại Việt Nam
Trong năm 2009, với 46 công ty quản lý quỹ được thành lập, hoạt động ngành quản lý quỹ tại Việt
Nam dần khẳng định vị trí của mình trên thị trường chứng khốn. Tính đến cuối năm 2009, các cơng ty
quản lý quỹ đã huy động vốn để đầu tư thơng qua quỹ đầu tư chứng khốn và hoạt động quản lý ủy thác
đầu tư lên đến gần 72 nghìn tỷ đồng (xấp xỉ 4 tỷ USD), chiếm gần 10% giá trị vốn hóa thị trường, trong
đó chủ yếu nhận ủy thác thông qua các hoạt động quản lý danh mục đầu tư chiếm tới 87% tổng số vốn
huy động thông qua các công ty quản lý quỹ.
Phần lớn tiền của các quỹ đầu tư vào cổ phiếu niêm yết với giá trị 7.500 tỷ đồng, chiếm 54% giá trị
tài sản ròng của các quỹ, 2.700 tỷ đồng tương đuơng 20% vào chứng khốn chưa niêm yết, phần cịn lại
vào các tài sản khác. Nguyên nhân có sự tăng mạnh giá trị chứng khoán niêm yết là do TTCK quý 4/2009
sơi động, giá chứng khốn tăng nâng giá trị tài sản đầu tư các quỹ vào chứng khoán niêm yết và các quỹ
có xu hướng gia tăng đầu tư vào chứng khốn niêm yết.
Về huy động vốn, tính đến đầu năm 2008, tổng quy mô các quỹ ở mức 12.600 tỷ đồng và duy trì đến
quý 3/2009, nhưng đến cuối năm 2009 chỉ cịn 12.350 tỷ đồng do có 1 quỹ giải thể (Indochina capital).
Về tăng trưởng giá trị tài sản ròng (NAV) của các quỹ cũng từng bước được cải thiện. Cuối năm
2008, giá trị tài sản ròng của các quỹ là gần 10.500 tỷ đồng, thì đến cuối năm 2009 tăng lên gần 13.500 tỷ
đồng, gần 23% so với năm 2008. Hầu hết các quỹ đều đạt tỷ lệ tăng trưởng dương. Với chiến lược đầu tư
dài hạn và đầu tư vào sản phẩm chất lượng cao, các công ty quản lý quỹ đã tạo ra được giá trị gia tăng
đáng kể cho các nhà đầu tư là tổ chức và cá nhân.
Xét về chỉ tiêu lợi nhuận (tổng thu nhập/NAV) năm 2009 khoảng 29%, tỷ lệ này là khá khả quan, các
quỹ đã có dấu hiệu thốt khỏi khủng hoảng (cuối năm 2008, tỷ lệ lợi nhuận âm 40%)
Xét chỉ tiêu chi phí, tỷ lệ chi phí/quy mơ vốn bình qn năm 2009 đạt khoảng 3.5%, tỷ lệ này được
đánh giá là thấp so với chi phí quản lý quỹ của ngành quản lý quỹ các nước.



Xét chỉ tiêu về thu nhập, tỷ lệ thu nhập rịng /NAV bình qn là 5.1%, tỷ lệ này đạt dương được đánh
giá là khả quan trong tình hình TTCK có nhiều biến động, giá chứng khốn giảm sâu như cuối năm 2008
đầu năm 2009.
Nhìn chung, tính đến năm 2009, hoạt động của hầu hết các quỹ đầu tư có kết quả khả quan, tỷ lệ tăng
trưởng NAV lớn, đạt trên 20%. Đây thực sự là nỗ lực của ngành quản lý quỹ nói chung và các cơng ty
quản lý quỹ nói riêng.
Năm 2009, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định trong phát triển kinh tế như: ngăn chặn
đà suy giảm kinh tế, đạt tốc độ tăng trưởng hợp lý trong bối cảnh các nước trong khu vực đều gặp khó
khăn, kinh tế vĩ mơ tương đối ổn định.
Nhưng bên cạnh những điểm đạt được, kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều điểm chưa đạt được như:
hoạt động xuất khẩu gặp nhiều khó khăn do thị trường co lại, tỷ giá hối đoái điều chỉnh chưa kịp thời,
hoạt động của các tập đoàn Nhà nước chưa thực sự hiệu quả... đã ảnh hưởng đến hoạt động chung của
toàn bộ nền kinh tế.
Tuy nhiên, để đạt được thành cơng trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế tồn
cầu và là một trong số ít các nước trên thế giới có tốc độ tăng trưởng dương ở mức cao trong năm 2009,
cần phải ghi nhận Chính phủ Việt Nam đã rất cố gắng và bản lĩnh trong hoạt động điều hành chính sách
vĩ mơ của mình.
Được đánh giá là nền kinh tế tăng trưởng nhanh thứ hai trên thế giới, sau Trung Quốc, Việt Nam
thực sự không phụ sự tin tưởng của các nhà đầu tư quốc tế và trong nước. Với những cải cách về chính
sách triệt để, q trình cổ phần hố được đẩy mạnh cùng với sự ra đời của thị trường chứng khoán và sự
trỗi dậy mạnh mẽ của nền kinh tế tư nhân, các Quỹ đầu tư thực sự ăn nên làm ra tại Việt Nam.
2.1.1 Nhóm Quỹ đầu tư chứng khốn
Theo khảo sát của tập đồn đầu tư và tư vấn tài chính LCF Rothschild trong năm 2009, các quỹ
đầu tư vào thị trường chứng khốn Việt Nam có mức tăng trưởng NAV (Net Asset Value - Chỉ số giá trị
tài sản thuần) xấp xỉ 40%, thấp hơn mức tăng 48,4% của VN-Index.
Ông Dominic Scriven - Tổng giám đốc Dragon Capital - cho biết: “Tăng trưởng của các quỹ năm
2009 không theo kịp đà tăng của chỉ số VN-Index do các nhà quản lý quỹ đã quá thận trọng, ít đầu tư vào
cổ phiếu rủi ro cao, thay vào đó là mua trái phiếu hoặc giữ tiền mặt”. Ngồi ra, theo ơng, các quỹ có quy
mơ lớn cũng tăng trưởng chậm hơn quỹ nhỏ, vì thiếu linh động hơn trong điều hành và thích ứng với thị
trường.

Hiện có khoảng 20 quỹ đang tham gia đầu tư vào thị trường chứng khốn VN, trong đó có các
quỹ lớn thuộc các công ty quản lý VinaCapital và Dragon Capital như Vietnam Opportunity Fund (VOF),
Vietnam Infrastructure Ltd (VNI), Vietnam Growth Fund (VGF), Vietnam Enterprise Investment Ltd
(VEIL) và Vietnam Dragon Fund (VDF). Giá trị NAV trung bình của 20 quỹ này tính đến ngày 21/1/2010
là 147 triệu USD, trong đó lớn nhất là VOF với giá trị lên đến 771 triệu USD, 3 quỹ do Dragon Capital
quản lý có tổng NAV là 889 triệu USD.
Tuy nhiên, mức tăng trưởng cao lại thuộc về các quỹ có quy mơ trung bình. Đơn cử là 3 quỹ do
PXP Vietnam Asset Management (PXP) quản lý gồm VLF - Vietnam Lotus Fund, VEEF - Vietnam
Emerging Equity Fund và PXP Vietnam Fund có mức tăng trưởng NAV đứng đầu bảng xếp hạng các quỹ


đầu tư có hoạt động tốt nhất tại Việt Nam do LCF Rothschild khảo sát. Trong đó, cao nhất là quỹ VEEF,
tính đến ngày 9/11/2009 có mức tăng NAV là 98,3%.
Một trong những ngun nhân thành cơng của PXP chính là “tập trung” vào thị trường chứng
khoán. Cú lội ngược dịng của TTCKVN năm 2009 hầu như hồn tồn bù đắp “mất mát” của PXP trong
năm 2008. Trong khi đó, những “gạo cội” như VinaCapital và Dragon Capital lại theo chiến lược đa dạng
hóa danh mục đầu tư chứ khơng chỉ tập trung vào chứng khoán. Đơn cử, VinaCapital chỉ dành 22% danh
mục đầu tư cho chứng khoán. Đồng thời, cú ngã đau 2008 khiến họ thận trọng hơn trong việc giải ngân,
thậm chí “án binh bất động” ngay cả lúc VN-Index giảm mạnh và chạm đáy vào tháng 2/2009, để rồi sau
đó tiếc nuối khi VN-Index tăng mạnh trong nửa cuối năm 2009.
Các quỹ đầu tư vào cổ phiếu niêm yết, các công ty cổ phần

Quỹ

Vietnam Equity Holding (VEH)
Bao Tin Equity Fund
Bao Viet Investment Fund
Blackhorse Enhanced Vietnam Inc
BIDV-Vietnam Partners' Vietnam Investment Fund
DWS Vietnam Fund

DWS Vietnam Fund

Công ty quản lý

Saigon Asset Management (SAM)

Bao Viet Fund Management (BVFMC)
Blackhorse Asset Management

39,3

BVIM Investment Management
Deutsche Bank
31,9
Dragon Capital

Vietnam Dragon Fund (VDF)
Vietnam Equity Fund

10,1

Bao Tin Capital

Vietnam Enterprise Investments Ltd. (VEIL)
Vietnam Growth Fund Limited (VGF)

Tăng
trưởng
năm
2009 (%)


27,2
25,8

Finansa Fund Management

Golden Bridge Financial Group's Vina Blue Ocean
Golden Bridge Financial Fund
Fund
Hanoi Fund

Hanoi Fund Management

Indochina Capital Vietnam Holdings

Indochina Capital

JF Vietnam Opportunities Fund
JF Vietnam Opportunities Fund

JF Vietnam Opportunities

Kamm Investment Holdings

Kamm Investment

Vietnam Growth Fund

Korea Investment Trust Management


45,6
4,3


Worldwide Vietnam Fund
China and Vietnam Fund
KITMC RSP Balanced Fund
KITMC Vietnam Growth Fund I and II
KITMC Worldwide Vietnam Fund I and II
Vietnam Oilfield Fund
Lion Capital Vietnam Fund

Lion Capital

Manulife Progressive Fund (MAPF1)

Manulife Funds

Vietnam Azalea Fund
MekongEnterprise Fund
Mirae Asset’s Mirae Asset Securities JSC

48,6

Mekong Capital
Mirae Asset Maps Investment Management

Maxford Investment management Ltd’s Vietnam
Maxford Investment Management
Focus Fund SP

Orient Management Company’s Orient Fund 1 Cty quản lý quỹ đầu tư chứng khốn Phương
(OF1)
Đơng
Prudential Balanced Fund
Prudential Vietnam Securities Investment Fund

Prudential Fund Management

Vietnam Lotus Fund
PXP Vietnam Fund Ltd

6,7
39,3

PXP Vietnam Asset Management

56,2

Vietnam Emerging Equity Fund
Saigon Securities Investment Fund A1 (SFA1)
Saigon Securities Investment Fund A2 (SFA2)

Thanh Viet Fund Management

Viet Capital Fund Management’s Viet Capital Fund
Cty quản lý quỹ Bản Việt
(VCF)
Viet Fund 1 (VF1)
Viet Fund 2 (VF2)


50,9
Viet Fund Management

Viet Fund 4 (VF4)
Vietcombank Partners Fund 1 (VPF1)
Vietnam Emerging Market Fund (VEMF)

48,2
Vietcombank Fund Management
Vietnam Asset Management

71,3

2.1.2 Nhóm Quỹ đầu tư bất động sản
Nhóm quỹ đầu tư vào bất động sản trong năm 2009 cũng gặt hái ít nhiều thành cơng, nhưng chỉ
tập trung ở một vài quỹ có chiến lược thích hợp với tình hình thị trường BĐS khơng mấy khởi sắc năm


qua. Đó là chiến lược nhắm đến các dự án “đất sạch”, đặc biệt là các dự án chung cư, phân khúc có nhu
cầu ln ổn định bất chấp thị trường BĐS đang vào “mùa” nào. Được LCF Rothschild xếp đầu bảng là
tân binh VPH (Vietnam Property Holding) của Saigon Asset Management (SAM), hoạt động chính thức
vào năm 2008, với mức tăng trưởng là 12,9%. Quỹ bất động sản VPF của Dragon Capital đứng thứ hai
với mức tăng trưởng NAV là 9,5%. Trong khi đó, quỹ VNL của VinaCapital chỉ ở mức tăng trưởng âm
14,4% khi đầu tư tập trung vào phân khúc cao cấp gồm các dự án cao ốc văn phịng và khách sạn, hướng
đầu tư khơng phù hợp với bối cảnh khủng hoảng kinh tế đang trong thời điểm “tạo dấu ấn” năm 2009.
Tuy nhiên, trong tình hình thị trường tài chính có nhiều bất ổn thì tiềm năng tăng trưởng của nhóm
quỹ đầu tư BĐS là rất lớn trong năm 2010.
Các quỹ đầu tư vào bất động sản ở VN
Quỹ


Cty quản lý quỹ

Tăng
trưởng
2009 (%)

Vietnam Property Holding (VPH)

Saigon Asset Management

12,9

Bao Tin Real Estate Fund

Bao Tin Capital

Vietnam Property Fund (VPF)

Dragon Capital

Indochina Land Holdings

Indochina Capital

Aseana Properties

Ireka Corporation Berhad

Vietnam Real-Estate Development Fund


Korea Investment Trust Management

Vietnam Infrastructure Limited (VNI)
VinaCapital's VinaLand

VinaCapital

9,5

3,1
-14,4

2.2 Tác động của Quỹ đầu tư đến nền kinh tế Việt Nam
2.2.1. Thành tựu:
2.2.1.1. Đối với vốn đầu tư xã hội
Để phát triển bền vững rất cần những nguồn vốn trung và dài hạn. Quỹ đầu tư tạo ra hàng loạt
các kênh huy động vốn phù hợp với nhu cầu của cả người đầu tư lẫn người nhận đầu tư. Các nguồn vốn
nhàn rỗi riêng lẻ trong công chúng do vậy sẽ được tập trung lại thành một nguồn vốn khổng lồ, thông qua
Quỹ đầu tư sẽ được đầu tư vào các dự án dài hạn, đảm bảo được nguồn vốn phát triển vững chắc cho cả
khu vực tư nhân lẫn khu vực nhà nước.
Không những thế, các Quỹ đầu tư cịn khuyến khích được dịng chảy vốn nước ngồi. Đối với
luồng vốn gián tiếp, việc đầu tư vào Quỹ sẽ loại bỏ các hạn chế của họ về giao dịch mua bán chứng khốn
trực tiếp, về kiến thức và thơng tin về chứng khoán cũng như giảm thiểu các chi phí đầu tư. Đối với luồng
vốn đầu tư trực tiếp, Quỹ đầu tư góp phần thúc đẩy các dự án bằng cách tham gia góp vốn vào các liên
doanh hay mua lại một phần vốn của bên đối tác, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài trong việc thu
hồi vốn cũng như tăng được sức mạnh trong nước ở các liên doanh.
2.2.1.2. Đối với công ty cổ phần:


Việc tiếp cận các nguồn vốn tiết kiệm nhỏ từ các cá nhân qua hệ thống ngân hàng luôn phải đối

phó với những thủ tục rườm rà (đảm bảo khoản vay với các chứng từ tài chính và tài sản …). Thông qua
Quỹ đầu tư, việc huy động vốn chỉ đơn thuần là phát hành chứng khốn với chi phí giảm đáng kể.
Nhận được các thông tin tư vấn quản lý, marketing và tài chính: Quỹ đầu tư cung cấp các thơng
tin tài chính, tư vấn về kế hoạch tài chính, marketing và các mối quan hệ với các tổ chức tài chính và các
doanh nghiệp khác. Lợi ích này của Quỹ đầu tư được đặc biệt đánh giá cao với các doanh nghiệp mới,
doanh nghiệp vừa và nhỏ, và nhất là trong các nền kinh tế chuyển đổi.
Tiếp cận nguồn tài chính dài hạn: Lợi ích này thu được do sự kết hợp các công cụ huy động vốn
của Quỹ. Đó là các loại chứng khốn do Quỹ phát hành, cùng với hoạt động của thị trường chứng khoán
cho phép trao đổi, mua bán các loại chứng khốn đó. Sự kết hợp này khuyến khích các nhà đầu tư, đặc
biệt là các nhà đầu tư có khả năng đầu tư dài hạn, cung cấp nguồn tài chính vơ cùng cần thiết cho sự phát
triển lâu dài của doanh nghiệp.
2.2.1.3. Đối với nhà đầu tư và thị trường chứng khoán
Trước hết và quan trọng hơn cả là khả năng đầu tư đa dạng. Một cá nhân bình thường với số
vốn hạn chế khó có thể đa dạng hố một cách tối ưu danh mục đầu tư của mình. Nhưng bằng phương thức
kết hợp vốn cùng với nhiều người khác trong các quỹ đầu tư, cá nhân đó có điều kiện chia phần lợi trong
một tập hợp các chứng khoán được đa dạng tối đa.
Lợi ích khác do các quỹ đầu tư mang lại là trình độ quản lý chuyên nghiệp. Nhiều nhà đầu tư
nhỏ khó đạt hiệu năng quản lý các hoạt động đầu tư của mình một cách khơn ngoan nhất, họ cũng khơng
có khả năng hoặc thấy khơng cịn có lợi nếu phải trả các khoản phí cần thiết để “mua” sự quản lý chuyên
nghiệp riêng cho mình. Bằng cách chung vốn tập thể vào các quỹ đầu tư, những cá nhân này có thể yên
tâm sẽ được các nhà điều hành chuyên nghiệp quản lý số tiền đầu tư của mình với một chi phí thấp hơn so
với việc họ phải tự lo liệu.
Một lợi ích nổi bật nữa của quỹ đầu tư là các cổ phần góp vốn vào quỹ này có tính thanh khoản.
Điều này có nghĩa là nếu nhà đầu tư muốn rút lui khỏi tổ chức đầu tư này, họ có thể bán lại phần tài sản
của họ với một giá phải chăng để chuyển thành tiền mặt trong một thời gian ngắn. Do các chứng khoán
mà các quỹ đầu tư mua bán thường thuộc những loại đầu tư có điều kiện bán nhanh nhất, nên những
người mua cổ phần quỹ đầu tư khơng phải lo bị chơn vốn. Họ có thể thực hiện thanh lý việc nắm giữ cổ
phần của họ vào bất cứ ngày nào có giao dịch, ở mức giá được công bố hiện hành và nhận tiền sau một
khoảng thời gian qui định, thường là một tuần. Việc tính toán giá cổ phần của quỹ đầu tư rất đơn giản, vì
tổng tài sản của quỹ đầu tư hầu hết là các chứng khốn có độ linh hoạt cao, giá của nó được cập nhật vào

sau mỗi phiên giao dịch và dựa vào thị trường chứng khốn
Bên cạnh đó, sự tham gia của các Quỹ đầu tư và Công ty quản lý quỹ, với vai trò là tổ chức đầu
tư chuyên nghiệp đã góp phần thúc đẩy sự phát triển ổn định, bền vững của thị trường chứng khoán, đặc
biệt đối với các thị trường còn non trẻ như thị trường chứng khốn Việt Nam.
Cơng ty quản lý quỹ và Quỹ đầu tư chứng khoán cũng đã là cầu nối giữa nhà đầu tư và doanh
nghiệp, cung cấp vốn đầu tư tập trung vào các doanh nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế, góp phần nâng
cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thơng qua việc đóng góp các kinh nghiệm tài chính và
quản trị hiện đại vào các doanh nghiệp được đầu tư, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh
tế Việt Nam nói chung cũng như thị trường chứng khốn nói riêng.
2.2.2 Tồn tại, yếu kém:


2.2.2.3 Góc độ Cơ quan quản lý Nhà nước
Đầu tiên, các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động của các quỹ cũng khá khắt khe
như không cho phép đầu cơ trong giai đoạn thị trường đi xuống, khơng repo hay sử dụng các địn bẩy tài
chính như đối với nhà đầu tư cá nhân.,
Thứ hai, thuế hiện nay là vấn đề mấu chốt nhất gây nên tính kém hấp dẫn, đặc biệt với đối
tượng NĐT cá nhân, bởi có một sự khác biệt rất lớn trong thuế suất áp dụng khi họ tự thực hiện đầu tư so
với khi họ đầu tư qua quỹ đầu tư nội địa. Ngồi ra, phương pháp tính thuế và thuế suất áp dụng cũng rất
khác nhau giữa quỹ đầu tư nội địa và quỹ đầu tư ofshore, tạo thế kém hấp dẫn của quỹ nội địa.
Thứ ba, theo Luisa Gibbs, một luật sư người Úc làm việc tại Văn phòng Phillips Fox Hà Nội
trong 02 năm qua, nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến các quy tắc, luật lệ hỗ trợ và bảo vệ thị trường
hơn lợi nhuận. Những mối quan tâm chủ yếu là nhà đầu tư nước ngoài là có một khn khổ quản trị cơng
ty hiệu quả, mở rộng các lĩnh vực mà nhà đầu tư nước ngồi được phép đầu tư, khuyến khích các cơng ty
ở Việt Nam lên niêm yết trên thị trường và tạo sự bình đẳng về nghĩa vụ cơng bố thơng tin giữa các công
ty niêm yết và công ty chưa niêm yết.
Thứ tư, hạn chế trong quy định về đấu giá cổ phần của cơ quan quản lý nhà nước. Theo Nghị
định 187/2004/NĐ-CP và Thông tư 126, tất cả các cuộc bán cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước có
vốn trên 10 tỷ đồng phải thực hiện đấu giá qua Trung tâm giao dịch chứng khoán. Phương thức đấu giá
này có ưu điểm làm cho q trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước minh bạch hơn, tiền thu về bán cổ

phần cho nhà nước sẽ lớn hơn, nhất là đối tượng cổ phần hố là các doanh nghiệp có tiềm năng thu hút
người đầu tư. Tuy nhiên, phương thức này tỏ ra khơng thích hợp với các doanh nghiệp hoạt động kém
hiệu quả và làm tốn kém thêm chi phí, thay vì các cơng ty này chỉ cần thương lượng bán cổ phần cho các
nhà đầu tư chiến lược là các Quỹ đầu tư. Các tổ chức đầu tư lớn như Quỹ đầu tư muốn mua cổ phần của
các doanh nghiệp trên sẽ phải tham gia một cách bình đẳng vào các cuộc đấu giá cổ phần. Việc nhà đầu tư
chiến lược là các Quỹ đầu tư phải tham gia đấu giá bình đẳng như các nhà đầu tư khác đang là rào cản
đối với họ, bởi đối tượng này muốn được mua một tỷ lệ cổ phần đủ lớn bằng cách thương thảo theo
những yêu cầu riêng biệt hoặc thỏa thuận pháp lý. Điều này phù hợp với những công ty hoạt động kém
hiệu quả và cần được tái cơ cấu lại.
2.2.2.2. Góc độ quỹ đầu tư
Một trong những khó khăn cho hoạt động của các quỹ liên quan đến cơ chế của bản thân các
quỹ. Không linh hoạt như nhà đầu tư cá nhân, các quỹ đầu tư phải tuân thủ các kế hoạch, chiến lược được
đề ra từ trước, tất nhiên ngun tắc an tồn, ít rủi ro được quan tâm hàng đầu, gây trở ngại trong việc
chớp cơ hội hay chuyển hướng đầu tư khi thời cơ đến
Thứ hai, việc quản lý của Công ty quản lý quỹ. Được kỳ vọng nhiều nhưng một số Quỹ đầu tư đã
có lúc họat động khơng hiệu quả và thua lỗ. Một số Qũy đã sai lầm trong chiến luợc đầu tư của mình khi
đầu tư vào một doanh nghiệp họat động kém hiệu quả. Rủi ro này phát sinh từ việc quản lý của Công ty
quản lý quỹ làm cho quỹ không đạt được mục tiêu đã đề ra. Điều này dẫn đến thiệt hại cả về vật chất và
tinh thần cho nhà đầu tư, làm giảm lịng tin của nhà đầu tư đối với lọai hình doanh nghiệp mới này tại
Việt Nam.
Thứ ba, xung đột về mặt lợi ích. Trong q trình hoạt động của mình, Cơng ty quản lý quỹ có thể
gặp phải những xung đột lợi ích giữa các quỹ mà cơng ty quản lý hoặc giữa Quỹ với các sản phẩm tài
chính khác của cơng ty. Các xung đột này có thể dẫn đến sự đối xử có lợi hay bất lợi đối với mỗi quỹ.


Thứ tư, rủi ro về định mức tín nhiệm. Các Quỹ đầu tư thường sẽ đầu tư một phần tài sản của quỹ,
mặc dù khơng lớn vào trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu công ty. Việc
đầu tư này sẽ hàm chứa rủi ro là tổ chức phát hành này có thể sẽ khơng có khả năng hồn trả tiền gốc
hoặc lãi cho nhà đầu tư.
2.2.2.3. Góc độ doanh nghiệp

Khó khăn đầu tiên mà các Quỹ đầu tư đang gặp phải là những rủi ro khi đầu tư vào Việt Nam do
thiếu thông tin hoặc không thẩm định được thông tin về doanh nghiệp. Khó khăn lớn nhất của nhà đầu tư
là tìm hiểu thơng tin tài chính của doanh nghiệp Việt Nam.
Điều quan trọng nhất đối với nhà đầu tư là muốn hiểu được hoạt động của doanh nghiệp một cách
chân thực và chính xác qua bản báo cáo tài chính, nhưng phần lớn doanh nghiệp ở Việt Nam đều coi việc
báo cáo tài chính chỉ để đối phó với cơ quan thuế, chứ không phải là dành cho cổ đông cũng như các nhà
đầu tư tiềm năng. Doanh nghiệp Việt Nam hiên nay thường lập 2 loại sổ sách kế toán, một dành cho mình
và một dành cho việc báo cáo thuế. Trong khi đó, hệ thống kiểm tốn cịn nhiều bất cập, có những quy
định khơng tn theo chuẩn mực quốc tế. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước khi cổ
phần hố chủ yếu là tính theo giá trị sổ sách chứ không sử dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền, nên để
đánh giá giá trị thực của một doanh nghiệp là rất khó. Hệ thống thơng tin của doanh nghiệp cịn yếu,
khơng cung cấp đầy đủ cho nhà đầu tư về tình hình hoạt động cũng như những dự báo trong tương lai.
Hoạt động thâu tóm giữa các doanh nghiệp gần đây mới được công bố công khai. Hầu hết doanh nghiệp
Việt Nam đều ngại công khai tình hình hoạt động kinh doanh. Hội đồng quản trị chưa phải là tổ chức quy
tụ những cổ đông lớn và không hoạt động độc lập, bởi tại nhiều doanh nghiệp, Giám đốc lại kiêm luôn
chức Chủ tịch Hội đồng quản trị...
Thứ hai, hàng hoá trên thị trường hiện nay tuy đa dạng nhưng nhìn chung vẫn còn thiếu về cả
số lượng lẫn chất luợng. Đặc trưng các công ty cổ phần Việt Nam hầu hết xuất phát từ cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước, quyền lực chi phối vẫn thuộc về cổ đơng nhà nước. Chính vì sợ bị mất quyền lợi, sợ
phải đối mặt với việc minh bạch hóa thơng tin khiến việc xem xét niêm yết bị hạn chế. Đây chính là
nguyên nhân khiến cho các Quỹ đầu tư gặp nhiều khó khăn trong giải ngân nguồn vốn đầu tư. Khi mà quy
mô thị trường không được nâng lên, không hội tụ được những doanh nghiệp lớn lên niêm yết thì thị
trường chứng khốn Việt Nam khó có khả năng thu hút nhà đầu tư tài chính nước ngòai lớn như các Quỹ
đầu tư nước ngòai.
Thứ ba, các quỹ đầu tư gặp phải khó khăn khi lựa chọn công ty để giải ngân. Xu thế chung của
các quỹ đầu tư khi đầu tư vào doanh nghiệp cổ phần là đầu tư tồn diện, nghĩa là khơng chỉ góp tiền, mà
quỹ cịn giúp doanh nghiệp về nhân lực, kinh nghiệm quản lý, trình độ chun mơn kỹ thuật, thị trường
tiêu thụ… Việc được tiếp nhận nguồn vốn đầu tư này có thể coi như một may mắn cho sự phát triển của
doanh nghiệp cổ phần, bởi họ có cơ hội để lớn mạnh vững chắc. Để tiếp cận được nguồn vốn đầu tư mang
tính chất tồn diện này, trước hết, doanh nghiệp phải biết những tiêu chuẩn cần thiết mà các Quỹ đầu tư

đưa ra. Hiện nay ở Việt Nam rất ít các cơng ty phù hợp với tiêu chí để Quỹ bỏ vốn đầu tư, vì hầu hết các
cơng ty cổ phần có quy mơ nhỏ, chưa đáp ứng được yêu cầu minh bạch tài chính hoặc những yêu cầu
khác của Quỹ.
Ngoài một số quỹ đang đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp niêm yết
trên sàn, hiện có một số Quỹ đầu tư chuyên đi tìm kiếm những doanh nghiệp đang ở giai đoạn phát triển
tiềm năng để đầu tư. Vơi tầm nhìn chiến lược rộng, các Quỹ đầu tư sẽ phân loại những doanh nghiệp nào
họ có thể phát triển về bề rộng và doanh nghiệp nào có thể phát triển về bề sâu.


Với những tiêu chí riêng, các Quỹ đầu tư sẽ đưa ra những chuẩn mực cho từng doanh nghiệp
trong một lĩnh vực. Những tiêu chuẩn mà Quỹ IDG Ventures đưa ra hiện nay là: doanh nghiệp phải hiểu
rõ sở thích, hoạt động cũng như những điều kiện về nhân khẩu của khách hàng; có sản phẩm hoặc dịch vụ
độc đáo, mang lại lợi nhuận vuợt trội, đáp ứng nhu cầu thị trường; có khả năng sử dụng lợi thế từ cơng
nghệ để giữ ưu thế trên thị trường; có những chuẩn bị để phản ứng kịp thời với sự thay đổi của thị trường;
có đội ngũ điều hành tài năng với tầm chiến lược, kinh nghiệm… Trên thực tế, những chuẩn mực IDG
Ventures đưa ra cho các doanh nghiệp để hợp tác, rót vốn đầu tư vừ khó lại vừa dễ. Nó dễ là vì bất cứ
doanh nghiệp nào hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin, phần mềm dù lớn hay nhỏ, phát triển
trong giai đoạn nào cũng có thể tiếp cận được nguồn đầu tư này. Cịn rất khó là ở chỗ, để có những sản
phẩm hay dịch vụ độc đáo mang lại lợi nhuận vượt trội thì khơng phải doanh nghiệp nào cũng làm được.
Quỹ đầu tư bất động sản Indochina Land Holdings cũng vậy. Nhà đầu tư nước ngồi tìm kiếm cơ
hội hợp tác với những doanh nghiệp bất động sản trong nước có tài sản đất đai nằm ở những vị trí tốt, có
thể xây dựng cao ốc văn phòng, khách sạn, khu chung cư cao cấp… Để có những vị trí đẹp và tiện dụng,
doanh nghiệp Việt Nam cũng phải qua những cuộc đấu thầu lớn với sự cạnh tranh gay gắt. Mêkông
Capital thì yêu cầu về năng lực của đội ngũ quản lý doanh nghiệp rất cao.
Chính vì vậy, khơng những Mêkơng Capital mà hầu hết các Quỹ đầu tư nước ngoài cũng như
trong nước hiện nay đều định hướng đầu tư dài hạn, chú trọng vào những doanh nghiệp có đội ngũ quản
lý tốt, bởi trong dài hạn, doanh nghiệp nào có đội ngũ quản lý xuất sắc sẽ có khả năng thành công hơn,
bất kể họ thuộc lĩnh vực nào.

Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động các quỹ đầu tư tại Việt Nam

3.1 Phân tích SWOT nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới
Điểm mạnh

Điểm yếu

Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao

Tốc độ tăng xuất khẩu giảm

Thị trương nội địa đang dần phát triển

Kết quả đáng thất vọng về FDI

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được đẩy Tỷ suất đầu tư/tăng trưởng tăng
mạnh
Chênh lệch nông thôn/thành thị tăng
Đạt kết quả tốt về xóa đói giảm nghèo
Lạm phát cao
Các chỉ số xã hội tốt
Nợ cơng cao (50% GDP)
Có lượng kiều hối cao
Xuất khẩu
Dự trữ ngoại tệ ít (khoảng 2 tháng nhập khẩu)
Nền kinh tế ngầm chiếm tỷ lệ lớn (theo một số
nghiên cứu thì khoảng 60%)
Chỉ số năng lực cạnh tranh thấp
Thâm hụt ngân sách cao ( liên tục trong 5 năm trở


lại đây vởi tỷ lệ >5% GDP, năm 2009 khoảng 7%

GDP
Đánh giá của nước ngồi về hệ số tín nhiệm của
Việt Nam thấp hơn một số nước trong khu vực như
Indonesia và Malaysia do đó Việt Nam phải vay
vốn trên thị trường tài chính quốc tế với lợi suất cao
hơn
Nhập siêu cao
Xuất khẩu chủ yếu là các mặt hàng sơ cấp (tài
nguyên thiên nhiên, các mặt hàng nông lâm thủy
sản)
Cơ hội

Nguy cơ

Các chính sách tốt hơn ở các tỉnh

Quá coi trọng đầu tư theo định hướng

Duy trì sự tăng trưởng doanh nghiệp cổ phần hóa

Chất lượng giáo dục thấp (có thể)

Thu hút đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngồi

Cần thêm tiến bộ về IT (chất lượng/sử dụng)

Có vốn để có thể sử dụng có hiệu quả

Bất cân bằng các vùng và thành thị/nông thôn tăng


3.2. Giải pháp cho chính phủ
3.2.1. Duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô
Sự ổn định và tăng trưởng bền vững của nền kinh tế vĩ mơ có mối quan hệ mật thiết tới thị
trường chứng khốn nói chung và sự phát triển của các Quỹ đầu tư chứng khốn nói riêng. Chỉ trong một
nền kinh tế ổn định, các chỉ số vĩ mô như lạm phát, tỷ lệ tăng trưởng, tỷ giá hối đối, mức lãi suất ổn định
thì mới tạo lập được niềm tin và kích thích người đầu tư xố bỏ tâm lý e ngại, dè chừng khi tham gia vào
một hình thức đầu tư mới. Từ đó khuyến khích các tổ chức kinh tế tích cực hơn trong quyết định thành
lập Quỹ đầu tư chứng khoán cũng như tạo ra môi trường tốt cho hoạt động của các Quỹ đầu tư phát triển.
Trong bối cảnh nền kinh tế vĩ mơ có nhiều dấu hiệu bất ổn, thiếu sự kiểm sốt thì các nhà đầu tư
khơng thể mạo hiểm tham gia vào thị trường chứng khốn vì họ khơng tin tưởng vào khả năng sinh lợi
trên thị trường này. Điều này dẫn đến sự đình trệ trong hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khốn nói
riêng và thị trường chứng khốn nói chung.
Một nền kinh tế ổn định cịn giúp cho hệ thống doanh nghiệp có thể duy trì sự phát triển ổn định
của mình, thu hút được các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước. Khi các doanh nghiệp làm ăn có hiệu
quả, quan tâm tới việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, họ sẽ có nhu cầu về vốn rất cao và tìm
cách huy động dưới nhiều hình thức trong đó có việc tham gia vào thị trường chứng khoán. Đây là xu
hướng tất yếu của các doanh nghiệp trong một nền kinh tế phát triển. Như vậy, nguồn cung hàng hoá cho
thị trường chứng khốn sẽ phong phú. Đồng thời, khi đó các chứng khoán được phát hành ra sẽ hấp dẫn


hơn đối với người đầu tư, do đó sẽ làm tăng tính thanh khoản của các chứng khốn, làm cho hoạt động
kinh doanh chứng khốn sơi động.
Để có thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, ổn định, kiểm soát lạm phát trong điều kiện
chịu sự ảnh hưởng của những biến động kinh tế thế giới trong xu hướng tồn cầu hố mạnh mẽ như hiện
nay thì Việt Nam phải thực hiện một số biện pháp cơ bản sau:
- Thực hành tiết kiệm để tạo và nuôi dưỡng nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Chính sách tiết
kiệm phải đi đơi với chính sách khuyến khích đầu tư và chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu,
mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
- Đầu tư phát triển phải là vấn đề ưu tiên hàng đầu trong các quyết sách kinh tế quốc gia. Đầu
tư phải có trọng điểm, có ưu tiên theo hướng chuyển dịch cơ cấu theo hướng kết hợp phát triển theo chiều

rộng với việc hồn thiện, cải tiến thiết bị cơng nghệ theo chiều sâu.
3.2.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý
Việc hoàn thiện hệ thống pháp lý là để tạo hành lang cho các tổ chức tài chính và doanh nghiệp
hoạt động một cách công bằng và hiệu quả. Hiện nay, chúng ta đã có luật các tổ chức tín dụng nhưng
chưa đề cập rõ về Quỹ đầu tư.
Việc điều chỉnh các hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán chỉ dựa vào quy chế tổ chức và hoạt
động của Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ kèm theo Quyết định số 05/1998/QĐ-UBCK ngày
13/10/1998. Nhưng để các văn bản này đi vào thực tiễn và phát huy hiệu lực thì cần sớm đưa các nội
dung này vào trong khn khổ pháp lý cao hơn dưới hình thức các luật như Luật về Chứng khoán và thị
trường chứng khoán, Luật các định chế tài chính trung gian khi thị trường chứng khoán Việt Nam dần đi
vào hoạt động ổn định.
Ngồi ra, do Quỹ đầu tư chứng khốn có một số đặc điểm riêng so với các chủ thể kinh doanh
khác trên thị trường nên nó chịu sự chi phối của nhiều bộ luật khác có liên quan như Luật doanh nghiệp,
Luật dân sự… Các bộ luật này và các văn bản dưới luật đi kèm có một số điểm bất đồng, chồng chéo
nhau và chưa có sự bổ sung điều chỉnh đối với một hình thức đầu tư mới - đầu tư qua quỹ. Do vậy, một
yêu cầu đang được đặt ra là cần phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các bộ luật này để tạo nên một hệ thống
pháp luật đồng bộ, tạo sự công bằng cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp cũng như nhằm giải quyết một
cách nhanh chóng khi có tranh chấp xảy ra. Ví dụ như đối với Luật đầu tư nước ngồi, cần nhanh chóng
chỉnh sửa nhằm khuyến khích và tạo điều kiện cho các Quỹ đầu tư nước ngoài được nắm giữ một tỷ lệ cổ
phiếu của một công ty lớn hơn tỷ lệ hiện nay là 30%.
3.2.3. Nhà nước cần khuyến khích và hỗ trợ tích cực cho việc hình thành và phát triển của Quỹ
đầu tư
Khi thị trường chứng khốn đã đi vào hoạt động thì việc hình thành các Quỹ đầu tư là hết sức
cần thiết để tạo điều kiện cho cơng chúng có thể tham gia vào thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, Quỹ
đầu tư chứng khốn cịn là vấn đề rất mới và trong điều kiện hiện nay cịn nhiều khó khăn để quỹ ra đời
và hoạt động, do vậy rất cần có sự trợ giúp của nhà nước. Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy trong giai
đoạn đầu phát triển thị trường chứng khoán, chính phủ Hàn Quốc đóng vai trị to lớn trong việc thúc đẩy
trợ giúp sự hình thành và phát triển Cơng ty tín thác đầu tư. Tại Malaixia có Quỹ đầu tư chứng khốn do
chính phủ thành lập tên là PNB. Nó có những quỹ chi nhánh theo chuyên ngành để hỗ trợ, giúp đỡ người
dân mua các cổ phiếu của các cơng trình, cơng ty làm ăn có lãi. Giống với Malaixia, ở Singapore chính

phủ cũng thành lập một Quỹ đầu tư chứng khoán của nhà nước với mục đích tham gia vào các doanh


nghiệp liên doanh với nước ngoài. Số vốn của các quỹ đó ngày càng tăng khiến cho quỹ có thể mở rộng
đầu tư ra nước ngoài. Do vậy, sự trợ giúp của nhà nước thể hiện ở việc nhà nước cần đi tiên phong trong
việc thành lập công ty quản lý quỹ và thiết lập các Quỹ đầu tư để mở đầu tạo niềm tin cho công chúng
trong đầu tư. Việc mở đầu thành cơng có ý nghĩa rất quan trọng để khuyến khích, thu hút các thành phần
kinh tế và các tổ chức khác.
3.2.4. Thu hút đầu tư gián tiếp
Chúng ta nên có chế độ ưu tiên đối với lĩnh vực đầu tư gián tiếp cũng được ưu đãi như đầu tư
trực tiếp. Đầu tư gián tiếp nước ngoài là một hình thức đầu tư phổ biến trên thế giới và quan trọng khơng
kém so với hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việt Nam đã rất thành cơng trong thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngồi nhưng xem ra việc thu hút đầu tư nước ngoài gián tiếp vẫn còn bị bỏ ngỏ. Các nhà
quản lý hình như chưa có chính sách thơng thống để thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp này, một phần vì
sợ các nhà đầu tư nước ngồi có quyền rút vốn ồ ạt gây khủng hoảng cho nền tài chính quốc gia tương tự
như cuộc khủng hoảng khu vực xảy ra vào năm 1997. Nhưng trên thực tế, tỷ lệ vốn đầu tư gián tiếp trên
thị trường Việt Nam hiện nay chiếm chưa đến 1% vốn đầu tư trực tiếp trong khi ở Thái Lan khi xảy ra
khủng hoảng tỷ lệ này là 80%. Chính vì vậy, Việt Nam phải quan tâm hơn nữa tới kênh thu hút vốn này.
3.2.5. Phát triển hệ thống ngân hàng ở Việt Nam
Thị trường chứng khốn và hệ thống ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ và gắn bó hữu cơ với
nhau. Thị trường chứng khốn chỉ có thể phát triển vững chắc trên cơ sở một hệ thống ngân hàng lành
mạnh và được kiểm soát tốt. Đối với các Quỹ đầu tư, ngân hàng đóng vai trị là chủ thể giám sát, bảo
quản tài sản của quỹ. Muốn trở thành ngân hàng giám sát, ngân hàng đó phải đáp ứng các điều kiện do Uỷ
ban chứng khoán nhà nước đề ra. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải nỗ lực liên tục cơ cấu lại tổ chức, hoàn
thiện các nghiệp vụ phục vụ khách hàng và từng bước chuẩn hoá các quy trình nghiệp vụ. Ngân hàng nhà
nước nên có chế độ giám sát đảm bảo độ an toàn của các ngân hàng thương mại, xây dựng các môi trường
pháp lý chặt chẽ, xây dựng các tiêu chuẩn hạch toán, báo cáo tài chính kế tốn, kiểm tốn rõ ràng và trung
thực để các ngân hàng thương mại có thể đáp ứng một nghiệp vụ mới này.
Các ngân hàng thương mại là những tổ chức đóng vai trị tích cực trong hoạt động kinh doanh
chứng khoán. Bởi vậy, hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động lành mạnh và được ngân hàng trung

ương kiểm sốt và giám sát chặt chẽ sẽ có ảnh hưởng lớn đến tính lành mạnh của thị trường chứng khốn.
Qua đó đã gián tiếp tạo điều kiện cho sự ra đời của các Quỹ đầu tư.
Nhà nước tích cực khuyến khích các ngân hàng tham gia tạo lực lượng nịng cốt cho thị trường
chứng khốn. Ngân hàng nhà nước có thể dành một khoản chi nhất định cho việc thành lập các cơng ty
chứng khốn hoặc tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại quốc doanh để tạo cơ sở cho các ngân
hàng thành lập công ty chứng khoán hoặc thực hiện việc liên doanh với cơng ty chứng khốn nước ngồi.
Bên cạnh đó, ngân hàng không ngừng nâng cao nghiệp vụ, áp dụng các phương thức thanh toán… tạo
điều kiện cho mọi hoạt động trên thị trường chứng khốn nói chung cũng như hoạt động của các Quỹ đầu
tư nói riêng và nhất là có thể đáp ứng được các điều kiện để trở thành tổ chức bảo quản và giám sát tài sản
cho các Quỹ đầu tư.
Một tin vui mới đến cho các ngân hàng là vừa qua Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã ký giấy
phép công nhận Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là ngân
hàng lưu ký chứng khoán. Đây là bước chuẩn bị nhằm tiến tới việc thành lập các ngân hàng giám sát khi
các Quỹ đầu tư ra đời.


3.2.6. Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế đối với hoạt động đầu tư chứng khoán của Quỹ đầu
tư.
Quỹ đầu tư chứng khốn là một loại hình tổ chức đầu tư còn rất mới mẻ, chắc chắn khi thành
lập và những năm đầu mới đi vào hoạt động sẽ gặp nhiều khó khăn. Do vậy, việc thực hiện ưu đãi về thuế
đối với hoạt động đầu tư chứng khoán của quỹ là việc hỗ trợ hết sức quan trọng và cần thiết của nhà nước
đối với sự hoạt động và phát triển của Quỹ đầu tư chứng khoán.
Hiện tại, chưa có bất cứ một quy định nào về thuế đối với Quỹ đầu tư. Theo quy định tại Nghị
định 144/2003/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán: Quỹ đầu tư là quỹ hình thành từ vốn
góp của người đầu tư được uỷ thác cho công ty quản lý quỹ và đầu tư tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ
vào chứng khoán. Với quy định như vậy thì Quỹ đầu tư khơng có tư cách pháp nhân, khơng thuộc sự điều
chỉnh của Luật doanh nghiệp, vì vậy không phải là đối tượng đánh thuế của Luật thuế thu nhập doanh
nghiệp. Ở nhiều nước như Pháp, Nhật… họ áp dụng nguyên tắc không đánh thuế các Quỹ đầu tư, coi Quỹ
đầu tư là phương tiện, công cụ đầu tư cho các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức, chứ không phải là một pháp
nhân kinh doanh. Ngay cả trong trường hợp quỹ là pháp nhân, một số nước cũng áp dụng chế độ miễn trừ

nhất định để quỹ này được hưởng ưu đãi thuế hoàn toàn. Các quy định về thuế đối với Quỹ đầu tư đảm
bảo rằng, việc nhà đầu tư thực hiện đầu tư qua Quỹ đầu tư và việc nhà đầu tư đầu tư trực tiếp khơng qua
quỹ là tương đương nhau trên góc độ thuế. Nhà đầu tư chỉ phải trả thuế thu nhập khi nhận lợi tức được
chia từ các quỹ hoặc chia từ việc đầu tư trực tiếp không qua quỹ. Rõ ràng nếu thu nhập đầu vào và lợi
nhuận của quỹ bị đánh thuế thì sẽ khơng khuyến khích nhà đầu tư đầu tư qua quỹ. Mơ hình về thuế với
Quỹ đầu tư như trên nhằm khuyến khích sự phát triển của loại hình đầu tư ưu việt này. Kết quả là nhà đầu
tư thấy rằng việc họ đầu tư trực tiếp hay thông qua quỹ đều đem lại một mức thuế như nhau. Điều này sẽ
tận dụng được hết mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong công chúng.
3.2.7. Tạo lập thị trường hàng hoá cho thị trường chứng khoán bằng các biện pháp tăng cung
kích cầu
Quỹ đầu tư là một loại hình hoạt động gắn liền với thị trường chứng khốn. Để Quỹ đầu tư
hình thành và phát triển lành mạnh, tích cực, việc đẩy mạnh hoạt động của thị trường chứng khoán Việt
Nam cũng là một nhân tố quan trọng. Trên thực tế, số lượng và giá trị của các cổ phiếu và trái phiếu được
niêm yết trên thị trường tập trung là rất nhỏ, trong khi chưa có thị trường giao dịch ngồi quầy, mức cầu
cũng khơng khả quan. Để khuyến khích việc ra đời của các Quỹ đầu tư chứng khoán, nhà nước phải đảm
bảo hoạt động của các quỹ này thông qua các biện pháp tăng cung kích cầu trên thị trường chứng khốn.
Các biện pháp tăng cung trên thị trường chứng khoán : Để xây dựng một thị trường chứng
khốn hoạt động có hiệu quả thì việc cung cấp hàng hố chứng khốn cho thị trường là một vấn đề rất
quan trọng. Thực tiễn các thị trường chứng khoán thế giới đã chứng minh rằng một thị trường chứng
khốn sẽ khơng thể hoạt động một cách lành mạnh và hiệu quả nếu lượng chứng khoán cung cấp cho thị
trường không nhiều và số lượng nhà đầu tư nhỏ. Một thị trường như vậy được coi là một thị trường mỏng,
thiếu tính ổn định và ít có khả năng tự điều chỉnh, dễ bị tác động bởi các yếu tố khách quan bên ngồi,
khơng đảm đương được vai trò là nơi huy động và phân bổ một cách có hiệu quả những nguồn lực trong
xã hội.
Một trong những mục tiêu hàng đầu của Quỹ đầu tư là thực hiện đa dạng hoá đầu tư vào
chứng khoán. Trong điều kiện hiện nay, số lượng chứng khoán giao dịch trên thị trường còn hạn chế. Để
tạo điều kiện cho Quỹ đầu tư bước đầu đi vào hoạt động có hiệu quả, nhà nước cần trợ giúp hàng hố
chứng khoán cho sự hoạt động của các Quỹ đầu tư. Sự trợ giúp được thực hiện bằng cách khi tiến hành cổ



phần hoá doanh nghiệp nhà nước nên dành quyền ưu tiên mua cổ phiếu bán ra bên ngoài. Hiện nay, khi cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước, thường dành một tỷ lệ từ 15% - 20% số cổ phiếu phát hành để bán ra
bên ngồi cho cơng chúng. Thế nhưng, phần vốn thuộc sở hữu nhà nước của các doanh nghiệp cổ phần
hoá chiếm tỷ lệ cao 35%, phần bán cho cán bộ cơng nhân viên trong doanh nghiệp cịn cao hơn 38% do
đó tỷ lệ bán cho cơng chúng thấp, không đáp ứng được một trong những điều kiện niêm yết là 20%.
Bên cạnh đó, thực tế cho thấy những doanh nghiệp cổ phần hố có triển vọng làm ăn tốt thì
các nhà đầu tư riêng lẻ là cơng chúng khó có thể mua được cổ phiếu của các doanh nghiệp này. Vì thế,
việc dành quyền ưu tiên mua cho các Quỹ đầu tư vừa tạo điều kiện cho các Quỹ đầu tư hoạt động lại vừa
có thể thực hiện phổ biến rộng rãi cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hố cho cơng chúng qua việc
họ mua chứng chỉ Quỹ đầu tư của quỹ.
Có thể áp dụng các giải pháp tài chính thích hợp để tăng cung hàng hố cho thị trường như
tín dụng nhà nước và thuế. Nước ta đang trong thời kỳ đổi mới và phát triển kinh tế nên nhu cầu chi cho
đầu tư của ngân sách là rất lớn nên việc vận dụng cơng cụ tín dụng nhà nước là rất cần thiết để bù đắp bội
chi ngân sách. Nhà nước cần có những dự án đầu tư mang tính khả thi và có thể đẩy mạnh việc phát hành
các trái phiếu trung và dài hạn, đặc biệt là những trái phiếu công trình với lãi suất thấp hơn lãi suất huy
động của ngân hàng, vì trái phiếu chính phủ là một mặt hàng ít rủi ro dựa trên uy tín của nhà nước.
Hiện nay, chính phủ đã ban hành Nghị định 01/2000/ NĐ-CP quy định hai hình thức mới của
việc phát hành trái phiếu chính phủ: phát hành thơng qua các nhà bảo lãnh phát hành và thông qua đấu
thầu tại Trung tâm giao dịch chứng khốn, mục đích tập trung thống nhất để trái phiếu chính phủ có thể
giao dịch trên thị trường. Vấn đề đặt ra cho việc phát hành trái phiếu chính phủ là phải đổi mới thực sự cơ
cấu phát hành. Trong điều kiện lãi suất ngân hàng thấp như hiện nay, nếu trái phiếu chính phủ dài hạn có
mức lãi suất tương ứng thì sẽ ít hấp dẫn nhưng lãi suất trái phiếu chính phủ cũng khơng nên cao hơn lãi
suất ngân hàng. Bên cạnh đó, phải tăng khả năng niêm yết của trái phiếu chính phủ trên thị trường thứ
cấp. Muốn vậy, trái phiếu cần phải được phát hành theo lịch biểu định kỳ thường xuyên. Việc phát hành
từng đợt phải thống nhất về mệnh giá, lãi suất và thời hạn thanh toán mỗi đợt phát hành phải có khối
lượng tương đối lớn.
Bên cạnh trái phiếu chính phủ, một nguồn hàng hố khơng nhỏ khác cho thị trường chứng
khốn là trái phiếu cơng ty. Để đảm bảo khả năng thanh toán và nâng cao năng lực tài chính doanh
nghiệp, hiện nay việc cơ cấu lại nợ cho công ty nhà nước đang được đặt ra. Hơn nữa, nhà nước cần cắt
giảm triệt để bao cấp lãi suất, nguồn vốn kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước. Điều này thúc đẩy

họ phải chuẩn bị các điều kiện để phát hành trái phiếu công ty.
Nhà nước khuyến khích các cơng ty phát hành chứng khốn ra cơng chúng và niêm yết trên
thị trường chứng khoán. Nhà nước nên nghiên cứu ban hành các chính sách cho phép chuyển cơng ty liên
doanh thành cơng ty cổ phần, chính sách khuyến khích phát hành ra cơng chúng của các doanh nghiệp cổ
phần hố và các cơng ty tư nhân, cơng ty liên doanh với nước ngồi như: chính sách ưu đãi thuế, chính
sách ưu đãi cho vay thương mại, chính sách cho phép đăng ký phát hành khung, chính sách niêm yết giữa
cổ phần hoá và niêm yết chứng khốn… Hiện tại, quy mơ vốn của các Quỹ đầu tư nước ngồi đã giảm
xuống cịn 128 triệu USD, thế nhưng nguồn vốn này sẽ còn là quá lớn so với quy mô vốn giao dịch hiện
nay trên thị trường chứng khốn Việt Nam.Bên cạnh đó, tổng giá trị giao dịch của các công ty niêm yết
vào khoảng 140triệu USD trong khi các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được đầu tư đến 20% cổ phiếu của các
công ty niêm yết làm cho các nhà đầu tư có ít chọn lựa để đầu tư vào thị trường chứng khốn. Chính vì


vậy, việc gia tăng tỷ lệ cho các nhà đầu tư nước ngoài là điều kiện cần để tăng nguồn cung của thị trường
chứng khốn.
Ngồi việc tăng về số lượng chúng ta cần phải nâng cao chất lượng chứng khoán thông qua
việc tăng cường hoạt động quản lý phát hành và niêm yết để lựa chọn những công ty đủ chất lượng đưa
vào thị trường.
Các biện pháp tăng cầu cho thị trường chứng khoán: Vấn đề đặt ra là phải tạo lập một cơ
chế và môi trường đầu tư tốt để khuyến khích cơng chúng đầu tư vào chứng khốn. Để kích cầu, trước hết
cần tiến hành giáo dục, tuyên truyền rộng rãi để thu hút sự quan tâm và nâng cao kiến thức của cơng
chúng về chứng khốn, thị trường chứng khốn và đầu tư chứng khốn.
Có chính sách cho vay đầu tư chứng khoán một cách hợp lý để người lao động có thu nhập
thấp cũng có quyền sở hữu cổ phiếu của doanh nghiệp cổ phần hoá. Thực chất là người lao động được
mua chịu một số cổ phiếu trả chậm với lãi suất ưu đãi. Thúc đẩy sự ra đời của các trung gian tài chính với
chức năng tạo lập thị trường, muốn vậy nhà nước cần phải thực hiện một số giải pháp như: nâng mức vốn
điều lệ của các ngân hàng thương mại quốc doanh để tăng cường sức mạnh tài chính cho các ngân hàng
tạo cơ sở thành lập các công ty chứng khoán con tại các ngân hàng thương mại.
Đa dạng hoá người đầu tư: cơng ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, ngân hàng, cá nhân, các hội đoàn
thể trong và ngoài nước… Đồng thời đa dạng hoá người phát hành như chính phủ, địa phương, ngân

hàng, tổ chức tài chính phi ngân hàng, doanh nghiệp…
Tạo cầu nối giữa cung và cầu chứng khoán. Qua 3 năm hoạt động, thị trường chứng khoán
Việt Nam diễn biến hết sức phức tạp, biểu hiện rõ nét nhất được thể hiện qua sự mất cân đối trong quan
hệ cung cầu chứng khoán, làm đẩy giá thốt ly giá trị thực tế vốn có của nó. Có giai đoạn cầu vượt xa
cung, cung vượt xa cầu và cho đến nay thì cầu giảm xuống rõ rệt, có thể nói là cung cầu chứng khốn đã
khơng gặp nhau. Chính vì vậy, phải hình thành những kênh phân phối có hiệu quả đó là các cơng ty
chứng khốn có tác dụng hướng dẫn và tư vấn cho người đầu tư về hình thức kinh doanh chứng khốn.
Mặt khác, bên cạnh thị trường tập trung phải hình thành một thị trường phi tập trung OTC để
các loại chứng khoán khơng được niêm yết có thể giao dịch. Theo kế hoạch việc xây dựng thị trường cổ
phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội sẽ được xúc tiến, chuẩn bị điều kiện để sau năm 2010
chuyển thành thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung. Trung tâm giao dịch chứng khốn TP Hồ
Chí Minh sẽ được xây dựng thành Sở giao dịch chứng khoán với hệ thống giao dịch, hệ thống giám sát và
công bố thông tin thị trường tự động hoàn toàn.
3.3 Bản thân các quỹ đầu tư
3.3.1. Chú trọng và đẩy mạnh việc đào tạo cơ bản đội ngũ cán bộ quản lý đầu tư chuyên nghiệp
Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, một yếu tố có tính chất quyết định đến sự thành cơng của
một Quỹ đầu tư đó là trình độ năng lực của nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp. Ở nhiều nước, các nhà đầu
tư riêng lẻ thường chọn Quỹ đầu tư dựa trên cơ sở xem xét tài năng của các nhà đầu tư chuyên nghiệp của
quỹ, người ta cũng sẵn sàng rút ra khỏi quỹ khi mà nhà quản lý chun nghiệp xuất sắc đó khơng cịn làm
cho quỹ nữa. Thông thường ở một số nước Quỹ đầu tư do một nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp điều
hành, vừa thực hiện chiến lược đầu tư, vừa chịu trách nhiệm điều hành công việc hàng ngày. Hỗ trợ cho
sự hoạt động của nhà quản lý chuyên nghiệp còn có đội ngũ chun viên phân tích tài chính. Hiện nay,
các tổ chức thành lập Quỹ đầu tư chuẩn bị đội ngũ nhân lực cho quỹ theo các kênh:


- Cử một số nhân viên theo học các khoá đào tạo cơ bản về đầu tư, phân tích chứng khoán, về
khung pháp lý cho hoạt động đầu tư và các kiến thức nghiệp vụ tài chính tín dụng. Sau đó các nhân viên
này sẽ nhận được chứng chỉ và tham gia kỳ thi sát hạch để được cấp giấy phép hành nghề đầu tư chuyên
nghiệp.
- Tuyển nhân viên có kiến thức về đầu tư hoặc có kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, sau

đó tiếp tục bồi dưỡng và bổ sung nâng cao trình độ kiến thức cho các nhân viên này.
- Cử nhân viên ra nước ngoài khảo sát, học tập, nghiên cứu về hệ thống Quỹ đầu tư ở một số
nước.
Những điều kiện trên cho thấy, một nhà quản lý chuyên nghiệp thực thụ của Quỹ đầu tư chứng
khốn phải có một kiến thức sâu rộng và đạo đức nghề nghiệp trong sáng, tạo cơ sở niềm tin cho cơng
chúng. Điều đó địi hỏi phải có kế hoạch, chương trình đào tạo có hệ thống để xây dựng đội ngũ các nhà
quản lý chuyên nghiệp cho quỹ.
3.3.2. Chú trọng nghiên cứu đồng thời phổ biến rộng rãi Quỹ đầu tư ra công chúng
Những vấn đề về tín thác và Quỹ đầu tư là những vấn đề còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Do vậy,
một mặt cần tiếp tục nghiên cứu về mặt lý luận và kinh nghiệm thực tiễn của các nước trong việc phát
triển hệ thống tín thác đầu tư.
Mặt khác, cần phổ biến rộng rãi những kiến thức cơ bản và thông tin về Quỹ đầu tư cho công
chúng qua sách báo và các phương tiện thông tin đại chúng. Đối tượng thu hút các nhà đầu tư tham gia
vào Quỹ đầu tư chủ yếu là cơng chúng. Vì thế sự thành công của quỹ phụ thuộc rất lớn vào sự hiểu biết và
tham gia của công chúng. Hiện nay, bên cạnh các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho những người đi sâu vào
thị trường chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán nhà nước đang có rất nhiều hình thức để phổ cập kiến thức
về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho công chúng như tổ chức các bài giảng, các lớp học ngắn
ngày cho những ai quan tâm đến lĩnh vực này hay trang chuyên đề giải đáp trên các tạp chí chứng khốn.
Nhưng với vai trị là người quản lý thị trường chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán nhà nước cần phải đảm
bảo các thông tin trên thị trường chứng khốn là chính xác, trung thực. Có như vậy mới giúp những người
ít hiểu biết nhất vẫn tránh được rủi ro và việc quản lý thị trường được dễ dàng. Tuy nhiên, công tác tuyên
truyền thời gian qua chưa được làm liên tục và có hệ thống, chưa nhận được sự quan tâm thích đáng
tương xứng với tầm quan trọng về yêu cầu phát triển của thị trường. Nhiều chương trình tuyên truyền mới
chỉ dừng lại ở mức thảo luận và đề xuất ý kiến mà chưa được triển khai kịp thời và bài bản. Các chương
trình đào tạo vẫn cịn q ít và chỉ tập trung vào thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, chưa mở
rộng sang các tỉnh thành khác.
3.3.3. Chiến lược đầu tư thích hợp
Tại Việt Nam, quy mơ vốn của một dự án chỉ vào khoảng 10 triệu USD, do đó các Quỹ đầu tư
cần xác định chiến lược đầu tư phù hợp, tập trung tìm kiếm các dự án thích hợp với mục tiêu đầu tư của
mình. Mặt khác, các quỹ nên hạ thấp yêu cầu về tỷ suất lợi nhuận của các dự án cho phù hợp với tình hình

kinh tế Việt Nam hiện tại. Có như vậy, các Quỹ đầu tư mới khơng bị trói buộc vào thị trường đầu tư của
chính mình. Tuy có một đội ngũ quản trị viên xuất sắc song chủ yếu là người nước ngồi vì vậy các quỹ
nên tham khảo ý kiến của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực đầu tư của Việt Nam hơn nữa nhằm có một
chiến lược tương thích với môi trường đầu tư Việt Nam.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí chứng khốn VN số tháng 1+2/2010
2. www.saga.vn
3. www.cafef.com
4. www.ssc.gov.vn
5. …..



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×