TRƯỜNG ĐÀO TẠO CÁN BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LỚP TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH – K16
***
BÀI THU HOẠCH
NGHIÊN CỨU THỰC TẾ
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
TÌM HIỂU VỀ CHƯƠNG TRÌNH CẢI CÁCH THỦ TỤC
HÀNH CHÍNH CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Người thực hiện: Nguyễn Văn Nam
Đơn vị công tác: Trường THCS Hòa Nam – Ứng Hòa – Hà Nội.
Hà Nội, Tháng 10 năm 2019
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Cải cách hành chính là một trong những yêu cầu nhiệm vụ trọng tâm
mà Đảng và nhà nước đặt ra trong quá trình xây dựng, phát triển và thu hút
đầu tư cho các đặc khu và vùng kinh tế trọng điểm của đất nước. Để thực hiện
được mục tiêu đó cần phải nâng cao nhận thức mỗi cá nhân và cả hệ thống
cán bộ,công chức - viên chức .Để giúp cho học viên lớp Trung Cấp Lý luận
Chính trị - Hành chính tiếp cận thực tế và có điều kiện kiểm nghiệm những
kiến thức đã học. Xuất phát từ mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức có bản lĩnh chính trị, có kiến thức, phương pháp và kỹ năng công
tác chuyên nghiệp. Việc gắn công tác đào tạo của nhà trường với hoạt động
thực tiễn của xã hội là một yêu cầu cần thiết trong công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ hiện nay.
Hoạt động nghiên cứu thực tế là một phần bắt buộc trong chương trình
học Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính, mục đích của phần học này là
giúp học viên nắm bắt, phân tích, đánh giá, tổng hợp tình hình và giải quyết
những vấn đề đặt ra từ thực tiễn cơ sở gắn với nhiệm vụ công tác.
Đến với Thành phố Huế và Đà Nẵng: Học viên được nghiên cứu, học
tập tại các di tích lịch sử và nghe báo cáo của hai Trường Chính trị Thành
phố Đà Nẵng và Huế về tình hình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và du
lịch của Thành phố Đà Nẵng. Trong quá trình đó tôi nhận thấy vấn đề cải
cách hành chính tại thành phố Đà Nẵng vẫn còn nhiều vấn đề cần suy xét.
Vì vậy, tôi lựa chọn vấn đề “ Tìm hiểu về chương trình cải cách thủ tục
hành chính của thành phố Đà Nẵng”. làm đề tài cho Bài thu hoạch nghiên
cứu thực tế.
2. Đối tượng nghiên cứu:
- Cải cách thủ tục hành chính tại thành phố Đà Nẵng.
3. Phạm vi nghiên cứu
2
- Thay đổi trong cải cách hành chính đem lại sự hài lòng cho người
dân,nhà đầu tư trong giai đoạn hiện nay.
3
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận:
Cải cách hành chính có thể hiểu là một quá trình thay đổi cơ bản, lâu
dài, liên tục bao gồm cơ cấu của quyền lực hành pháp và tất cả các hoạt động
có ý thức của bộ máy nhà nước nhằm đạt được sự hợp tác giữa các bộ phận và
các cá nhân vì mục đích chung của cộng đồng và phối hợp các nguồn lực để
tạo ra hiệu lực và hiệu quả quản lý và chất lượng các sản phẩm phục vụ nhân
dân thông qua các phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực.
- Từ các khái niệm và cách nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau có thể
tổng kết lại như sau: Cải cách hành chính là quá trình cải biến có kế hoạch cụ
thể để đạt mục tiêu hoàn thiện một hay một số nội dung của nền hành chính
nhà nước (thể chế, cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành, chuẩn hóa đội ngũ cán
bộ, công chức…) nhằm xây dựng nền hành chính công đáp ứng yêu cầu của
một nền hành chính hiệu lực, hiệu quả và hiện đại.
2. Thực trạng
2. 1. Khái quát tình hình đặc điểm tình hình về Đà Nẵng
Thành phố Đà Nẵng được tách ra từ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và trở
thành thành phố trực thuộc trung ương vào ngày 01/01/1997 và đến năm
2003, thành phố chính thức trở thành đô thị loại I cấp quốc gia. Đà Nẵng có vị
trí địa lý thuộc vùng trung Trung bộ, phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên Huế, phía
Tây và Nam giáp tỉnh Quảng Nam, phía Đông giáp biển Đông. Tổng diện tích
tự nhiên của thành phố Đà Nẵng hiện nay là 1.285,43km2; trong đó, các quận nội
thành chiếm diện tích 245,54 km2, các huyện ngoại thành chiếm diện tích
1039,89km2. Tổng dân số thành phố Đà Nẵng theo Niên giám thống kê năm
2014 là 1.011.803 người, trong đó dân số thành thị là 879.524 người và nông
thôn là 127. người. Mật độ dân số khoảng 784 người/km 2, trong đó ở thành
phố là 3.582 người/km2, ở nông thôn là 123 người/km 2. Về đơn vị hành chính,
thành phố Đà Nẵng gồm có 6 quận: Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành
Sơn, Liên Chiểu, Cẩm Lệ và hai huyện: Hòa Vang, huyện đảo Hoàng Sa; với tổng
cộng 56 xã, phường (45 phường và 11 xã).
2.2. Thực trạng cải cách hành chính
Lâu nay, trong con mắt của người dân thì thủ tục hành chính luôn phức
tạp, rườm rà, thiếu công khai, minh bạch thậm chí là nhiêu khê. Điều này đã
ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải quyết công việc của người dân, giảm lòng
tin của nhân dân đối với nhà nước và bộ máy hành chính nhà nước. Bước vào
4
thời kỳ hội nhập phát triển kinh tế, để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
của các thành phần kinh tế và thu hút nguồn đầu tư nước ngoài thì cải cách
thủ tục hành chính, đơn giản hoá các khâu trong quá trình giải quyết công
việc của cá nhân, tổ chức có một vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Do
vậy trong những năm qua Đà Nẵng đã luôn tiên phong trong cải cách thủ tục
hành chính và đạt được rất nhiều thành tựu và đó cũng là một trong những lý
do để Đà Nẵng được mệnh danh trở thành thành phố đáng sống nhất Việt
Nam.
* Những thành tựu đạt được
Trong hơn một thập kỷ qua, những nỗ lực không ngừng cải thiện chất
lượng, hiệu quả của công tác cải cách hành chính tại Đà Nẵng đã bước đầu
mang lại cho thành phố này nhiều kết quả tích cực, khả quan, có sức lan toả
sâu rộng, tác động mạnh mẽ và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần
đưa Đà Nẵng vươn lên đạt được thứ hạng cao trên các bảng xếp hạng của các
chỉ số cấp tỉnh
Từ năm 2005 đến 2015, Đà Nẵng luôn có kết quả tốt và thuộc nhóm các
địa phương dẫn đầu cả nước về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI): xếp
thứ nhất các năm 2008, 2009, 2010, 2013 và 2014; dẫn đầu sáu năm liền về chỉ
số mức độ sẵn sàng ứng dụng công nghệ thông tin (ICT-Index) từ 2009 đến
2014; hai năm liền xếp thứ nhì về chỉ số quản trị hành chính công cấp tỉnh
(PAPI) năm 2012 và 2013; dẫn đầu hai năm liền về chỉ số cải cách hành chính
(PAR-Index) năm 2012 và 2013; đứng đầu về chỉ số công lý và tiêu chí thủ tục
hành chính công năm 2014… Nhiều mô hình mới, cách làm mới của thành phố
Đà Nẵng đã được Trung ương và các tỉnh, thành phố trong cả nước đánh giá
cao.
Những kết quả bước đầu trên đây bắt nguồn từ một số cách làm và kinh
nghiệm tốt mà Đà Nẵng rút ra trong quá trình thực tiễn chỉ đạo, điều hành,
theo dõi, tổng kết và đánh giá kết quả công tác cải cách hành chính trên địa
bàn thành phố, đó là:
Thứ nhất, sự chỉ đạo xuyên suốt, quyết liệt, kiên trì và quyết tâm của
cả hệ thống chính trị từ lãnh đạo Thành uỷ, Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy
ban nhân dân (UBND) thành phố đến lãnh đạo các cấp, các ngành. Đây là yếu
tố tiên quyết dẫn đến thành công trong công tác cải cách hành chính.
Sự quan tâm lãnh đạo của Thành ủy, UBND đối với công tác cải cách
hành chính được cụ thể hoá bằng nhiều văn bản, gần đây nhất là Chỉ thị số
29-CT/TU ngày 06/11/2013 của Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng về tiếp
5
tục đẩy mạnh CCHC, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu xây dựng thành phố trong tình hình
mới. Nội dung Chỉ thị này nhằm tập trung cải cách công chức - công vụ, định
hướng cụ thể cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thực hiện
nội dung các chuẩn mực về “5 xây” gồm: trách nhiệm, chuyên nghiệp, trung
thực, kỷ cương, gương mẫu và “3 chống” là: quan liêu, tiêu cực, bệnh hình
thức.
Có thể nói, tốc độ, kết quả và hiệu quả của quá trình cải cách hành
chính phụ thuộc rất lớn vào mức độ quyết tâm của lãnh đạo các cấp. Thực tế
cho thấy, ở đâu người đứng đầu quan tâm, sâu sát, chỉ đạo quyết liệt trong
công tác cải cách hành chính thì ở đó đơn vị thường được xếp ở vị thứ cao
trong bảng đánh giá, xếp hạng kết quả cải cách hành chính hàng năm của
thành phố.
Thứ hai, để có được những kết quả, sản phẩm cụ thể như mong muốn
về cải cách hành chính, phải thực sự quan tâm và coi trọng đến yêu cầu về
thời gian, nội dung và chất lượng của việc xây dựng kế hoạch thực hiện
CCHC từ thành phố đến các sở ban ngành, quận huyện và phường xã.
Phải căn cứ vào mục tiêu tổng quát, nội dung và lộ trình thực hiện
Chương trình tổng thể Cải cách hành chính nhà nước để xây dựng kế hoạch
10 năm, 5 năm và hàng năm về CCHC của thành phố. Từ đó hàng năm, Sở
Nội vụ đều chủ động tham mưu cho UBND thành phố ban hành Kế hoạch
công tác cải cách hành chính của Đà Nẵng cho năm sau ngay từ cuối năm
trước; trong đó xác định cụ thể nội dung công việc cần thực hiện, phân công
cơ quan chủ trì và phối hợp, xác định rõ thời gian bắt đầu và kết thúc, dự kiến
kết quả hoặc sản phẩm cụ thể sẽ đạt được, dự toán và cân đối nguồn lực để
triển khai. Đồng thời, Sở Nội vụ có văn bản hướng dẫn cụ thể các biểu mẫu
và tập huấn nghiệp vụ lập kế hoạch cải cách hành chính cho các cơ quan, đơn
vị, yêu cầu từng cơ quan, đơn vị thường xuyên theo dõi, kiểm tra, cập nhật
tiến độ thực hiện và báo cáo kết quả trực tuyến qua mạng về Sở Nội vụ.
Thứ ba, công tác theo dõi, giám sát, kiểm tra, thanh tra về CCHC phải
được tiến hành thường xuyên, có thể lặp đi lặp lại ở những đơn vị còn nhiều
hạn chế, yếu kém nhằm tạo kết quả chuyển biến thực sự và rõ nét về kỷ luật,
kỷ cương hành chính, năng lực quản lý, điều hành và chất lượng dịch vụ
công.
Không chỉ tiến hành các cuộc kiểm tra thường xuyên, đột xuất tại cơ
sở, Sở Nội vụ còn tham mưu nhiều hình thức theo dõi, kiểm tra bằng việc đẩy
6
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), thông qua các phần mềm cải cách
hành chính tại địa chỉ www.cchc.danang.gov.vn, phần mềm quản lý văn bản,
điều hành, phần mềm một cửa điện tử tập trung tại địa
chỉ www.egov.danang.gov.vn … góp phần nâng cao tính hiệu quả, toàn diện,
kịp thời của công tác này. Nhờ đó, những hạn chế, tồn tại trong công tác cải
cách hành chính tại các đơn vị, địa phương được phát hiện kịp thời và khắc
phục nhanh chóng, từng bước củng cố, cải thiện, nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác cải cách hành chính.
Thứ tư, cần phải có công cụ làm đòn bẩy, tạo động lực thúc đẩy làm
chuyển biến tích cực, mạnh mẽ tình hình, kết quả công tác cải cách hành
chính đối với mỗi cấp chính quyền và tại từng cơ quan, đơn vị trên địa bàn
thành phố.
Thực tế đã minh chứng, công cụ hữu hiệu mà Đà Nẵng tiến hành từ
nhiều năm nay (từ 2008) là kết quả của quá trình dày công nghiên cứu, xây
dựng và ban hành thực hiện hệ thống chỉ số theo dõi, đánh giá, xếp hạng về
kết quả cải cách hành chính. Hằng năm việc làm này đã được tiến hành đối
với tất cả sở, ban, ngành, UBND các quận, huyện, phường, xã và một số cơ
quan Trung ương đóng trên địa bàn thành phố.
Việc sớm ban hành và thực hiện Quy định của UBND thành phố về quy
trình, phương pháp và tiêu chí đánh giá, xếp hạng về CCHC hàng năm đã
thực sự tạo ra hiệu ứng và sức lan toả rộng khắp, tạo động lực thúc đẩy cạnh
tranh lành mạnh giữa các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị, ngày càng phát huy
được vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu và của tập thể trong việc phấn
đấu thực hiện kế hoạch, chương trình công tác cải cách hành chính đã đề ra.
Từ đó, lãnh đạo ở từng đơn vị thực sự quan tâm, đầu tư nhiều thời gian,
nguồn lực hơn và kịp thời cải thiện những yếu kém đã được chỉ rõ, phân tích
từ kết quả chỉ số cải cách hành của đơn vị mình hằng năm đã được công bố
công minh.
Thứ năm, trong công tác cải cách hành chính, cần phải xác định rõ
trọng tâm, trọng điểm và tạo được điểm nhấn trong từng thời đoạn và thời
điểm; có giải pháp cụ thể, mô hình mới, có tính đột phá, tạo ra hiệu ứng, sức
lan tỏa và hiệu quả trên thực tế, tạo ra được những chuyển biến rõ nét và có sức
thuyết phục.
Cùng với việc triển khai các quy định của Trung ương, Đà Nẵng đã có
nhiều mô hình, cách làm phù hợp, thiết thực và hiệu quả, được tuyên truyền
phổ biến, nhân rộng vượt ra khỏi phạm vi thành phố, tạo nên hình ảnh về một
7
Đà Nẵng năng động, đổi mới và hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành về CCHC.
Thành phố đã ngày càng tạo nhiều thuận lợi hơn cho nhân dân trên mọi mặt
của đời sống xã hội. “Cuộc vận động 3 hơn - nhanh hơn, hợp lý hơn, thân thiện
hơn trong cải cách hành chính”, “Thi tuyển chức danh lãnh đạo, quản lý”,“Mô
hình đánh giá công chức theo kết quả việc làm ”, “Vinh danh công chức, viên
chức tiêu biểu, xuất sắc”, “Mô hình một cửa điện tử tập trung”, “Khảo sát trực
tuyến mức độ hài lòng của công dân, tổ chức đối với công chức, viên chức làm
việc tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ thủ tục hành chính và chất lượng
dịch vụ hành chính công của đơn vị”, “Xác thực và sử dụng hồ sơ điện tử của
công dân, cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện các giao dịch hành
chính”, “Thực hiện cơ chế liên kết trong giải quyết thủ tục hành chính về cấp
giấy phép kinh doanh có điều kiện giữa các sở, ban, ngành”, “Dịch vụ chuyển
phát nhanh kết quả giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính theo địa chỉ yêu cầu của
công dân, tổ chức”… là những mô hình mới, cách làm sáng tạo, đột phá của
thành phố Đà Nẵng được nhiều địa phương trong cả nước đến tham quan, trao
đổi và chia sẻ kinh nghiệm.
Thứ sáu, cải cách hành chính phải gắn với thực hiện Quy chế dân chủ
ở cơ sở tại từng cơ quan, địa phương, đơn vị; phát huy sức mạnh tập thể, tạo
sự đồng thuận cao trong thực hiện, giám sát, kiểm tra, đấu tranh với các biểu
hiện và hành vi quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, tạo sự đồng tình, ủng hộ
trong nhân dân. Trong đó, tuyên truyền, phổ biến, đối thoại, công khai, minh
bạch kế hoạch, chương trình, nội dung hoạt động cải cách hành chính nhà
nước ở địa phương là việc làm rất cần thiết để thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở.
Chỉ khi công khai, minh bạch cho “dân biết” thì mới tạo cơ sở cho việc
“dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Tại Đà Nẵng, 100% thủ tục hành đã được
công khai thông qua nhiều hình thức như niêm yết tại Bộ phận tiếp nhận và
trả kết quả, đăng tải trên trang thông tin điện tử của thành phố và trên website
của từng cơ quan, đơn vị. Ngoài ra, ngày càng nhiều kênh thông tin khác ra
đời hỗ trợ đẩy mạnh công khai thủ tục hành chính và các quy định pháp luật
đến người dân. Đáng chú ý nhất là Trung tâm Thông tin dịch vụ công thuộc
Sở Thông tin và Truyền thông thành phố Đà Nẵng, đóng vai trò trung tâm hỗ
trợ thông tin về dịch vụ hành chính công đa phương diện, là nơi mà các tổ
chức công dân có thể truy vấn về tình trạng xử lý hồ sơ; thực hiện đánh giá
mức độ hài lòng của tổ chức, công dân khi tham gia các dịch vụ công trực
tuyến của thành phố; tiếp nhận mọi thông tin của người dân (khiếu nại, tố cáo,
8
phản ánh thực trạng hạ tầng kỹ thuật, đời sống của người dân…) chuyển cho
các cơ quan có thẩm quyền liên quan xử lý một cách nhanh chóng, kịp thời.
Thứ bảy, sự vào cuộc khá đồng bộ và tích cực của các cơ quan thông
tin đại chúng đã góp phần không nhỏ vào kết quả, hiệu quả của công tác cải
cách hành chính Nhà nước ở địa phương.
Bên cạnh việc thành phố chủ động phối hợp với các cơ quan thông tin đại
chúng xây dựng chuyên mục, chuyên trang về CCHC, các cơ quan thông tấn, báo
chí, phát thanh và truyền hình của địa phương và Trung ương luôn đóng vai trò
quan trọng trong việc hỗ trợ tuyên truyền các chủ trương, chính sách, giải pháp về
cải cách hành chính của chính quyền thành phố đến đông đảo người dân và doanh
nghiệp để biết, thực hiện, giám sát; đồng thời đã gián tiếp thông tin, phản ánh tâm
tư, nguyện vọng của người dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư đến với các cơ quan nhà
nước.
Trong những năm qua, công tác cải cách hành chính tại Thành phố Đà
Nẵng luôn có sự đồng hành của các cơ quan truyền thông như Đài Phát thanh
và Truyền hình Đà Nẵng, Đài Truyền hình Việt Nam tại Đà Nẵng, Báo Đà
Nẵng, Báo Công an Đà Nẵng, Cổng Thông tin điện tử thành phố và một số
báo, đài Trung ương đặt tại thành phố như Tuổi trẻ, Thanh niên, Dân trí.…
Những chương trình, chuyên mục như “Cùng chúng tôi đối thoại”, “Cải cách
hành chính”, “Lăng kính công vụ”, “5 xây, 3 chống”… đã và đang góp phần
thiết thực, hiệu quả vào hiệu ứng lan tỏa của công tác cải cách hành chính đến
đông đảo người dân và doanh nghiệp.
Thứ tám, cải cách hành chính có thể ví như công cuộc cách mạng.
Người làm công tác cải cách hành chính thực thụ ngoài kiến thức, tư duy,
quan điểm, lập trường, kinh nghiệm thực tiễn, phải thực sự có tâm, có tầm, có
ý chí, nghị lực, quyết tâm, dám đổi mới, dám làm, dám chịu trách nhiệm… thì
phải biết kiên trì, nhẫn nại và biết chấp nhận hy sinh. Công tác cải cách hành
chính cần có sự đầu tư thoả đáng về các nguồn lực. Trong đó, con người là
nhân tố quyết định, đặc biệt là người đứng đầu, đội ngũ công chức, viên chức
trực tiếp phụ trách, tham mưu, chỉ đạo, điều hành và thừa hành về công tác cải
cách hành chính ở các ngành, các cấp và tại các cơ quan, đơn vị trên địa bàn
thành phố.
Tất cả sở, ban, ngành, UBND quận, huyện, 55/56 xã, phường đã triển khai
và đưa vào hoạt động Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo mô hình một cửa
điện tử, tạo thuận lợi cho người dân khi tham gia giao dịch hành chính. 100%
các cơ quan, đơn vị có cung ứng dịch vụ hành chính công trên địa bàn Thành
9
phố đều thực hiện nghiêm túc việc công khai các TTHC thông qua hình thức
như niêm yết tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, công khai trên trang thông
tin điện tử.
Nhiều hình thức và kênh thông tin ra đời hỗ trợ đẩy mạnh công khai TTHC
và các quy định pháp luật đến người dân. Đáng chú ý là Trung tâm dịch vụ
hành chính công đã phát huy được vai trò hỗ trợ thông tin về dịch vụ hành
chính công đa phương tiện, là nơi mà các tổ chức, công dân có thể truy cập để
biết tình trạng xử lý hồ sơ của các sở, ban, ngành, quận, huyện thông qua các
dịch vụ công trực tuyến, tiếp nhận mọi thông tin của người dân (khiếu nại, tố
cáo, phản ánh…) chuyển cho các cơ quan có thẩm quyền xử lý một cách kịp
thời, nhanh chóng.
(Trung tâm hành chính của Đà Nẵng được tập trung ở tòa nhà màu xanh hình con chim
cánh cụt, ở đó tập trung toàn bộ các sở, ban, thành phố ở đó và tầng cao nhất là dành cho người
lãnh đạo của thành phố, chính vì vậy mà bao quát hết được toàn thể công việc cũng như cán bộ,
nhân viên cấp dưới. Hồ sơ được gửi tới thì được giải quyết nhanh gọn hơn không tốn thời gian
chuyển hồ sơ, trả hồ sơ ngay tại tầng 1 nơi nhận hồ sơ bên cạnh đó do tập trung toàn bộ cơ quan
đầu não của thành phố cùng một tòa nhà nên vấn đề an ninh quốc phòng cần phải được xem xét.)
Chất lượng và hiệu quả hoạt động của đội ngũ công chức, viên chức ở
thành phố Đà Nẵng được cải thiện một cách căn bản.
Quy trình tuyển dụng công chức, viên chức theo nguyên tắc cạnh tranh
và thực tài được hoàn thiện. Các phần mềm, cơ sở dữ liệu phục vụ quá trình
tuyển dụng công chức được hoàn thành.
Chất lượng cung cấp dịch vụ hành chính công cho người dân và tổ chức ở
thành phố Đà Nẵng qua cơ chế một cửa, một cửa liên thông được cải thiện căn
bản.
10
Thiết lập bộ chỉ số và công cụ đánh giá mức độ hài lòng của công dân,
tổ chức đối với các dịch vụ công Kiến thức, kỹ năng làm việc của đội ngũ cán
bộ, công chức ở Bộ phận một cửa, một cửa liên thông các cấp được tăng
cường qua các hoạt động bồi dưỡng chuyên sâu Thiết lập bộ chỉ số và công cụ
đánh giá mức độ hài lòng của công dân, tổ chức đối với các dịch vụ công
Nâng cao năng lực chuyên môn cho công chức tham gia vào quá trình
đánh giá mức độ hài lòng đối với chất lượng dịch vụ công (bao gồm cơ quan
chuyên trách triển khai nhiệm vụ đánh giá và công chức của các sở, ban,
ngành, quận, huyện tham gia cộng tác, hỗ trợ).
Triển khai thí điểm phương pháp đánh giá chất lượng dịch vụ công
(trực tiếp và trực tuyến)
Hợp tác và đối thoại chính sách được tăng cường. Kết quả và bài học
CCHC ở cấp địa phương được chia sẻ với các địa phương khác và với các cơ
quan ở trung ương có liên quan đến xây dựng chính sách.
Đối thoại chính sách giữa Trung ương và địa phương và giữa các địa
phương được tăng cường.
Tóm lại, thành công trong bất cứ lĩnh vực hoạt động nào cũng đòi hỏi
có sự kết hợp của nhiều yếu tố. Cải cách hành chính là một quá trình đầy gian
nan, thử thách, phải vượt qua nhiều khó khăn, phức tạp, cần sự quyết tâm,
kiên trì của cả hệ thống chính trị; cần có sự kiểm tra, đánh giá thường xuyên;
xác định trọng tâm, trọng điểm qua từng thời đoạn; sử dụng các công cụ hữu
hiệu để tạo đòn bẩy thúc đẩy; gắn với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở;
thu hút sự tham gia của các cơ quan truyền thông; quan tâm đào tạo nguồn
nhân lực ngày càng chuyên nghiệp nhằm đáp ứng mục tiêu, nội dung, yêu cầu
của cải cách hành chính và công cuộc đổi mới ở nước ta.
3. Đánh giá thực trạng
Vấn đề thứ nhất: Là chất lượng, hiệu quả hoạt động của đội ngũ công
chức, viên chức còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi đặt ra đối với các cơ
quan hành chính nhà nước, đặc biệt là trong việc đáp ứng các dịch vụ hành
chính công của cơ quan, tổ chức và công dân và dịch vụ công thiết yếu cho
người d. Tình hình trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân cơ bản:
Thiếu động lực làm việc do lương thấp, cơ chế tuyển dụng, bồi dưỡng,
đánh giá hiệu suất công tác, đãi ngộ, khen thưởng, đề bạt, sử dụng… chưa dựa
trên vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh, nghiệp vụ, đặc biệt là các nguyên
11
tắc cạnh tranh và thực tài mà chủ yếu dựa vào bằng cấp, chứng chỉ, thâm niên
công tác, thậm chí các mối quan hệ xã hội… Những yếu tố này ít gắn liền với
hiệu suất công tác của công chức, viên chức.
Tính chuyên nghiệp thấp, thiếu kiến thức chuyên sâu, thiếu kinh
nghiệm và kỹ năng nghề nghiệp cần thiết. Thực trạng này chủ yếu bắt nguồn
từ những bất hợp lý và yếu kém có tính hệ thống và tồn tại lâu năm của hệ
thống đào tạo, bồi dưỡng người công chức trước và ngay cả trong quá trình họ
được bố trí hoặc tuyển dụng vào làm việc ở các vị trí trong hệ thống hành
chính nhà nước ở các cấp địa phương. Việc đào tạo, bồi dưỡng không thực sự
xuất phát từ yêu cầu của vị trí việc làm, chương trình, giáo trình, tài liệu, học
liệu không phù hợp với yêu cầu của công việc. Do vậy, chất lượng đầu ra
thấp, thời gian bồi dưỡng và số bằng cấp, chứng chỉ tăng cao nhưng không tạo
được sự gia tăng tương xứng về kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm làm việc
của công chức, viên chức.
Vấn đề thứ hai: Là chất lượng cung ứng dịch vụ công theo cơ chế một
cửa, một cửa liên thông đã có nhiều cải tiến trong những năm qua nhưng vẫn
chưa hoàn thiện. Quy trình, thủ tục hành chính ở một số lĩnh vực (đầu tư, đất
đai, xây dựng) còn phức tạp, gây phiền hà, tốn kém cho người dân, doanh
nghiệp và tổ chức. Vì vậy, cần thiết phải có bộ công cụ đo lường chất lượng
cung ứng dịch vụ và ghi nhận các phản hồi khách quan, độc lập từ phía người
dân, doanh nghiệp. Từ đó, cung cấp thông tin cho các cơ quan nhà nước trong
việc không ngừng cải thiện chất lượng dịch vụ công theo yêu cầu của cộng
đồng xã hội;
Vấn đề thứ ba: Là bất bình đẳng giới. Vấn đề này xuyên suốt và liên
quan đến tất cả hai vấn đề nêu trên. Cụ thể là bất bình đẳng giới trong hệ
thống chính quyền các cấp và bất bình đẳng giới trong việc tiếp cận các dịch
vụ hành chính của người dân. Trong khi khía cạnh thứ nhất đã được đề cập và
có giải pháp rõ ràng và đồng bộ trong Chiến lược 2011-2020 và Chương trình
mục tiêu 2011-2015 về bình đẳng giới của quốc gia và của Thành phố Đà
Nẵng thì khía cạnh thứ hai vẫn còn đang bỏ ngỏ và đòi hỏi phải có những nỗ
lực lớn hơn nữa của Thành phố Đà Nẵng, đặc biệt là của ngành nội vụ mới có
thể khắc phục được. Trong khi hai vấn đề nêu trên sẽ được giải quyết cụ thể ở
từng hợp phần thì vấn đề giới sẽ được lồng ghép vào trong toàn bộ quá trình
giải quyết các vấn đề mà sẽ không tiến hành các hoạt động riêng rẽ để giải
quyết.
4. Những giải pháp để tăng cường cải cách hành chính
12
Để tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả quản lí hành
chính nhà nước trong thời gian tới cần phải: Đổi mới, nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức. Vì nhân tố con người luôn là nhân tố quyết định thắng
lợi mọi công việc. Bác Hồ đã từng nói : “ Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
trước hết cần phải xây dựng những con người xã hội chủ nghĩa” Muốn vậy,
theo bản thân tôi cần :
Xây dựng một cơ chế tiền lương và chính sách đãi ngộ thỏa đáng để đội
ngũ công chức yên tâm làm việc lâu dài và cống hiến với khả năng cao nhất
năng lực, trình độ của mình cho cơ quan, đơn vị, qua đó thu hút những người
giỏi, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tâm huyết đến công tác tại địa
phương.
Thực hiện thí điểm chọn cán bộ theo phương châm cạnh tranh nhân tài để
có đội ngũ công chức có năng lực thực sự. Bên cạnh đó phải đổi mới cơ bản
công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức nhà nước. Khuyến khích cán bộ, công
chức tự học tập để nâng cao trình độ và năng lực thực thi nhiệm vụ. Đồng
thời, có cơ chế ưu đãi thích hợp để tiếp tục thực hiện tinh giản biên chế trong
cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp tạo điều kiện trẻ hóa, nâng cao năng lực
đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy Nhà nước.
Đối với từng cơ quan, đơn vị phải có trách nhiệm giáo dục cán bộ, công
chức tinh thần trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính, văn hóa hành chính
trong thi hành công vụ. Thực hiện nghiêm túc chế độ trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan khi để xảy ra tiêu cực, chậm trễ trong giải quyết công việc
của người dân và doanh nghiệp. Kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy nhà nước
những cán bộ, công chức thoái hóa, biến chất, nhũng nhiễu, thiếu trách nhiệm
trong thi hành công vụ, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước. Đẩy
mạnh cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà
nước.
Theo đó, có 6 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để thực hiện cải cách hành
chính:
Một là, Cải cách về thể chế và thủ tục hành chính. Cần tiếp tục rà soát các
văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực giáo dục và đào tạo do
Hội đồng Nhân dân, Ủy ban nhân dân ban hành, kiến nghị cấp có thẩm sửa
đổi, bổ sung, bãi bỏ các văn bản không còn phù hợp, hết hiệu lực hoặc trái
quy định.
13
Hai là, cải cách bộ máy hành chính. Rà soát, đề nghị điều chỉnh chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của đơn vị cho phù hợp với quy định trách nhiệm
quản lý nhà nước về giáo dục.
Ba là, Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức viên
chức. Đánh giá xếp loại đội ngũ theo chuẩn nghề nghiệp và chuẩn hiệu
trưởng, chuẩn phó hiệu trưởng tổ chức kiểm tra nghiệp vụ, năng lực của cán
bộ quản lý các trường phổ thông, các trung tâm giáo dục thường xuyên; xây
dựng đội ngũ nhà giáo đạt chuẩn và trên chuẩn, bồi dưỡng giáo viên, xây
dựng cán bộ nguồn.
Bốn là, cải cách tài chính công bằng cách mở rộng phân cấp trên một số
lĩnh vực, nâng cao hiệu quả chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng
biên chế và kinh phí quản lý hành chính ở các đơn vị; cải cách tiền lương và
các chính sách đãi ngộ đối với cán bộ công chức, viên chức ngành giáo dục.
Năm là, hiện đại hóa hành chính Nhà nước. Giảm hội họp, giảm giấy tờ
hành chính không cần thiết, tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong quản
lý văn bản trên mạng máy tính, nâng cao hiệu quả trang Web của ngành.
Sáu là, tăng cường công tác chỉ đạo thực hiện cải cách hành chính bằng
việc tuyên truyền, thanh tra, kiểm tra công vụ, thu thập ý kiến, xây dựng và
ban hành tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính đối
với các phòng, ban Sở và cơ sở giáo dục.
PHẦN III: KẾT LUẬN
1. Ưu điểm
Thông qua chuyến đi thực tế lần này bản thân em đã học hỏi được rất
nhiều điều bổ ích. Nó giúp chúng em nâng cao kiến thức, kinh nghiệm bản
thân để từ đó rút ra những bài học quý giá. Những kết quả thu được sau đợt đi
nghiên cứu thức tế sẽ góp phần nâng cao chất lượng học tập của học viên
cũng như vận dụng vào đơn vị công tác sau khi tốt nghiệp khóa học.
Chúng em không chỉ được đi đến những vùng đất mới, khám phá
những nét đẹp về thiên nhiên, văn hóa và con người tại những vùng miền
14
khác nhau trên cả nước. Mà chúng em còn được tìm hiểu về sự phát triển kinh
tế xã hội, thủ tục hành chính…Những điều đó đều rất thực tế với cuộc sống
cũng như công việc sau này của em ở cơ sở.
Hơn thế nữa qua chuyến đi thực tế, sự gắn kết của các thành viên trong
lớp tăng lên rõ rệt. Tinh thần đoàn kết, tương trợ được thể hiện rõ nét mỗi khi
có thành viên trong đoàn gặp vấn đề khó khăn nào đó cần có sự giúp đỡ.
Chuyến đi là cơ hội để các thành viên gần gũi nhau hơn, hiểu nhau hơn và
thông cảm, chia sẻ với nhau nhiều hơn.
2. Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm, đợt nghiên cứu thực tế còn những tồn tại hạn
chế không thể tránh khỏi:
- Thời gian nghiên cứu thực tế có hạn trong khi có rất nhiều điểm cần
phải đặt chân tới, vì vậy thời gian tìm hiểu, nghiên cứu….dành cho mỗi điểm
không có nhiều. Một mặt các địa điểm cách khá xa về mặt địa lý nên thời gian
di chuyển trên xe khá nhiều
- Một số bạn dù đã chuẩn bị khá kỹ lưỡng, nhưng không tránh khỏi việc
không đảm bảo sức khỏe trong suốt chuyến đi
- Nội dung báo cáo chỉ ra rất nhiều thành tích, ưu điểm nhưng các phần
hạn chế tồn tại chưa được đưa ra đầy đủ để tìm hiểu, bóc tách.
- Thông qua hướng dẫn viên, có thể nắm thêm nhiều thông tin nhưng đó
có thể là những thông tin một chiều hay mang tính cá nhân cần phải kiểm
chứng lại.
3. Đề xuất, kiến nghị
Các thành viên cần chú trọng hơn nữa trong việc tự cân bằng thể chất,
tự bảo vệ sức khỏe, ăn - ngủ - nghỉ một cách khoa học, bổ sung năng lượng bị
mất trong suốt chuyến đi, để chuyến đi thành công một cách tốt đẹp
Trong nhiều năm qua trường Đào tạo cán bộ thành phố Hà Nội đã đề ra
kế hoạch đi nghiên cứu thực tế cho các học viên khi tham gia chương trình
đào tạo Trung cấp LLCT – HC và xem đây là một trong những nội dung cần
thiết và bổ ích của học viên. Việc đi nghiên cứu thực tế ở các cơ sở giúp cho
học viên nắm bắt được tình hình chính trị, tình hình phát triển kinh tế - xã
hội, đồng thời nắm bắt được những chủ trương chính sách, đường lối của
15
Đảng và pháp luật của Nhà nước ở địa phương. Vì vậy nhà trường cần tiếp tục
quan tâm hơn nữa đến hoạt động thực tế bổ ích này, để học viên có những
kinh nghiệm thực tế hữu ích khi về công tác tại cơ sở.
GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM
NGƯỜI VIẾT
Nguyễn Văn Nam
16