Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số kinh nghiệm về giảng dạy môn tiếng việt lớp 3 qua phân môn tập làm văn trường TH đồng tĩnh b

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.95 KB, 17 trang )

PHÒNG GD&ĐTTAM DƯƠNG
TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐỒNG TĨNH B

MÃ SKKN
06

BÁO CÁO KẾT QUẢ
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
CẤP: CƠ SỞ

; TỈNH:

Tên sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm về giảng dạy môn
Tiếng Việt Lớp 3 qua phân môn Tập làm văn trường TH Đồng Tĩnh B
Môn/nhóm môn: Tiếng Việt
Tổ bộ môn: 2+3
Mã môn: 06
Người thực hiện: Phan Thị Hoa Mai
Điện thoại: 0979.691.189
Email:

Tam Dương, năm 2017


PHÒNG GD&ĐT TAM DƯƠNG
TRƯỜNG TH ĐỒNG TĨNH B
=====***=====

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN


Tên sáng kiến: Một số kinh nghiệm về giảng dạy môn Tiếng Việt
Lớp 3 qua phân môn Tập làm văn trường TH Đồng Tĩnh B
Tác giả sáng kiến: Phan Thị Hoa Mai


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Phân môn Tập làm văn là một phân môn có vai trò quan trọng trong việc
giúp học sinh hình thành văn bản nói và viết. Đây là một phân môn mang tính trừu
tượng trong chương trình Tiếng Việt tiểu học. Dạy phân môn Tập làm văn có hiệu
quả cao tức là người giáo viên đã xâu chuỗi kiến thức từ các phân môn: Tập đọc,
Kể chuyện, Luyện từ và câu. Chính vì thế mà phân môn tập làm văn có tính chất
tổng hợp, là kết quả lĩnh hội các kiến thức của môn Tiếng Việt. Trong chương trình
tiểu học hiện nay, mục tiêu chính của môn Tiếng Việt là hình thành và phát triển
cho học sinh các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Đặc biệt ở lớp 3, phân môn tập làm
văn rèn cả bốn kỹ năng: nói, nghe, đọc và viết. Trong giờ tập làm văn học sinh
được cung cấp kiến thức về cách làm bài và làm các bài tập (nói, viết); xây dựng
các loại văn bản và các bộ phận cấu thành văn bản. Bên cạnh đó học sinh còn tập
kể lại những mẩu chuyện được nghe thầy, cô kể trên lớp. Bên cạnh đó qua từng nội
dung bài dạy, phân môn tập làm văn còn bồi dưỡng thái độ ứng xử có văn hoá, tinh
thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng tình cảm lành mạnh tốt đẹp cho học
sinh.
Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan trọng, thông
qua đó con người thực hiện quá trình tư duy – chiếm lĩnh tri thức,
trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau,
cùng hợp tác trong cuộc sống lao động. Ngôn ngữ (dưới dạng nói ngôn bản và dưới dạng viết - văn bản) giữ vai trò quan trọng trong
sự phát triển xã hội. Chính vì vậy hướng dẫn học sinh nói đúng và
viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc rất
lớn vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập

làm văn nói riêng.
Để thực hiện tốt mục tiêu của môn học, đòi hỏi người thầy phải biết vận
dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho phù
hợp với khả năng sử dụng ngôn ngữ và tâm lí lứa tuổi học sinh (HS) để giờ học
diễn ra tự nhiên, nhẹ nhàng và có hiệu quả. Trong giảng dạy giáo viên phải có nghệ
thuật sư phạm, biết dẫn dắt, gợi mở đưa học sinh giải quyết các tình huống và
thông qua việc xử lí các tình huống đó học sinh lĩnh hội được kiến thức bài học.
Đối với phân môn Tập làm văn, để thực hiện được điều đó càng khó hơn. Qua thực
tế giảng dạy học sinh lớp 3, tôi thấy hầu như học sinh rất lúng túng, chưa biết cách
vận dụng để làm các dạng bài Tập làm văn. Từ đó, tôi đã tìm cách để hướng dẫn
học sinh phương pháp học tập để học tốt phân môn Tập làm văn với dạng bài: “Kể
hay nói, viết về một chủ đề”. Từ thực tế vận dụng, tôi tổng hợp thành kinh nghiệm :
“Một số kinh nghiệm về giảng dạy môn Tiếng Việt Lớp 3 với phân môn Tập làm


văn trường TH Đồng Tĩnh B” với dạng bài “Kể hay nói, viết về một chủ đề” với hi
vọng trao đổi với đồng nghiệp về các phương pháp giảng dạy phân môn Tập làm
văn dạng bài “Kể hay nói, viết về một chủ đề”, nhằm làm tốt hơn vai trò giảng dạy,
giúp học sinh dễ dàng hơn trong khi làm các bài tập dạng này.
2. Tên sáng kiến: Một số kinh nghiệm về giảng dạy môn Tiếng Việt Lớp 3
qua phân môn Tập làm văn trường TH Đồng Tĩnh B
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Phan Thị Hoa Mai
- Địa chỉ tác giả sáng kiến:Trường Tiểu học Đồng Tĩnh B – Tam Dương –
Vĩnh Phúc
- Số điện thoại: 0979 691178;
- E- mail:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Phan Thị Hoa Mai
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Nghiên cứu tìm ra một số giải pháp hợp lí nhằm nâng cao hiệu quả giờ học

môn Tiếng Việt lớp 3 qua phân môn Tập làm văn với dạng bài: Kể hay nói, viết về
một chủ đề.
Sử dụng mang ý nghĩa, bản đồ tư duy để giúp học sinh tìm kiếm và phát triển
diễn đạt ý tưởng, giúp cho các em khi làm bài tập làm văn dạng “Kể hay nói, viết
về một chủ đề” có thêm vốn từ ngữ, tạo cho các em có sự liên tưởng các chi tiết
hình ảnh trong cùng một chủ đề, biết sắp xếp các chi tiết hình ảnh ấy tạo thành một
ngôn bản (nói) hay văn bản (viết). Từ đó, có sự mạnh dạn tự tin trong học tập cũng
như trong giao tiếp.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 15/9/2016
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
- Về nội dung của sáng kiến:
Với sự học hỏi của bản thân, sử dụng mạng ý nghĩa và bản đồ tư duy vào
giảng dạy phân môn tập làm văn lớp 3 đã giảm hẳn áp lực học tập, học sinh thoải
mái, tự tin hơn khi thực hiện bài tập dạng Kể hay nói (viết) theo chủ đề. Kinh
nghiệm tuy không lớn nhưng đã nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn nói
riêng và môn Tiếng Việt lớp 3 nói chung.
Các giải pháp:
b.2.1. Hình thành và phát triển “môi trường tư liệu ở lớp học”
Trước tiên tôi thực hiện hình thành “môi trường tư liệu ở lớp học” để giúp
học sinh có điều kiện dễ dàng sử dụng từ ngữ khi sử dung mạng ý nghĩa hay bản đồ
tư duy mà tôi trình bày ở phần sau.


+ Thu thập và trưng bày các bài văn mẫu của học sinh khá giỏi năm trước.
+ Phân tích điểm hay của các bài đọc tiêu biểu cho các thể loại văn bản, giới
thiệu thành bộ sưu tập và trưng bày.
+ Xây dựng từ điển lớp: Giáo viên đưa ra hoặc hướng dẫn học sinh thu thập
danh mục các từ mà các em đã biết theo chủ đề Tập làm văn trong sách giáo khoa.
+ Tập cho học sinh có thói quen quan tâm đến các trường hợp sử dụng từ hay
trong khi đọc, kể chuyện hay luyện từ và câu.

b.2.2. Sử dụng “Mạng ý nghĩa”:
Sử dụng “Mạng ý nghĩa” như là sử dụng một đồ dùng dạy học, một biện
pháp dạy học cụ thể. Sử dụng mạng ý nghĩa là cách thức giáo viên tổ chức cho học
sinh suy nghĩ diễn đạt một cách chủ động và sáng tạo trong dạy học Tập làm văn.
Phương pháp này hướng đến việc cá thể hoá tối đa hoạt động nói và viết của học
sinh sao cho sản phẩm làm văn của các em vừa bảo đảm được chuẩn mực cơ bản
của một thể loại văn bản, vừa thể hiện bản chất cái tôi của mỗi học sinh trên cơ sở
khai thác khái niệm và hiểu biết có trước của các em cũng như những ý tưởng và
ngôn từ trong các bài đọc theo chủ đề mà các em đã được học trong SGK.
*Tiến trình thực hiện phương pháp mạng ý nghĩa:
Hoạt động 1: Tìm hiểu đề
Trong hoạt động này, học sinh định hình cụ thể đối tượng nói hay viết trong trí
nhớ để xác định đối tượng đó là ai? Là gì? ở đâu? Lúc nào?.. vào khung chủ đề.
Trong trường hợp dùng vật thật hay tranh ảnh thì khung chủ đề cũng chính là
chúng.
Để thực hiện hoạt động này tôi sử dụng một trong các hình thức sau:
- GV trò chuyện khơi gợi rồi đề nghị học sinh nhắm mắt nghĩ về đối tượng,
- Tạo tình huống khơi gợi rồi đề nghị học sinh nghĩ đến chủ đề hay đề tài.
- Kể một mẩu chuyện nhỏ liên quan đến đề bài, kết hợp đặt câu hỏi hướng học
sinh đến đề tài.
- Dùng tranh ảnh hoăc mẫu vật thật do giáo viên mang đến lớp hay do học sinh
tự sưu tầm.
- Cho học sinh tô màu rồi đặt tên cho một hình vẽ nào đó (do giáo viên cung
cấp) liên quan đến đề tài.
- Sử dụng mô hình (khung ngôi nhà, khung ngôi trường ...). Trên nền khung
giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ hay viết thêm chi tiết vào.
- Sử dụng một đoạn văn mẫu lấy từ bài tập đọc đã học hay từ các bài làm của
học sinh.
Hoạt động 2: Tìm ý
Học sinh tập trung động não nghĩ về đối tượng đã xác định trong khung chủ

đề và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến đối tượng ấy.


Khi tiến hành hoạt động này tôi thực hiện theo các bước sau:
- Sử dụng hệ thống câu hỏi để kích thích và định hướng cho học sinh phát
triển ý. Cần lưu ý câu hỏi phải có tính chất mở, hướng đến việc khơi gợi kinh
nghiệm riêng, vốn sống thực tế của các em. Ví dụ đối với văn miêu tả, câu hỏi có
thể được triển khai theo hướng mở sau: Em thấy gì? Em nghe gì? Em nghĩ gì? Em
cảm thấy gì?...
- Đưa ra một khung mạng trong đó cho sẵn vài ý, phần còn lại để học sinh
suy nghĩ và đưa thêm ý vào để hoàn thành mạng (khung mạng ý nghĩa có thể được
trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau tuỳ theo nội dung từng bài : Bông hoa,
chùm bong bóng, mạng nhện, một cây với những cành lá...
- Đối với học sinh khá giỏi hay học sinh đã quen với việc sử dụng mạng,
giáo viên nên để các em tự nghĩ và viết ra các ý mà không cần đưa một hệ thống
câu hỏi hoàn chỉnh.
- Học sinh viết các ý dưới dạng từ hay cụm từ xung quanh chủ đề. Giáo viên
tuyệt đối tránh viết chốt lại một số từ về đề bài. Cần xoá đi những ý đã được ghi lên
bảng trong giai đoạn làm mẫu nghĩa là khi học sinh làm việc cá nhân trong phiếu
học tập thì trên bảng chỉ còn lại khung mạng trống.
Hoạt động 3: Lập dàn ý : Sắp xếp ý đã có trong mạng.
- Hướng dẫn học sinh đánh số thứ tự cho các ý tìm được, lưu ý trình tự chung
của thể loại văn đang làm và hướng dẫn có tính chất mở (đoạn văn miêu tả thì lưu ý
những chi tiết nào có ý nghĩa giới thiệu chung thì nói trước, ý nào miêu tả chi tiết,
cụ thể thì nói sau).
- Mỗi học sinh xem lại các ý trong mạng và đánh số thứ tự.
- Gọi vài học sinh lên thể hiện mạng ý nghĩa của mình đã làm trước lớp để cả
lớp theo dõi. Ngoài khung mạng làm mẫu, GV vẽ sẵn trên bảng các mạng tương tự
và che chúng lại. Sau khi HS đã tìm ý và hình thành mạng ý nghĩa trong phiếu bài
tập, giáo viên cho một số em lên thể hiện lại ý của mình vào các khung mạng trên

bảng.
Hoạt động 4: Học sinh diễn đạt các ý trong mạng ý nghĩa thành bài dưới
dạng nói hay viết
- Nếu là bài tập nói, giáo viên hướng dẫn học sinh nhìn mạng ý nghĩa của
mình diễn đạt thành câu, thành bài trước lớp hay theo nhóm, cặp, theo nhóm đôi là
tốt nhất.
- Nếu là bài tập viết, giáo viên hướng dẫn học sinh diễn đạt mỗi từ ngữ xoay
quanh mạng ít nhất một câu.
Hoạt động 5: Trao đổi, sửa chữa và nhận xét:


- Nếu là bài nói, cho vài nhóm học sinh thể hiện lại trước lớp rồi tổ chức trao
đổi nhận xét và rút kinh nghiệm về cách nói phù hợp với yêu cầu của nội dung và
thể loại của đề bài .
- Nếu là bài viết: Tổ chức cho học sinh đọc sửa chữa bản nháp của mình theo
hình thức nhóm/cặp (đổi vở cho nhau sửa chữa). Giáo viên theo dõi giúp đỡ chung.
Hoạt động 6: Dựa vào bản nháp đã được sửa, học sinh viết lại bài hoàn chỉnh.
*Ví dụ minh họa
Ví dụ 1: Đề bài: Nói về quê hương em (BT2-TV3 -Tập1- Tr92)
1. Chuẩn bị:
Phiếu học tập
a..Hoàn thành bảng dưới đây
Tên bài đọc
Quê hương là...
Chi tiết làm em xúc động nhất
Giọng
quê ...................................... ..............................................................
hương
...................................... ..............................................................
Quê hương

..................................... ...............................................................
..................................... ..............................................................
Đất quý, đất yêu ..................................... .............................................................
..................................... .............................................................
Vẽ quê hương
..................................... ...............................................................
..................................... ..............................................................
b. Đánh dấu X trước mỗi câu nếu em đồng ý, đánh XX trước mỗi câu nếu em rất
đồng ý.
Qua các bài đọc trên em thấy quê hương:
Là tất cả những gì gần gũi, thân thương đối với mình.
Là nơi mình sinh ra và lớn lên.
Là những điều mình có thể nghe, có thể thấy, có thể sờ, có thể nếm.
Là nơi mà khi xa mình thấy nhớ thương.
c. Các em hãy nghĩ về quê hương mình:
Quê em ở đâu? Em yêu nhất cảnh vật gì ở quê hương? Cảnh vật đó có gì đáng
nhớ? Tình cảm của em đối với quê hương như thế nào?
2. Cách tiến hành
Hoạt động 1: Giúp HS tìm hiểu yêu cầu của đề bài và chuẩn bị thông tin ý
tưởng để nói. Trước hết GV phát phiếu học tập cho học sinh và dẫn dắt học sinh
hoàn thành bài tập a, b trên phiếu (theo nhóm)


- GV treo bảng phụ có ghi các bài tập a, b trên bảng. Cho các nhóm tự nêu
kết quả bài làm của mình, các nhóm khác nhận xét, GV bổ sung hoàn thành bài tập.
Giới thiệu nội dung chủ đề “Nói về quê hương”.
Hoạt động 2: HS tập trung động não nghĩ về quê hương đã xác định trong
khung chủ đề và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến quê hương mà mình
đang nghĩ tới.
- GV treo bài tập c (ghi sẵn ở bảng phụ) lên bảng kèm với lời dẫn dắt để kích

thích học sinh hồi tưởng.
- HS làm vào giấy nháp; GV đồng thời gọi hai em làm vào bảng phụ ghi vào
khung chủ đề cụm từ “Quê hương em” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng nào của
mình có được xung quanh chủ đề ấy (lưư ý HS chỉ ghi từ hoặc cụm từ)
Ví dụ:
Vườn cây
công viên
thành phố
yêu
con sông

Quê hương em

bờ đê, bãi cỏ

nông thôn
đường phố
nhà cao tầng
Hoạt động 3: HS đánh số thứ tự các ý mình vừa tìm được, GV hướng dẫn
các em sắp xếp các ý bằng số thứ tự 1,2,3.
- GV bao quát lớp đặc biệt là chú ý HS trung bình và yếu để giúp các em
điều chỉnh.
Chẳng hạn với ví dụ trên, học sinh có thể đánh số thứ tự như sau:
vườn cây (4)
công viên (4)
thành phố (1)
yêu (5)

con sông (2)


Quê hương em

bờ đê, bãi cỏ (3)

nông thôn (1)
đường phố (3)
nhà cao tầng (2)
Hoạt động 4: HS nhìn mạng của mình và nói
Cho hai em nói mẫu trước lớp .
Ví dụ : Quê hương em thuộc một vùng nông thôn yên bình. Ở đó có cây đa
cổ thụ che bóng rợp cả một vùng. Giếng nước trong veo. Trước mặt ngôi nhà em là
con sông quê hương uốn lượn quanh làng. Ven sông là bờ đê với bãi cỏ xanh mượt,
những chú trâu béo tròn đang ung dung gặm cỏ. Em rất thích tắm mình dưới con
sông ấy khi mùa hè đến. Em yêu quê hương của mình.
Hoặc: Em và gia đình sống ở thành phố. Ở đó em thấy có nhiều ngôi nhà
cao tầng. Trên đường phố, mọi người và xe cộ đi lại tấp nập. Ngày nghỉ, em thường


được bố mẹ dẫn đi chơi công viên, được ngồi trên cái ghế đá mát rượi. Cảm giác
của em lúc đó rất là thích. Em yêu quý nơi này.
- Cả lớp nhận xét, GV bổ sung.
Hoạt động 5: Học sinh nói theo cặp (hoặc nhóm 4). GV bao quát lớp đặc biệt
lưu ý giúp học sinh yếu.
Hoạt động 6: HS nói thể hiện trước lớp
- GV gọi đại diện các nhóm lên nói trước lớp (không nhìn mạng ý nghĩa).
Nếu là học sinh yếu, có thể cho học sinh nhìn mạng để nói.
- Tổ chức cho HS thể hiện mở rộng cảm xúc về quê hương mình. Khuyến
khích HS tự tìm đặt và trả lời thêm câu hỏi mở rộng. Chẳng hạn: Quê em có gì đặc
biệt? Em mơ ước gì về quê hương của mình? GV nhận xét chung.
Ví dụ 2: Dạy bài : Kể về gia đình (BT1-TV3 -tập1- tr 28)

Đối với bài tập này, giáo viên cần rèn cho học sinh kỹ năng nói : Kể được
một cách đơn giản về gia đình mình với một người bạn mới quen.
1. Chuẩn bị : Bảng phụ: Gia đình em có những ai? Làm công việc gì? Tính
tình như thế nào? Tình cảm của em đối với gia đình?
2. Cách tiến hành
Hoạt động 1:
- Cho HS đọc yêu cầu bài tập, GV giúp HS tìm hiểu yêu cầu của bài tập: Kể về
gia đình mình cho bạn mới quen biết.
- Học sinh tập trung động não nghĩ về gia đình và viết ra bất kỳ những từ ngữ
nào liên quan đến gia đình mình.
- Giáo viên treo bảng phụ lên bảng. HS đọc thầm và hồi tưởng.
- HS làm vào giấy nháp. GV gọi đồng thời hai em làm vào bảng phụ, ghi vào
khung chủ đề cụm từ “gia đình mình” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng nào của mình
có được xung quanh chủ đề đó.
Ví dụ:
Làm ruộng
anh, chị
học sinh
Ông, bà

Gia đình mình

bố, mẹ

Yêu thương
em
hạnh phúc
Hoạt động 2: Học sinh đánh số thứ tự của mình vừa tìm được theo thứ tự 1,2,3...
Chẳng hạn có thể đánh số thứ tự như sau:
Làm ruộng

anh, chị (3)
học sinh (4)
Ông, bà (1)
Yêu thương (5)

Gia đình mình
em (3)

bố, mẹ (2)
hạnh phúc (6)


- GV bao quát lớp đặc biệt là chú ý học sinh trung bình và yếu để giúp các
em điều chỉnh.
Hoạt động 3: Học sinh nhìn mạng ý nghĩa của mình và nói
- GV gọi 2 em đại diện kể về gia đình mình trước lớp.
Ví dụ : Gia đình mình có 6 người : Ông bà, bố mẹ tớ, anh Hà và tớ. Ông bà
mình đã lớn tuổi rồi. Bố mẹ tớ đều ở nhà làm ruộng. Anh Hà là học sinh lớp 7. Ông
bà mình rất hiền, thường kể chuyện cho mình nghe. Mẹ mình luôn bận bịu với việc
nhà, vì thế mình yêu mẹ lắm. Lúc nào rảnh việc học, mình lại giúp đỡ bố mẹ. Gia
đình mình rất hạnh phúc.
- Cả lớp nhận xét, GV sửa lỗi và cách diễn đạt cho các em (nếu có sai sót).
b. 2.3. Sử dụng “Bản đồ tư duy”:
Ngoài việc sử dụng mạng ý nghĩa nêu trên, trong khi dạy tập làm văn lớp 3,
tôi sử dụng bản đồ tư duy thay cho sơ đồ mạng ý nghĩa. Bản đồ tư duy là một
phương tiện trực quan, muốn xây dựng được nó để dạy tập làm văn, người giáo
viên cũng phải suy nghĩ, tìm tòi đặc biệt là các từ ngữ phục vụ theo yêu cầu của
từng chủ đề, đề bài. Giáo viên thiết kế bản đồ tư duy cần phải đảm bảo đúng kiến
thức của từng bài, từng chủ đề và đảm bảo tính thẩm mĩ để qua đó học sinh tiếp
nhận kiến thức bài một cách tích cực và mang lại hiệu quả giờ học cao hơn.

Ví dụ khi dạy đề bài: Nói, viết về người lao động trí óc (BT1, 2 - TV3 Tập 2 – Tr38), các bước đi như đã trình bày ở trên, giáo viên sử dụng bản đồ tư duy
như sau thay cho việc sử dụng mạng ý nghĩa:

Qua bản đồ tư duy này, học sinh sẽ dựa vào các dữ liệu (các từ ngữ phục vụ
cho đề bài) để hoàn thành bài nói về người lao động trí óc dễ dàng hơn.
Ví dụ 1: Cô em là bác sĩ làm việc tại bệnh viện huyện. Hằng ngày, cô đều đến
bệnh viện miệt mài với công việc của mình. Mỗi khi khám bệnh, cô ân cần hỏi han
người bệnh về tình trạng bệnh tật. Ai cũng khen cô khám bệnh rất giỏi, kê đơn phát
thuốc uống là khỏi ngay. Mọi người rất yêu quý cô. Em thật tự hào về cô của em.


Ví dụ 2: Em muốn kể về cô giáo đang dạy lớp 3 của em. Hàng ngày, cô lên lớp
dạy chúng em học, bài nào chưa hiểu, cô tìm mọi cách để giảng giải, hướng dẫn
chúng em đến hiểu thì thôi. Cô thu từng chồng vở tập làm văn của chúng em mang
về, em đoán rằng cô chắc phải thức cả đêm để chấm bài, để sửa từng câu chữ cho
chúng em. Rồi cô còn soạn bài cho buổi học ngày mai…Cô là một người giáo viên
tận tụy, hết lòng vì học sinh thân yêu. Nhớ ơn cô, chúng em luôn chăm chỉ học tập
để cô vui lòng.
Hoặc khi dạy bài: Kể về một buổi biểu diễn nghệ thuật (BT1, 2 -TV3 - tậpII
- tr 48), giáo viên thực hiện các bước như sau:
- Cho học sinh đọc yêu cầu bài tập, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu
của bài tập: Kể về buổi biếu diễn nghệ thuật (Hoặc buổi biểu diễn văn nghệ ở
trường em).
- Học sinh tập trung động não nghĩ về buổi biểu diễn và viết ra bất kỳ những
từ ngữ nào liên quan đến buổi biểu diễn.
- Giáo viên treo bảng phụ vẽ bản đồ tư duy lên bảng. Giới thiệu cho học sinh
biết một số từ ngữ liên quan đến biểu diễn nghệ thuật. Học sinh nhìn bản đồ tư duy,
tự suy nghĩ và hồi tưởng.
- Yêu cầu học sinh từ một từ trong bản đồ, viết ít nhất một câu về chủ đề biểu
diễn nghệ thuật.


- Học sinh ghi vào giấy nháp về buổi biểu diễn.
- Giáo viên gọi một vài em kể về buổi biểu diễn cho cả lớp nghe.
- Cho học sinh nhận xét lời kể của bạn. Giáo viên nhận xét chung.
Chẳng hạn: Chủ nhật tuần trước em được bố mẹ cho đi xem xiếc. Mở mà là
tiết mục đu dây của một cặp diễn viên nam nữ. Họ thật là dũng cảm khi đu trên sợi
dây tít trên cao. Sau đó là tiết mục xiếc thú: nào khỉ đi xe đap, chó làm toán, voi đá
bóng… tiết mục nào cũng thật là hấp dẫn. Em thích nhất là tiết mục biến giấy thành
hoa, thành chim bồ câu. Người diễn viên thật khéo léo trong khi biểu diễn. Em rất
thán phục các diễn viên biểu diễn trong ngày hôm đó.


Hoặc: Cứ đến 20/11 hằng năm, trường em lại tổ chức đem văn nghệ chào
mừng ngày Nhà giáo Việt Nam. Đúng 7 giờ thì khai mạc buổi biểu diễn. Sau đó là
lần lượt tiết mục của các lớp. Bạn Hồng Nhung lớp 3D với tiết mục hát đơn ca
“Bông hồng tặng cô” mượt mà, tình cảm. Tiết mục kể chuyện “Bác Hồ đến thăm
trại nhi đồng” của em Thanh Thùy lớp 2C thật truyền cảm, xúc động. Em thích nhất
là tiết mục tam ca “Tiếng hát bạn bè mình” của lớp em. Các bạn vừa hát, vừa biểu
diễn rất chuyên nghiệp. Rồi còn các tiết mục múa của các em lớp một thật uyển
chuyển, dễ thương. Thật là một buổi biểu diễn đầy ý nghĩa để dânh tặng các thầy
cô.
*Lưu ý: Học sinh lớp Ba tư duy chưa nhanh, suy nghĩ để tìm ra các từ ngữ
phục vụ cho đề bài chưa nhiều nên học sinh khó vẽ được bản đồ tư duy hoàn chỉnh.
Bởi vậy trong khi dạy Tập làm văn muốn đạt hiệu quả, tôi chuẩn bị bản đồ tư duy
hoặc sơ đồ mạng ý nghĩa sẵn, sau khi hướng dẫn xong thì có thể xóa đi và yêu cầu
học sinh áp dụng vào để tự làm bài. Đối với những học sinh khá giỏi, tôi hướng dẫn
các em vẽ bản đồ tư duy trong một số bài học nhưng không yêu cầu quá cao đối với
học sinh. Nếu học sinh vẽ được bản đồ tư duy phục vụ cho bài học thì giáo viên cần
định lượng thời gian phù hợp để các em hoàn thành, tránh tình trạng lạm dụng vẽ
rồi không đạt yêu cầu đề bài nêu ra.

- Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
Để thực hiện được các biện pháp trên, mỗi giáo viên phải là người nắm chắc
kiến thức, hiểu rõ những điều mà đề bài yêu cầu; là người tổng hợp được kiến thức
các môn học để giúp học sinh nhanh chóng hiểu và làm theo yêu cầu của mỗi đề
bài.
Mỗi học sinh phải tham gia tích cực, giàu trí tưởng tượng, vận động tư duy
theo yêu cầu của giáo viên, từ đó mới nhanh chóng tìm được các từ ngữ thuộc chủ
đề và hoàn thành bài nói (viết) trong thời gian quy định.
Để thực hiện tốt các bài tập dựa vào mạng ý nghĩa hay bản đồ tư duy, trong
các tiết dạy các phân môn khác của môn Tiếng Việt như Tập đọc, Kể chuyện,
Luyện từ và câu, người giáo viên phải giúp học sinh nắm được các từ ngữ thuộc
chủ điểm đang học, từ đó có vốn từ phục vụ cho việc hiểu mạng ý nghĩa hay bản đồ
tư duy mà giáo viên đưa ra trong tiết Tâp làm văn cuối tuần.
Các biện pháp trên nên thực hiện đồng bộ, thường xuyên trong giờ dạy Tập
làm văn, phối hợp với sử dụng SGV như là một đồ dùng dạy học. Ngoài ra, các
biện pháp đưa ra phải phù hợp với khả năng của học sinh thì mới đạt hiệu quả cao.
8. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Rèn cho học sinh kỹ năng diễn đạt bằng lời nói (viết) về một chủ đề thuộc
các chủ điểm của môn học: Nói, viết về thành thị hoặc nông thôn thuộc chủ điểm


Thành thị và Nông thôn; Kể về gia đình thuộc chủ điểm Mái ấm; Kể về một buổi
thi đấu, kể về lễ hội, …
Xem xét cách triển khai câu hỏi gợi ý ở mỗi đề, chúng ta có thể thấy dạng đề
này hầu như là sự kết hợp của nhiều thể loại: miêu tả, tường thuật, thuyết minh và
phát biểu cảm nghĩ. Trong sách giáo viên, các kiểu đề này chủ yếu được tiến hành
theo một trình tự như sau:
- Giáo viên giới thiệu bài:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài:
+ Học sinh đọc và xác định yêu cầu của bài tập

+ GV cho học sinh tìm ý theo hệ thống câu hỏi trong SGK hay hệ thống câu
hỏi trong SGV hoặc giải thích cho học sinh cách làm bài.
+ Một học sinh kể mẫu và giáo viên nhận xét
- Học sinh tập nói theo tổ (nhóm).
- Đại diện một số nhóm nói trước lớp. Cả lớp và giáo viên nhận xét.
- Cả lớp viết bài vào vở nếu bài yêu cầu cả nói và viết.
Trình tự dạy học như vậy bài nào cũng giống bài nào, dẫn đến sự nhàm chán,
thiếu sự sáng tạo và không tích hợp được các phân môn học khác của môn Tiếng
Việt.
Khi dạy dạng đề này, ngoài phương án được nêu trên (trong sách giáo viên),
tôi đã tham khảo một số kinh nghiệm trên mạng internet của đồng nghiệp và của
chính bản thân, trước hết là nghiên cứu dạy thật tốt các phân môn khác trong môn
Tiếng Việt, sau đó sử dụng mạng ý nghĩa và bản đồ tư duy để giúp học sinh tìm
kiếm và phát triển diễn đạt ý tưởng, giúp cho các em khi làm bài tập làm văn dạng
“Kể hay nói, viết về một chủ đề” có thêm vốn từ ngữ, giúp cho các em dựa vào
mạng ý nghĩa hay bản đồ tư duy, có thể nói (viết) thành đoạn văn theo yêu cầu đề
bài một cách dễ dàng hơn, tạo sự mạnh dạn tự tin trong học tập.
9. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
9.1. Đánh giá thực trạng của các nhà trường khi chưa áp dụng sáng kiến:
a. Thuận lợi, khó khăn
* Thuận lợi về phía giáo viên
- Đặc trưng phân môn Tập làm văn là hình thành và rèn luyện cho học sinh
khả năng trình bày văn bản nói (viết) ở nhiều thể loại khác nhau. Để thực hiện mục
tiêu đó, mỗi giáo viên không ngừng học hỏi, cải tiến phương pháp và hình thức tổ
chức dạy học để giúp học sinh nắm được kiến thức, nói (viết) được đoạn văn theo
yêu cầu.


- Giáo viên luôn quan tâm chăm sóc học sinh trong từng tiết học, nghiên cứu
nội dung bài dạy, lựa chọn các phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với mỗi đối

tượng học sinh.
- Qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua bồi dưỡng chuyên môn thường
xuyên, giáo viên luôn được tiếp cận với những phương pháp day học đổi mới, phát
huy tính tích cực sáng tạo của học sinh.
* Thuận lợi về phía học sinh
- Ở lứa tuổi học sinh lớp 3, các em rất thích tìm tòi, học hỏi.
- Nội dung chương trình môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn
nói riêng rất phong phú. Sách giáo khoa kênh chữ rõ ràng, các câu hỏi sát thực;
kênh hình được trình bày đẹp phù hợp tâm lí lứa tuổi.
- Học sinh đã được làm quen kĩ năng tạo lập văn bản ở các lớp dưới. Đây là cơ
sở giúp học sinh học tốt phân môn Tập làm văn ở lớp 3.
* Khó khăn về phía giáo viên
- Trong giảng dạy phân môn Tập làm văn, khi rèn kĩ năng nói, viết cho học
sinh giáo viên có đầu tư nghiên cứu mục tiêu từng bài dạy, lựa chọn các phương
pháp phù hợp với đối tượng học sinh nhưng sự đầu tư chưa sâu, hầu hết chỉ dựa vào
sách giáo viên nên hiệu quả môn dạy chưa cao.
- Một số đề bài chưa thực sự gần gũi với học sinh như kể về một ngày hội,
viết tin thể thao… thiếu thực tế nếu giáo viên chỉ nói suông thì học sinh không
hiểu, không nắm bắt được nên hiệu quả chưa cao.
- Việc tổ chức giờ học trên lớp của giáo viên chưa phát huy dược vốn ngôn
ngữ vốn có của các em cũng như chưa khơi dậy ở học sinh sự mạnh dạn tự tin trong
học tập.
* Khó khăn về phía học sinh
- Môn tập làm văn là một môn khó, nhiều em còn ngại làm văn, lười suy
nghĩ nên ở các giờ học các em còn ngại phát biểu, viết bài sơ sài. Cách dùng từ đặt
câu chưa đúng, viết đoạn văn còn nghèo ý, chưa có sự sáng tạo. Hầu hết học sinh
chỉ trả lời hay viết đúng theo câu hỏi gợi ý.
Đây là những vấn đề nan giải đòi hỏi người giáo viên phải có biện pháp thích
hợp để từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Tập làm văn.
b. Thành công, hạn chế

Đối với học sinh
Khi tôi vận dụng các biện pháp này trong giờ dạy Tập làm văn, học sinh buộc
phải có sự tư duy động não suy nghĩ vấn đề mà giáo viên nêu ra, tìm tòi các từ ngữ,


hình ảnh phù hợp với chủ đề trong bài nói, viết. Học sinh phải sắp xếp ý, hình ảnh
phù hợp sau đó sắp xếp câu để thành đoạn văn phù hợp chủ đề. Tóm lại biện pháp
này giúp học sinh học tập rất tích cực, hiệu quả.
- Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Qua kiểm tra,
chất lượng các bài văn của học sinh nâng lên rõ rệt. Bài Tập làm văn dạng Kể hay
nói, viết về một chủ đề đã có những ý tưởng độc lập, sáng tạo, có màu sắc riêng;
một số em còn có những ý tưởng độc đáo, mới lạ. Hầu hết học sinh đã biết nói
(viết) một đoạn văn ngắn theo chủ đề, diễn đạt khá lưu loát, trôi chảy.
- Ở các tiết học Tập làm văn, khi đã làm quen với cách học này, học sinh mạnh
dạn, tự tin hơn trong học tập cũng như giao tiếp nhất là đối với những học sinh
trung bình và yếu.
- Khi vận dụng các giải pháp trên vào dạy Tập làm văn ở lớp 3, giờ học
không trầm như trước mà học sinh chú ý học hơn nhiều, qua thực hành giao tiếp
cho thấy khả năng hoạt động học tập của học sinh rất tích cực, hiệu quả, chất lượng
phân môn Tập làm văn và môn Tiếng Việt nói chung được nâng lên rõ rệt.
Đối với giáo viên
Khi dạy các bài tập dạng này, giáo viên hoàn thành mục tiêu bài dạy, không
còn cảm thấy áp lực vì học sinh đã viết được đoạn văn theo yêu cầu dễ dàng hơn.
Hạn chế
Phương pháp này yêu cầu người giáo viên phải tổng hợp được kiến thức từ các
phân môn khác trong môn Tiếng Việt, đòi hỏi giáo viên phải có kĩ năng phân tích,
tổng hợp, tóm lại phải nắm chắc nội dung chương trình của môn Tiếng Việt lớp 3.
c. Mặt mạnh, mặt yếu: Giúp cho học sinh nói (viết) được đoạn văn đúng chủ
đề theo yêu cầu của đề bài.
Học sinh phải nắm được các từ ngữ thuộc chủ đề, mạnh dạn trình bày ý kiến

của bản thân.
d. Nguyên nhân
- Nguyên nhân thành công: Bản thân tích cực tìm tòi học hỏi, nghiên cứu kĩ
chương trình, sách giáo khoa và kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm. Đặc biệt có sự
quan tâm của đồng nghiệp, của lãnh đạo nhà trường trong việc giúp đỡ bản thân
trong công tác chuyên môn.
- Nguyên nhân hạn chế: Một số giáo viên chưa tổng hợp được kiến thức trong
quá trình giảng dạy, chưa thực sự quan tâm đến chất lượng học sinh nói chung và
chất lượng phân môn Tập làm văn nói riêng.
e. Phân tích, đánh giá về các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra


Vậy làm thế nào để thực hiện được mục tiêu dạy học của môn Tập làm văn,
khắc phục thực trạng học Tập làm văn như đã nói trên? Nhà xuất bản Giáo dục Việt
Nam đã phát hành bộ sách Hướng dẫn dạy Tiếng Việt lớp 3 dành cho giáo viên.
Người giáo viên có thể lấy đó làm cơ sở để tham khảo, tiến hành thiết kế bài giảng
Tập làm văn của lớp mình phụ trách. Tuy nhiên, sách giáo viên (SGV) khi hướng
dẫn dạy dạng bài Kể hay nói, viết về một chủ đề hầu hết chỉ hướng dẫn theo một
cách, dẫn đến GV thụ động kiến thức ở SGK, SGV mà ít tìm tòi đọc thêm tài liệu
khác liên quan đến giảng dạy đặc biệt là khi dạy Tiếng Việt nên ngôn ngữ của giáo
viên còn hạn hẹp, bí từ. Khi tổ chức các hoạt động trong giờ học, một số giáo viên
chưa phân định được hoạt động nào là trọng tâm nên hình thức tổ chức dạy còn dàn
trải, chưa có sự liên kết giữa các hoạt động. Một số giáo viên chưa chịu khó suy
nghĩ, tìm tòi, vận dụng các phương pháp dạy học và hình thức dạy học khác nhau
vào các tiết dạy mà chỉ giảng dạy theo một quy trình áp đặt rập khuôn đã hướng dẫn
trong SGV.
Một số đề bài trong Sách giáo khoa còn thiếu thực tế, xa rời vốn sống của học
sinh. Khi làm bài, các em chỉ dựa vào các hình ảnh, tư liệu mà giáo viên cung cấp
nên bài viết còn sơ sài, chưa có sự sáng tạo.
Do cách tổ chức giờ học còn nhàm chám, rập khuôn nên trong giờ Tập làm

văn, đa số học sinh chỉ trả lời câu hỏi theo gợi ý mà ít chịu tìm tòi các chi tiết, hình
ảnh phù hợp chủ đề, dẫn đến nói, viết bài Tập làm văn cho có, lấy lệ.
9.2. Đánh giá kết quả đạt được sau khi áp dụng sáng kiến
Khảo sát đầu năm về môn Tiếng Việt, hầu hết phần viết học sinh chưa đạt
điểm cao, đặc biệt là phần tập làm văn. Cụ thể:
Năm học

2016-2017

TSHS

33

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

SL

%

SL

%

26

78,8

7


21,2

Ghi chú

Sau khi áp dụng các biện pháp nêu trên, cuối năm học kết quả phần viết môn
Tiếng Việt như sau:
Năm học

2016-2017

TSHS

33

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

SL

%

SL

33

100

0


%

Ghi chú


Mạng ý nghĩa hay bản đồ tư duy giúp học sinh có căn cứ để hoàn thành câu,
tiến tới viết đoạn, bài.
Sau khi nhận lớp, tôi tiến hành khảo sát học sinh để nắm được thực trạng đầu
năm. Sau đó, áp dụng các giải pháp đã nêu ở trên, chất lượng phân môn Tập làm
văn được nâng lên rõ rệt. Những học sinh trước chỉ trả lời câu hỏi hoặc không biết
viết gì đã có thể dựa mạng ý nghĩa để sắp xếp ý, để nói (viết) được đoạn văn hoàn
chỉnh về chủ đề mà bài tập yêu cầu. Những học sinh khá, giỏi thì đã có thể tự lập
được mạng ý nghĩa hay bản đồ tư duy, viết được những đoạn văn có hình ảnh, có sự
sáng tạo, có cảm xúc mà tôi giới thiệu kèm theo bài viết này. Đó là phần thưởng
cho sự nỗ lực cố gắng của mỗi học sinh cũng như của bản thân tôi trong quá trình
truyền dạy tri thức cho các em.
10. Danh sách tổ chức đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu
Số
TT
1

Tên tổ chức/cá nhân

Địa chỉ

Phan Thị Hoa Mai

Trường TH Đồng Tĩnh B Tam Dương - Vĩnh Phúc


Phạm vi/Lĩnh vực
áp dụng sáng kiến
Giảng dạy môn Tiếng Việt
lớp 3 qua phân môn Tập
làm văn

Đồng Tĩnh, ngày 20 tháng 2 năm 2017 Đồng Tĩnh, ngày 20 tháng 2 năm 2017
Thủ trưởng đơn vị
Tác giả sáng kiến

Nguyễn Thị Chung

Phan Thị Hoa Mai



×