Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tạo hứng thú cho học sinh trong bộ môn giáo dục công dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.47 MB, 32 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH TƯỜNG
TRƯỜNG THCS VĨNH NINH
-----------

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DUNG SÁNG KIẾN.
Tên sáng kiến: TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH TRONG GIỜ HỌC
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN.
Tác giả sáng tác: Phạm Thị Phượng.
*Mã sáng kiến: 29

Năm học 2017 - 2018
MỤC LỤC
0


Nội dung

Trang

1


Các danh mục viết tắt

4

1. Lời giới thiệu

5


2. Tên sang kiến

6

3.Tác giả sáng kiến

6

4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến

6

5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến

6

6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử

6

7. Mô tả bản chất của sáng kiến

6

7.1 Các bước thực hiện sáng kiên

6

7.1.1 Thực trạng của vấn đề mà vấn đề cần giải quyết


6

7.1.1.1 Về phía giáo viên

6

7.1.1.2. Về phía học sinh

7

7.1.2. Lập kế hoạch nghiên cứu nội dung viết sáng kiến

8

7.2. Nội dung sáng kiến.

8

7.2.1. Đặc điểm môn học Giáo dục công dân trong nhà trường

8

7.2.1.1. Những quan điểm về vấn đề tạo hứng thú trong giờ học
môn GDCD

9

7.2.1.1.1. Giáo viên phải hiểu được yêu cầu và nội dung của công
tác giáo dục tư tưởng, chính trị đạo đức cho học sinh( Nghiên
cứu tài liệu, sách giáo khoa trước khi dạy)


9

a. Công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức, chính trị phải phù hợp với
trình độ kiến thức của chương trình học.

9

b. Công tác giáo dục phải phù hợp với đối tượng lứa tuổi.

10

c. Công tác giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh phải thiết thực,

10
2


phù hợp với yêu cầu thực tiễn của xã hội hiện nay
7.2.1.1.2. Các nguyên tắc của công tác giáo dục tư tưởng đạo đức.

10

7.2.2. Một số biện pháp khi thực hiện.

10

7.2.2.1. Biện pháp đưa thực tiễn, tư liệu cuộc sống vào bài giảng,
làm cho bài giảng phong phú, sinh động, học sinh dễ hiểu và có
ấn tượng sâu về bài học.


11

7.2.2.2. Biện pháp nêu gương

11

7.2.2.3. Biện pháp đóng tiểu phẩm - sắm vai

11

7.2.2.4. Biện pháp cho học sinh kể chuyện liên quan đến bài học

11

7.2.2.5. Biện pháp viết báo tường, hát các bài có chủ đề về đạo
đức, pháp luật, người tốt - việc tốt liên quan đến bài học

12

8. Những thông tin cần được bảo mật

26

9.Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến

26

10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do
áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả


26

10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do
áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả.

26

10.1.1.Kết quả trao đổi kinh nghiệm lấy ý kiến đóng góp từ các
bạn đồng nghiệp.

26

10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do
áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ bộ môn

27

11. Danh sách những tổ chức/ cá nhân đã tham gia áp dụng thử
hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có)

28

.
DANH MỤC BẢNG, HÌNH, BẢN ĐỒ TƯ DUY

3


Bảng 1……………………………………………………...


Trang 7

Bảng 2,3……………………………………………….......

Trang 26,27

Bảng 4,5,6………………………………………………

Trang 27,28

Hình 1……………………………………………………...

Trang 13

Hình 2……………………………………………………...

Trang 16

Hình 3……………………………………………………...

Trang 17

Hình 4……………………………………………………...

Trang 19

Hình 5……………………………………………………...

Trang 20


Hình 6,7…………………………………………………...

Trang 22

Hình 8……………………………………………………...

Trang 23

Bản 1……………………………………………………...

Trang 15

Bản 1……………………………………………………...

Trang 20

Bản 1……………………………………………………...

Trang 24

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
4


GDCD: Giáo dục công dân.
THCS: Trung học cơ sở.

BÁO CÁO KẾT QUẢ
5



NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Môn Giáo dục công dân được đưa vào chương trình dạy học từ rất lâu .Có
thể khẳng định rằng, môn học này có vai trò hết sức quan trọng trong việc hình
thành và phát triển nhân cách của học sinh.
Tầm quan trong đặc biệt của môn học này ở cấp trường Trung học cơ sở đó
chính là nó góp phần hình thành thế giới quan lành mạnh cho học sinh,giúp học
sinh hiểu biết, phân biệt lẽ phải ,trái ; biết tôn trọng bản thân, tôn trọng người
khác ; biết sống trung thực , khiêm tốn, dũng cảm, biết yêu thương và có lòng vị
tha.
Hơn nữa ,Giáo dục công dân còn đóng vai trò chính trong việc tích hợp rất
nhiều vấn đề như :Giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình,
bảo vệ môi trường, giáo dục pháp luật, giáo dục về an toàn giao thông…..
Mặc dù vậy, nhiều giáo viên chưa nhận thức được đầy đủ vị trí, tầm quan
trọng của bộ môn này trong đào tạo nhân cách , rèn luyện kĩ năng sống cho học
sinh nên chưa có nhiều suy nghĩ để tạo ra những phương pháp giảng dạy hiệu
quả. Ngoài ra, phần lớn giáo viên đảm nhiện dạy môn Giáo dục công dân ở
trường Trung học cơ sở thường được đào tạo và dạy cùng môn học khác như
môn Văn với Giáo dục công dân, môn Sử với Giáo dục công dân, môn Thể dục
với Giáo dục công dân hoặc chủ nhiệm kiêm dạy thêm môn Giáo dục công
dân…Chính vì vậy việc giảng dạy bộ môn này gặp rất nhiều khó khăn.
Hiện nay, Môn Giáo dục công dân ở trường Trung học cơ sở đã được chú
ý hơn trước, giáo viên giảng dạy bộ môn này được đi tập huấn, được thi giáo
viên dạy giỏi các cấp. Qua những đợt thi giáo viên dạy giỏi và thanh tra Sư
phạm, giáo viên được học hỏi và cọ sát rất nhiều song như vậy chưa đủ mà giáo
viên cần phải tìm tòi, sáng tạo phương pháp dạy học mới để phát huy tính tích
cực chủ động, sáng tạo đồng thời gợi niềm say mê, háo hức của học sinh đối với
bộ môn Giáo dục nhân cách này. Đó chính là lí do tôi chọn đề tài: “Tạo hứng

thú cho học sinh trong bộ môn Giáo dục công dân”.
Nâng cao chất lượng dạy và học môn Giáo dục công dân ở trường THCS.
Tạo hứng thú cho học sinh khi học môn Giáo dục công dân, khơi dậy ở các em
sự đam mê, sáng tạo trong học tập. Từ đó giúp các em nhận thức đúng đắn về
vai trò, giá trị của môn Giáo dục công dân, góp phần xây dựng, hoàn thiện nhân

6


cách của học sinh và những công dân trong tương lai. Học sinh hiểu được phẩm
chất đạo đức và pháp luật.
Điểm mới của sáng kiến này là:
- Hướng tới mọi đối tượng học sinh đều hướng thú tham gian trong giờ học để
trong tiết hoc được sôi nổi, sôi động và không bị nhàm trán. Đó là một trong
những cơ sở quan trọng giúp học sinh nhận thức, ghi nhớ một cách tốt và nâu
nhất.
- Rèn kỹ cho học sinh tính năng động, sáng tạo, tự giác, tích cực… trong môn
Giáo dục công dân.
2. Tên sang kiến: Tạo hứng thú cho học sinh trong bộ môn giáo dục công dân.
3.Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Phạm Thị Phượng.
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THCS Vĩnh Ninh.
- Số điện thoại: 01693065279 E_mail:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Phạm Thị Phượng
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Sáng kiến này nghiên cứu để rèn luyện cho học
sinh trung học cơ sở có hứng thú học tập hơn trong môn giáo dục công dân.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:
- Thời gian: Từ tháng 9 năm 2016 đến nay.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1 Các bước thực hiện sáng kiên:

7.1.1 Thực trạng của vấn đề mà vấn đề cần giải quyết:
7.1.1.1 Về phía giáo viên:
- Thực tế hiện nay đại đa số giáo viên đã áp dụng đổi mới phương pháp vào
giảng dạy bài học nhưng còn học sinh lại cảm thấy không hứng thú với bộ môn
Giáo dục công dân.
- Có những giáo viên lại kiêm nhiệm vào giảng dạy bộ môn nay lại sa vào
những chi tiết không cơ bản, khêu gợi sự tò mò hiếu kì(đôi lúc lại có hại) làm
cho học sinh lại có những suy nghĩ lệch lạc làm phản giáo dục.

7


- Có những giáo viên ít đọc sách báo, tài liệu tham khảo nên mức độ hiểu biết
về các thông còn hạn chế, thậm chí nhận thức còn chưa đúng đắn nên khi dạy
chỉ lướt qua hoặc không thống kê số liệu mới. Điều này làm cho học sinh khó
hình dung đến các thông tin, sự kiện trong bài học.
- Đồ dùng dạy học trong bộ môn này còn ít và quá sơ sài nên giáo viên cũng
không chú trọng đến. Điều đó dẫn đến học sinh thấy nhàn trán và mệt mỏi
không còn hứng thú , yêu thích trong việc học bộ môn này.
7.1.1.2. Về phía học sinh:
- Do đặc điểm của bộ môn Giáo dục công dân là kiến thức của nó không quá
phức tạp nhưng đòi hỏi tư duy cao. Nó cung cấp những tri thức cơ bản về quan
hệ xử sự trong gia đình (ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em…), quan hệ ứng xử với
hàng xóm, quan hệ cộng đồng xã, môn học này còn cung cấp những hiểu biết về
các quy tắc, quy định của pháp luật như quyền lao động, quyền công dân…vì
vậy học sinh cứ tưởng những việc đó là mình biết rồi nên các em không cần phải
chú ý đến. Từ đặc điểm đó dẫn đến tâm lí các em ngại học, không hứng thú
trong học tập môn Giáo dục công dân.
- Một số em học sinh khi học môn Giáo dục công dân mới chỉ dừng lại ở mức độ
là chăm chỉ thuộc lòng mà con chưa lên hệ được thực tế.

- Mặt khác, do yêu cầu thực tế cuộc sống, một số bậc phụ huynh học sinh muốn
hướng các em vào việc học tốt các môn Khoa học tự nhiên và Anh – Văn.., để
làm cơ sở thi Đại học và tìm kiếm việc làm sau này.
Tất cả những yếu tố trên đã làm cho các em không còn hứng thú học môn
Giáo dục công dân.
Để nắm bắt được tình hình học tập và chất lượng học tập môn Giáo dục công
dân, tôi đã khảo sát 185 học sinh trong toàn trường trước khi thực hiện đề tài này
với câu hỏi:
Tại sao con người sống phải có đạo đức?
Tại sao sống phải có Hiến pháp và Pháp luật?

8


Kết quả đat được như sau:
Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

Kém

SL

%

SL


%

SL

%

SL

%

SL

%

13

7,0

47

25,4

97

55,7

20

10,8


2

1,1

Từ mục tiêu trên,chúng ta thấy cốt lõi việc thực hiên đổi mới phương pháp
dạy học hiện nay là lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo trong việc nắm bắt chiếm lĩnh kiến thức. Vậy giảng dạy Giáo
dục công dân để gây hứng thú cho học sinh, giáo viên phải đa dạng hóa các
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Vì vậy, tổ chức các biện pháp để
tăng cường hứng thú trong học tập, nâng cao sự chú ý, thay đổi các trạng thái
tâm lý mệt mỏi trong quá trình nhận thức mà còn là biện pháp rèn luyện các kỹ
năng ứng xử trong giao tiếp, củng cố và phát triển khả năng tự tin của các em
trong học tập và trong hoạt động xã hội. Cụ thể phương pháp này sẽ có tác dụng:
+ Tăng cường khả năng chú ý nắm bắt nội dung bài học của các em.
+ Nâng cao hứng thú cho người học, góp phần làm giảm mệt mỏi, căng
thẳng trong học tập của học sinh.
+ Tăng cường khả năng giao tiếp giữa giáo viên và học sinh, và giữa học
sinh với nhau, giúp học sinh rèn luyện các khả năng ứng xử, giao tiếp.
+ Thu hút cả lớp theo dõi tham gia các hoạt động
7.1.2. Lập kế hoạch nghiên cứu nội dung viết sáng kiến:
- Nghiên cứu lí luận về đổi mới phương pháp dạy học phát huy tính tích cực học
tập của HS.
- Trao đổi với đồng nghiệp về những suy nghĩ của bản thân trong quá trình dạy
học.
- Nghiên cứu và vận dụng vào bài giảng những bài tập có tính chất, tác dụng
phát huy trí lực của HS.
- Thực nghiệm có đối chứng.
- Khảo sát kết quả, bài học kinh nghiệm.
- Dự giờ đồng nghiệp để so sánh đối chứng.

7.2. Nội dung sáng kiến.
9


7.2.1. Đặc điểm môn học Giáo dục công dân trong nhà trường.
Môn Giáo dục công dân ở trường THCS có vai trò quan trọng trọng việc
hình thành nhân cách cho học sinh. Đặc điểm của nó là bao quát các kiến thức
về đạo đức và pháp luật...Các kiến thức của nó không quá phức tạp,đòi hỏi tư
duy cao. Nó cung cấp những tri thức cơ bản về quan hệ xử sự trong gia đình
(ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em…), quan hệ ứng xử với hàng xóm, quan hệ cộng
đồng xã hội. Đồng thời môn học này còn cung cấp những hiểu biết về các quy
tắc, quy định của pháp luật như quyền lao động, quyền công dân… Đặc điểm
chương trình là kết cấu đồng tâm với các lớp của các cấp học cao hơn.
Như vậy, môn Giáo dục công dân có vị trí tầm quan trọng, nó kết hợp với
các môn học khác có nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, đạo đức của học sinh. Song
môn học này giáo dục với tính chất cụ thể nhất. Nội dung các bài học đã trực
tiếp xây dựng nên nền tảng tư tưởng, tình cảm đạo đức, trách nhiệm và nghĩa vụ
của công dân đối với gia đình, học đường và cộng đồng xã hội. Vì thế giáo viên
dạy bộ môn này cần phải thấy rõ và đánh giá đúng được vị trí, tầm quan trọng
của môn học.
7.2.1.1. Những quan điểm về vấn đề tạo hứng thú trong giờ học môn
GDCD.
Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học là vấn đề mà bất kì giáo viên nào
khi lên lớp cũng đều mong muốn mình có thể làm tốt, song thực tế không phải ai
cũng thành công. Bằng chứng cho thấy, có những giáo viên khi lên lớp, học sinh
rất thích học, nhưng cũng có những giáo viên khi lên lớp học sinh không có
hứng thú với giờ học, môn học, gây ra mất trật tự. Theo tôi để tạo hứng thú
trong giờ học Giáo dục công dân, giáo viên phải nắm vững các bước sau:
7.2.1.1.1. Giáo viên phải hiểu được yêu cầu và nội dung của công tác giáo
dục tư tưởng, chính trị đạo đức cho học sinh( Nghiên cứu tài liệu, sách giáo

khoa trước khi dạy).
Ở đây, giáo dục tư tưởng đạo đức và ý thức chính trị cho học sinh phải
trên cơ sở của chương trình, kiến thức của môn học. Mức độ giáo dục học sinh
Trung học Cơ sở là phải phù hợp với trình độ, lứa tuổi. Yêu cầu cụ thể như sau:
a. Công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức, chính trị phải phù hợp với trình
độ kiến thức của chương trình học.
Đặc điểm kiến thức của lớp 6, lớp 7 về đạo đức là rất giản đơn như khái
niệm về khoan dung, lễ độ, trung thực… những kiến thức này thường phải gắn
10


với thực tế để minh họa, giảng giải và mức độ xây dựng tình cảm cho học sinh
nhẹ nhàng, tự nhiên trên cơ sở của việc giảng giải.
b. Công tác giáo dục phải phù hợp với đối tượng lứa tuổi
Hầu hết học sinh Trung học Cơ sở còn nhỏ tuổi. Việc hiểu các khái niệm
còn trực tiếp, cảm tính cho nên đòi hỏi giáo viên có phương pháp giáo dục thích
hợp. Việc giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh phải trên cơ sở ý nghĩa rút ra
của mỗi khái niệm và kiến thức bài giảng. Từ đó để học sinh cảm nhận và tự nâng
lên thành nhận thức và ý thức của bản thân. Tránh những lý thuyết chung chung,
tránh những lời hô hào phải thế này, thế kia.
c. Công tác giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh phải thiết thực, phù
hợp với yêu cầu thực tiễn của xã hội hiện nay.
- Những yêu cầu về lối sống hiện nay.
- Những ứng xử hàng ngày của học sinh (trong gia đình, nhà trường, xã hội).
- Những vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái.
- Những vấn đề về kỷ luật trong học tập, lao động.
7.2.1.1.2. Các nguyên tắc của công tác giáo dục tư tưởng đạo đức.
Giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh thông qua môn học Giáo dục
công dân, đó là việc làm rất khó nhưng bắt buộc. Ở đây, phải xuất phát từ khái
niệm đạo đức học của pháp luật. Chính vì vậy đòi hỏi các nguyên tắc sau:

+ Phải cho học sinh hiểu rõ khái niệm rồi mới rút ra ý nghĩa, cách vận
dụng, hình thành tư tưởng, tình cảm của học sinh.
+ Tính thực tiễn trong công tác giáo dục tư tưởng phải xuất phát từ thực
tiễn cuộc sống để giáo dục.
+ Giáo dục tư tưởng đạo đức đáp ứng với yêu cầu thiết thực của gia đình
và toàn xã hội.
+ Giáo dục tư tưởng phải phù hợp với đối tượng, phù hợp với chương
trình học.
Tất cả các nguyên tắc trên là sự kết hợp hài hòa và gắn liền với nhau,
không thể coi nặng cái này mà xem nhẹ cái kia. Một bài giảng gây hứng thú cho
học sinh trước hết phải là một bài giảng có tính giáo dục tốt và phải biết vận
dụng kết hợp các nguyên tắc trên.

11


7.2.2. Một số biện pháp khi thực hiện.
Công tác giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh qua môn học GDCD
muốn thực hiện được tốt, theo tôi cách dạy của giáo viên là quan trọng nhất.
Thầy là người gợi mở, học sinh tự do phát triển. Giáo viên dẫn dắt vấn đề, đưa
kiến thức và tình huống bên ngoài cuộc sống để cho giờ học thêm sinh động.
Giờ học, học sinh phải được "phát ngôn" theo sự hiểu biết của mình gắn với bài
học, giúp học sinh say mê với môn học. Giáo viên như một người bạn, người
tâm giao, có vướng mắc là các em hỏi ngay mà không ngại.
Với sách giáo khoa, giáo viên dựa vào khung sườn từ đó có cách gợi mở
với mỗi bài học để học sinh chủ động. Từ kiến thức nền đó, giáo viên "biến hóa"
để học sinh hiểu bài, biết thế nào là tốt - xấu, việc làm nào nên làm - việc làm nào
cần tránh… Tuy nhiên, cũng có cái khó là đồ dùng dạy học còn hạn chế, tranh ảnh
minh họa ít, phần lớn giáo viên phải tự chuẩn bị, tự làm việc, sưu tầm tư liệu có
thể mất khá nhiều thời gian.

Thực tế, nếu dập khuôn theo sách giáo khoa thì môn Giáo dục công dân là
khô cứng, giáo điều, học sinh rất khó hiểu. Chương trình lớp 9 khó, nhiều bài
liên quan đến chính trị, tư tưởng như kiến thức đưa vào thì giáo viên phải dạy và
học sinh đều phải học, tuy nhiên để minh họa rõ cho bài học thì khá khó khăn.
Từ thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ
học Giáo dục công dân cần chú ý các biện pháp sau:
7.2.2.1. Biện pháp đưa thực tiễn, tư liệu cuộc sống vào bài giảng, làm cho bài
giảng phong phú, sinh động, học sinh dễ hiểu và có ấn tượng sâu về bài học.
Những tư liệu này phải phong phú, cập nhật những vấn đề mang tính thời
sự mà học sinh quan tâm. Muốn vậy, đòi hỏi người giáo viên phải thường xuyên
theo dõi những vấn đề của xã hội đặc biệt khi đọc các thông tin trên báo, mạng
internet, truyền hình… giáo viên phải lưu lại những vấn đề có thể phục vụ cho
bài giảng.
7.2.2.2. Biện pháp nêu gương.
Mỗi khái niệm đạo đức, pháp luật mỗi chủ đề cần đưa gương tốt về người
thật, việc thật. Đồng thời cả gương xấu nếu có để học sinh tránh. Những tấm
gương nêu ra phải được học sinh biết, đặc biệt là những tấm gương ở lớp, ở
trường, ở gia đình, ở địa phương mình.
7.2.2.3. Biện pháp đóng tiểu phẩm - sắm vai.
12


- Biện pháp này học sinh phải được chuẩn bị dưới sự hướng của giáo viên.
- Học sinh được thể hiện mình và thấy hứng thú hơn trong bài dạy.
7.2.2.4. Biện pháp cho học sinh kể chuyện liên quan đến bài học.
- Nhằm để học sinh tìm hiểu kỹ, sâu hơn về bài học. Đồng thời tự tin
trước đám đông và muốn thể hiện mình.
7.2.2.5. Biện pháp viết báo tường, hát các bài có chủ đề về đạo đức, pháp luật,
người tốt - việc tốt liên quan đến bài học.
- Biện pháp này giáo viên có thể kết hợp với đoàn thoại - giáo viên chủ

nhiệm lớp để học sinh được tập duyệt trong giờ sinh hoạt.
Đồng thời những chủ đề lớn như "An toàn giao thông", "Phòng chống tệ nạn
xã hội", “Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên” cần tổ chức trong các buổi
chào cờ đầu tuần, hoạt động ngoại khóa, rất thiết thực đối với mỗi học sinh.
ỨNG DỤNG TRONG BÀI DẠY CỤ THỂ
GIÁO DỤC CÔNG DÂN 7
Tiết 15,16: Thực hành ngoại khóa các vấn đề địa phương và nội dung đã
học
I. Mục tiêu cần đạt
1. Kiến thức
- Học sinh ôn lại những đức tính đã học: Giản dị, trung thực, tự trọng, yêu
thương con người…
- Nắm được biểu hiện, khái niệm, ý nghĩa thông qua các hình thức trò
chơi, đóng tiểu phẩm, kể chuyện…
2. Kĩ năng
- Rèn cho học sinh cách kể chuyện, diễn, thuyết trình trước đám đông.
3.Thái độ
- Bồi dưỡng những đức tính, thói quen tốt cho học sinh, phát huy trong
học tập và trong cuộc sống.
- Học sinh tích cực, đấu tranh, phê phán các hiện tượng xấu trong xã hội.
II. Phần chuẩn bị của giáo viên
- Giáo án, sách giáo khoa, sách giáo viên.
13


- Tình huống, câu chuyện liên quan đến bài giảng.
- Hình ảnh học sinh Trường Trung học Cơ sở Vĩnh Ninh mặc đồng phục.
- Giấy Ao, bản đồ tư duy để học sinh tham gia “ Trò chơi tiếp sức”.
III. Phần chuẩn bi của học sinh
- Sưu tầm ca dao, tục ngữ,câu chuyện liên quan đến bài học.

- Tập sắm vai,tình huống theo yêu cầu của giáo viên.
- Ôn lại những kiến thức đã học.
- Thảo luận nhóm, hát, múa….
IV. Các biện pháp tiến hành theo tiến trình bài dạy
Đối với bài này, tôi thấy rằng đây là một bài khó, cần tổng hợp lại các kiến
thức đã học, học sinh vận dụng những kiến thức đó vào thực tế thông qua các
tình huống, sắm vai, kể chuyện…là điều làm tôi luôn trăn trở và suy ngẫm. Để
gây được sự hứng thú, ấn tượng cho học sinh tôi đã vận dụng các biện pháp tích
cực trong giờ dạy của mình.
Để cho học sinh thêm hào hứng, vui vẻ, thoải mái khi vào bài học mới, tôi yêu
cầu học sinh hát tập thể bài hát “ Lớp chúng mình”.
Đầu tiên, tôi cho học sinh ôn lại “phần lí thuyết” ,tổng hợp lại kiến thức một
số bài đã học, tôi đưa lên máy chiếu những hình ảnh liên quan để học sinh nhớ
lại nội dung mình đã được học.
Ví dụ như:

14


Sau đó tôi đặt câu hỏi, các em đã được học những đức tính tốt đẹp nào?
Tôi đưa bản đồ tư duy chưa hoàn thiện lên bản( Bằng giấy Ao) , yêu cầu
học sinh dán phần còn thiếu bằng trò chơi tiếp sức.

15


16


Thông qua phần này học sinh dễ dàng khắc sâu kiến thức đồng thời tạo

được húng thú, góp phần giảm sự mệt mỏi, căng thẳng.
Sau đó, tôi đặt câu hỏi liên quan đến các đức tính tốt đẹp đó như:
Truyền thống “Tôn sư trọng đạo” được tổ chức vào thời gian nào?
Đọc câu ca dao, tục ngữ nói về đức tính trên?
Lấy ví dụ về tinh thần “ Đoàn kết tương trợ”?
Tiếp theo, tôi cho học sinh kể những câu chuyên liên quan đến các đức
tính đó. Học sinh đã chuẩn bị ở nhà, kể chuyện cùng với các hình ảnh liên quan
đến câu chuyện.
Chẳng hạn như câu chuyện “Đôi dép Bác Hồ”:

Sau đó, tôi đặt câu hỏi xoay quanh câu chuyện như:
Em học được đức tính tốt đẹp nào ở Bác?
Ngoài đức tính Giản dị, em còn thuộc lời dạy nào của Bác?
Em thích chi tiết nào, chi tiết đó nói lên điều gì?
Ở phần này giúp các em tiếp thu bài học có hiêu quả, tránh khô khan. Bài học
rút ra từ câu chuyện tác động mạnh mẽ đến suy nghĩ và hành động của học sinh.
Để học sinh thấy rõ hơn ý nghĩa của đức tính giản dị, tôi chiếu hình ảnh
học sinh trường Trung học Cơ sở Vĩnh Ninh mặc đồng phục của trường:

17


Đồng phục giản dị mà đẹp phù hợp với học sinh. Đó chính là nét đẹp của
học sinh vùng quê thanh lịch, văn minh.
Để kết thúc phần kể chuyện giáo viên cho học sinh múa bài “ Đôi dép Bác
Hồ” trên nền nhạc.Nhằm tạo sự thích thú, phấn khởi cho học sinh.
Tiếp theo, học sinh đóng tiểu phẩm “Tôn sư trọng đạo”.Thông qua tiểu
phẩm này, học sinh khắc sâu thêm kiến thức, liên hệ thực tế hiệu quả. Đồng thời
tạo được sự hứng thú,chú ý cho người học. Ngoài ra, còn rèn cho học sinh tính
mạnh dạn, tự tin trước đông người.


18


TIẾT 14- BÀI 11: TỰ TIN
I. Mục tiêu cần đạt
1. Kiến thức
- Học sinh hiểu thế nào là tự tin, hiểu được ý nghĩa của tự tin, biết cách rèn
luyện tính tự tin để trở thành công dân có tính tự tin.
2. Kĩ năng
- Rèn kĩ năng: Thuyết trình,kể chuyện.
- Biết thể hiện tính tự tin trong học tập, cuộc sống hàng ngày.
3. Thái độ
- Bồi dưỡng lòng tự tin vào bản thân.
- Có lập trường đúng đắn trong suy nghĩ, hành động.
II. Phần chuẩn bị của giáo viên
- Những tấm gương, những ví dụ thực tế
- Phiếu học tập
- Hình ảnh về tấm gương thể hiện đức tính tự tin trong cuộc sống và
trong trường.
- Các hình ảnh học sinh trường Trung học Cơ sở Vĩnh Ninh rèn luyện đức
tính tự tin.
- Chuẩn bị phần tình huống học sinh sắm vai
- Các hình ảnh liên quan đến bài dạy trong mục "Đặt vấn đề" học sinh kể
chuyện cùng với các hình ảnh.
III. Phần chuẩn bị của học sinh
- Tìm hiểu những tấm gương thể hiện đức tính tự tin trong cuộc sống và
trong nhà trường
- Đóng kịch, sắm vai, kể chuyện liên quan đến bài học
- Thảo luận nhóm, hát…

IV. Các biện pháp tiến hành
Đối với bài này, tôi thấy rằng đây không phải là bài dễ, làm thế nào để cho
học sinh chiếm lĩnh được tri thức đồng thời biết vận dụng nó vào thực tế cuộc
19


sống là điều luôn làm cho tôi trăn trở và suy ngẫm. Để gây được sự hứng thú, ấn
tượng cho học sinh tôi đã vận dụng các biện pháp tích cực trong giờ dạy của
mình. Tuy nhiên yếu tố không thể thiếu làm cho tiết dạy thành công đó chính là
sử dụng công nghệ thông tin hiệu quả.
Để "Đặt vấn đề" tôi lấy câu chuyện "Trịnh Hải Hà và chuyến du học
Xingapo".
Tôi gọi 1 học sinh liên kể câu chuyện này cùng với các hình ảnh liên quan:

Trịnh Hải Hà và chuyến du học Xin-Ga- Po.

20


21


Sau khi học sinh kể chuyện xong, tôi cho học sinh tìm hiểu về câu
chuyện, những câu hỏi đó lôgic và được chiếu lên máy.
Chuyện nói về việc gì?
Bạn Hải Hà có điều kiện hoàn cảnh như thế nào?
Vậy, Bạn đã học tiếng Anh như thế nào? Và kết quả mà bạn đạt được là gì?
Do đâu Hải Hà đạt được thành tích cao như vậy? Qua đó em có nhận xét
gì về bạn Hải Hà?
Từ đó học sinh thấy được Hải Hà là tấm gương về sự tự tin trong cuộc

sống, con người tự tin thì sẽ thành công trong cuộc sống.
Kết thúc câu chuyện, tôi cho học sinh rút ra khái niệm về sự tự tin qua
tấm gương Trịnh Hải Hà.=> Đó chính là nội dung bài học.
Để học sinh hiểu rõ hơn về tự tin là gì? Tôi cho học sinh đóng tiểu phẩm
"Chuyện nhỏ" thông qua câu chuyện học sinh phân biệt được tự tin với tự cao,
tự đại và tự ti.
Tự cao, tự đại

Tự tin

Tự ti

- Luôn coi mình là - Tin vào khả năng bản thân.
- Rụt rè.
nhất, là đúng.
- Dám tự quyết định và hành- Nhút nhát.
- Không cần sự giúp động một cách chắc chắn
- Hoang mang dao
đỡ, hợp tác của ai.
- Chủ động trong mọi việc.
động
Thông qua phần này giúp học sinh tự tin hơn trước đám đông, đồng thời
có tinh thần đoàn kết hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động nhóm, phát huy được khả
năng của học sinh.
Hơn nữa, học sinh còn rèn được khả năng về ngôn ngữ, mạnh dạn trình
bày ý kiến của mình và của cá nhân. Ngoài ra học sinh còn được nhận xét về
phần trình bày của các nhóm khác. Từ đó tạo được sự say mê, hứng thú của học
sinh trong bài dạy.
Sau đó giáo viên đặt câu hỏi:
Trong hoàn cảnh nào con người cần có tính tự tin? (trong mọi hoàn cảnh

đặc biệt là hoàn cảnh khó khăn).

22


Để từ đó học sinh rút ra được biểu hiện của đức tính tự tin. Đó chính là
hành động cương quyết, dám nghĩ dám làm; chủ động trong mọi việc.
Tiếp theo tôi đưa hình ảnh Nguyễn Ái Quốc và con tàu Đôđốc Latutes ở
bến cảng Nhà Rồng, sau đó tôi đặt câu hỏi: Hình ảnh trên gắn liền với câu
chuyện cảm động nào về Bác. Em hãy kể lại câu chuyện đó? Thông qua phần
này học sinh nhớ lại câu chuyện và được đứng trước lớp thể hiện mình, đồng
thời rèn luyện được đức tính tự tin cho bản thân.

Sau đó tôi hỏi: Thông qua câu chuyện em học tập được đức tính gì của
Bác? Sau đó tôi chốt lại vấn đề.
Tôi lại đưa hình ảnh tiếp theo về thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí, tôi đặt câu
hỏi: "Em biết gì về thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí" hãy kể lại câu chuyện.

Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký “Nhà giáo ưu tú”

23


Sau đó giáo viên nhận xét giọng kể và đặt câu hỏi: Thông qua câu chuyện
cùng với những hình ảnh xúc động này, em học tập được gì ở thầy giáo? Học
sinh bày tỏ suy nghĩ, giáo viên chốt vấn đề.
Đây chính là biện pháp noi gương trong thực tế để học sinh biết được ý
nghĩa của sự tự tin trong cuộc sống hàng ngày.
Ở mục cách rèn luyện tôi đưa những hình ảnh học sinh trường Trung học
Cơ sở Vĩnh Ninh tham gia vào các hoạt động tập thể. Tôi cho học sinh tìm hiểu

ý nghĩa của những hoạt động đó? Sau đó hỏi: "Trong hoạt động trên, em đã
tham gia vào những hoạt động nào? Khi tham gia vào những hoạt động đó, em
thấy mình như thế nào?".

Học sinh trình bày ý kiến, giáo viên tích hợp lại kiến thức sau đó tôi đặt
câu hỏi: Em thấy lớp mình những bạn nào đã có đức tính tự tin? Các bạn rèn
luyện đức tính đó như thế nào?
Thông qua phần này giúp những học sinh đã tự tin rồi phát huy hơn nữa,
còn những bạn chưa tự tin sẽ mạnh dạn hơn, dám thể hiện mình, tin vào khả
năng của bản thân mình.
24


×