Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Vận dụng sáng tạo các phương pháp dạy học nhằm tăng sự hứng thú của học sinh trong mỗi bài học lịch sử ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.84 KB, 32 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH YÊN
TRƯỜNG THCS THANH TRÙ

HỒ SƠ ĐỀ NGHỊ

CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN CẤP TỈNH NĂM 2019

Tên sáng kiến: Vận dụng sáng tạo các phương pháp dạy học nhằm
tăng sự hứng thú của học sinh trong mỗi bài học Lịch Sử ở trường THCS.
Tác giả sáng kiến: Nguyễn Thị Lê
Chức vụ: Giáo viên
Mã số: 06/2019/VY

Hồ sơ gồm:
1. Giấy chứng nhận sáng kiến cấp thành phố;
2. Đơn đề nghị sáng kiến cấp tỉnh;
3. Tờ trình đề nghị công nhận sáng kiến cấp tỉnh;
4. Báo cáo kết quả nghiên cứu, ứng dụng sáng kiến.

Vĩnh Yên, năm 2019


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN ĐỀ NGHỊ
CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN CẤP TỈNH
Kính gửi: Hội đồng Sáng kiến tỉnh Vĩnh Phúc
(Cơ quan thường trực: Sở Khoa học và Công nghệ Vĩnh Phúc)
Tên tôi là: Nguyễn Thị Lê
Chức vụ (nếu có): Giáo viên
Đơn vị: Trường THCS Thanh Trù


Điện thoại : 0988431496.
Tôi làm đơn này trân trọng đề nghị Hội đồng Sáng kiến tỉnh Vĩnh Phúc
xem xét và công nhận sáng kiến cấp tỉnh cho tôi đối với sáng kiến đã được Hội
đồng Sáng kiến cơ sở công nhận sau đây:
Tên sáng kiến: Vận dụng sáng tạo các phương pháp dạy học nhằm tăng sự
hứng thú của học sinh trong mỗi bài học Lịch Sử ở trường THCS.
(Có Báo cáo kết quả nghiên cứu, ứng dụng sáng kiến và Giấy chứng nhận
Sáng kiến cấp cơ sở kèm theo)
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong báo cáo sáng kiến là trung thực,
đúng sự thật, không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác và hoàn toàn
chịu trách nhiệm về thông tin đã nêu trong báo cáo sáng kiến.
Xác nhận của Thủ trưởng đơn vị

Vĩnh Yên, ngày 3 tháng 4 năm 2019
Người nộp đơn

Nguyễn Thị Lê

1


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu:
Lịch sử xã hội loài người là một tổng thể thống nhất, bao gồm tất cả các
lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Do đó, việc nghiên cứu trình bày
lịch sử loài người không thể thực hiện một cách phiến diện. Chức năng của bộ
môn Lịch sử là củng cố những kiến thức cơ bản về quá trình phát triển của xã
hội loài người, việc nắm vững những kiến thức cơ bản về quá trình phát triển
của xã hội loài người, việc nắm vững những sự kiện và quá trình lịch sử đòi hỏi

phải liên quan đến nhiều ngành khoa học như xã hội - nhân văn và khoa học tự
nhiên.
Dạy học Lịch sử ở trường THCS là quá trình cung cấp cho học sinh tiến
trình ra đời và phát triển của xã hội loài người trên mọi mặt đời sống xã hội bằng
các bài chính trị, chiến tranh cách mạng, về kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật.
Người giáo viên trước khi chuẩn bị bài cho một tiết lên lớp không thể không lưu
ý tới các dạng bài với những đặc trưng của nó để xác định nội dung và phương
pháp phù hợp, trong đó sự hiểu biết vận dụng kiến thức liên nghành là yếu tố
quan trọng đảm bảo thành công cho bài giảng.
Dạy học lịch sử ở trường THCS là một quá trình sư phạm, bao gồm nhiều
loại hoạt động khác nhau của giáo viên và học sinh. Những hoạt động đó nhằm
mục đích cho học sinh nắm được tri thức lịch sử, yêu thích môn học, từ đó phát
triển tư duy lịch sử, biết nhận định, đánh giá các sự kiện lịch sử một cách khách
quan, đúng đắn.
Bên cạnh đó, việc đổi mới dạy học nói chung và đổi mới dạy học Lịch sử
nói riêng là một quá trình được thực hiện thường xuyên và kiên trì, trong đó có
nhiều yếu tố quan hệ chặt chẽ với nhau.

2


Vậy dạy như thế nào, học như thế nào để đạt được hiệu quả học tập tốt
nhất là điều mong muốn của tất cả thầy cô giáo chúng ta. Muốn thế ngoài việc
đổi mới nôi dung dạy học thì chúng ta phải đổi mới phương pháp, biện pháp dạy
và học. Người giáo viên phải tổ chức một cách linh hoạt các hoạt động của học
sinh từ khâu đầu tiên đến khâu kết thúc giờ học, từ cách ổn định lớp, kiểm tra
bài cũ đến cách học bài mới, củng cố, hướng dẫn về nhà. Những hoạt động đó
giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách tự giác, chủ động, tích cực, sáng tạo
và ngày càng yêu thích, say mê môn học.
Vậy để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử, người

giáo viên phải sử dụng rất nhiều biện pháp, ví như: phương pháp dạy học nêu
vấn đề, phương pháp “động não”, phương pháp dạy học tích hợp liên môn, sơ đồ
tư duy, phương pháp đóng vai, sử dụng đồ dùng trực quan, kể chuyện lịch sử,
phương pháp hướng dẫn học sinh ghi nhớ sự kiện lịch sử, nắm vững và sử dụng
sách giáo khoa, vở bài tập ...
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn lịch sử, tôi rất băn khoăn về vấn đề
học tập của các em. Làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn lịch
sử là cả một vấn đề. Làm sao để trò hứng thú, say mê, tích cực học tập? làm gì
để khơi dậy niềm đam mê tìm hiểu, nghiên cứu ở trò?
Chính vì lí do trên tôi chọn đề tài: “Vận dụng sáng tạo các phương
pháp dạy học nhằm tăng sự hứng thú của học sinh trong mỗi bài học Lịch Sử
ở trường THCS”. nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học và
mong muốn sẽ góp phần giúp giáo viên tiến hành một giờ dạy học lịch sử hiệu
quả hơn, học sinh tích cực chủ động trong việc tiếp thu lĩnh hội kiến thức của
bài học. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường.
2. Tên sáng kiến: “Vận dụng sáng tạo các phương pháp dạy học nhằm tăng
sự hứng thú của học sinh trong mỗi bài học Lịch Sử ở trường THCS”.
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Nguyễn Thị Lê
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THCS Thanh Trù-TP Vĩnh Yên-tỉnh
Vĩnh Phúc.
3


- Số điện thoại: 0988431496
E_mail:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Lê
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giảng dạy bộ môn Lịch sử.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Tháng 1 - 2018.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:

7.1. Về nội dung của sáng kiến:
7.1.1. Thực trạng vấn đề nghiên cứu hiện nay:
Vai trò, ý nghĩa của môn Lịch sử trong việc trang bị tri thức xã hội và giáo
dục nhân cách cho học sinh là điều đã được nhân loại thừa nhận. Bên cạnh đó
lịch sử không những được xem là “khoa học của các ngành khoa học xã hội” mà
còn chứa đựng trong nó những câu chuyện thú vị, ấn tượng, tạo nên sức hấp dẫn
riêng cho bộ môn này.
Như ta đã biết lịch sử là những gì diễn ra trong quá khứ, đặc thù của môn
học lịch sử là phải tiếp cận nhiều sự kiện lịch sử, với những vị anh hùng, những
danh nhân lịch sử, không chỉ của dân tộc mà còn cả thế giới, từ cổ đại cho đến
hiện đại. Khi học lịch sử yêu cầu các em phải nhớ sự kiện và hiểu nội dung bài
học một cách chính xác, đầy đủ. Vì vậy, đòi hỏi các em phải cần cù, say mê, và
chịu khó lĩnh hội kiến thức thì mới đạt được kết quả cao. Do đó, mà bộ môn lịch
sử khó gây được hứng thú học tập ở học sinh.
Mặt khác, môn lịch sử có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc giáo dục thế
hệ trẻ. Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ truyền thống của dân tộc,
tự hào với những thành tựu dựng nước và giữ nước của tổ tiên, xác định nhiệm
vụ hiện tại có thái độ đúng đắn đối với sự phát triển trong tương lai.
Để giúp các em học tốt, tiếp thu nhanh và nhớ lâu thì giáo viên phải đổi
mới phương pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh nhằm phát huy tính tích
cực, tạo hứng thú học tập của các em, để các em tiếp thu kiến thức mà không bị
gò ép. Vì vậy việc khơi dậy sự hứng thú học tập, phát triển ý thức, ý chí, năng
lực bồi dưỡng, rèn luyện phương pháp tự học là con đường phát triển tối ưu của
giáo dục.

4


Tuy nhiên trong trường phổ thông ở nước ta hiện nay ý nghĩa của bộ môn
đã không được phát huy đầy đủ, chất lượng dạy và học trong nhiều năm qua rất

thấp, nhiều học sinh “thờ ơ” với giờ học, gần như là “quay lưng” với bộ môn
lịch sử. Thực trạng này được lý giải bởi nhiều nguyên nhân trong đó nguyên
nhân sâu xa có thể kể đến là do nội dung, chương trình, Sách giáo khoa còn
nặng nề, phương pháp dạy học chưa hấp dẫn và cách kiểm tra, đánh giá học sinh
còn thiên về thuộc lòng, nặng tính hàn lâm, không phát huy được sự chủ động,
sáng tạo của học sinh.
Ở đây chúng ta sẽ phân tích nguyên nhân từ Sách giáo khoa Lịch sử,
phương pháp giảng dạy của giáo viên và cách kiểm tra - đánh giá học sinh.
Thứ nhất: Sách giáo khoa Lịch sử:
Đi vào tìm hiểu nội dung chương trình Sách giáo khoa Lịch sử lớp 6, 7, 8,
9, chúng ta nhận thấy, chương trình được phân phối theo mô hình “đồng tâm”
với chương trình Lịch sử ở cấp Trung học phổ thông (cùng nội dung kiến thức
nhưng mức độ nhận thức thấp hơn); thể hiện được nguyên tắc “cơ bản - hiện đại
- Việt Nam”, đảm bảo tính hệ thống, lo-gic và chính xác. Sách giáo khoa đã cố
gắng trình bày Lịch sử một cách toàn diện: bên cạnh Lịch sử quân sự, chính trị,
còn chú ý đến Lịch sử kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật…
Tuy nhiên cách trình bày Sách giáo khoa và chương trình Lịch sử hiện
hành vẫn còn tồn tại một số khuyết điểm. Trước hết xét về nội dung theo nhận
xét của nhiều chuyên gia sử học Sách giáo khoa Lịch sử phổ thông “gần như
tóm tắt sách Sử của người lớn để bắt học sinh học. Sách giáo khoa vẫn trình
bày dàn trải, la liệt các sự kiện, nhàm chán, nặng nề. Kiến thức Lịch sử vừa
thừa, vừa thiếu, thừa những cái không cần thiết và thiếu một số nội dung cơ
bản, tiêu biểu” 1. Bên cạnh đó chương trình Lịch sử nhất là Lịch sử lớp 9 còn
nặng về chính trị, quân sự mà nhẹ về văn hóa, kinh tế, cách trình bày sự kiện còn
nặng về số liệu, nhiều nhận định mang tính chủ quan, một chiều. Có thể thấy
Sách giáo khoa Lịch sử mang một “tham vọng” là truyền đạt tất cả những tri
1

Theo GS. Phan Huy Lê – Môn Sử có bị khai tử, học sao cho khỏi ngán – tuoitre.vn (12/02/2016)


5


thức về Lịch sử của thế giới và Việt Nam đến học sinh. Chính vì thế khối lượng
kiến thức trong Sách giáo khoa là rất lớn. Tuy nhiên thời gian dành cho môn học
này ở trường THCS lại rất hạn hẹp (1- 2 tiết/tuần). Vì vậy dẫn đến việc truyền
thụ kiến thức bị dồn nén quá mức, nhiều sự kiện, nhân vật chỉ được nhắc tên
hoặc trình bày bằng những khái niệm khái quát, trừu tượng. Hệ thống tranh ảnh,
bản đồ thì “vừa thiếu, vừa yếu về mỹ thuật” (in đen trắng, nhòe, mờ, ..). Những
thông tin, hình ảnh đơn điệu ấy không làm cho học sinh cảm thấy ấn tượng, hấp
dẫn. Do vậy tính khoa học và tính giáo dục của nó cũng giảm đi rất nhiều.
Các chuyên gia và dư luận xã hội đã nhiều lần lên tiếng về chương trình
Lịch sử phổ thông quá nặng, quá nhiều và tẻ nhạt trong cách trình bày, gây khó
khăn cho giáo viên trong việc soạn giảng và truyền đạt kiến thức. Bộ Giáo dục
cũng đã cố gắng “giảm tải” bằng cách ban hành tài liệu “chuẩn” kiến thức, trong
đó có cắt bớt một số nội dung. Tuy nhiên theo ý kiến của các chuyên gia, cách
“giảm tải” như thế của Bộ là “quan niệm giảm tải rất cơ học và lệch lạc”. Chính
sự “giảm tải cơ học”, còn chủ quan đó khiến cho một số nội dung Lịch sử trở
nên thiếu lo-gic”, làm học sinh càng khó hiểu và làm cho kiến thức càng thiếu
hấp dẫn hơn.
Thứ hai: Phương pháp giảng dạy của giáo viên:
Như chúng ta đã biết giáo viên là “nhịp cầu nối” giữa Sách giáo khoa và
học sinh, là người truyền kiến thức và tổ chức cho học sinh học tập. Cùng một
nội dung kiến thức nhưng cách truyền đạt lôi cuốn, hấp dẫn sẽ thu hút được học
sinh, truyền “lửa đam mê” Lịch sử cho học sinh.
Tìm hiểu thực tế phải công nhận rằng có nhiều thầy cô bộ môn Lịch sử rất
yêu nghề, có tâm huyết, có trình độ chuyên môn cao. Thầy cô luôn cố gắng tìm
tòi tư liệu, chuyện kể lịch sử, đưa các phương pháp - kỹ thuật dạy học mới và
ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, khiến cho các kiến thức trừu
tượng, khó hiểu trở nên cụ thể, gần gũi hơn, giúp học sinh chủ động, hứng thú

học tập hơn.
6


Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn không ít thầy cô còn giữ cách dạy “truyền
thống”, truyền đạt kiến thức có sẵn, một chiều, học sinh nghe, ghi chép ý mà
thầy tóm tắt trên bảng hoặc thầy đọc chậm. Ở một số tiết giảng câu hỏi phát vấn
của giáo viên còn thiếu ý nghĩa phát triển năng lực nhận thức của học sinh đó là
câu hỏi mà đáp án nằm ngay trong Sách giáo khoa, học sinh chỉ cần tìm và đọc
lên, thảo luận nhóm chỉ mang tính hình thức (thảo luận các phần mà Sách giáo
khoa đã ghi chép đầy đủ, học sinh chỉ cần xem sách, tóm tắt ra giấy)...
Một yếu tố quan trọng tác động không nhỏ đến phương pháp giảng dạy
của giáo viên là lượng kiến thức cần phải cung cấp quá nhiều trong một tiết học.
Chính vì tâm lý e ngại “cháy giáo án”, sợ “dạy thiếu kiến thức để học sinh thi”
nên giáo viên luôn trong tư thế “chạy cho kịp”, “dạy cho xong”, đôi khi bài
giảng trên lớp chỉ là sự tóm tắt lại Sách giáo khoa một cách ngắn gọn. Cộng
thêm, quỹ thời gian của giáo viên bị chi phối bởi nhiều công việc “không tên”
nên giáo viên chưa đầu tư nhiều cho việc tìm kiếm tư liệu và soạn giảng. Từ đó
giáo viên chưa tạo nhiều điều kiện cho học sinh tiếp cận với tư liệu Lịch sử,
chưa tổ chức cho các em chủ động tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến thức bộ môn.
Một yếu tố khác cũng tác động không nhỏ đến việc giáo viên bộ môn
chậm hoặc không “mặn mà” với việc đổi mới phương pháp. Đó là do cách nhìn
nhận, đánh giá của phụ huynh, học sinh… khi cho rằng lịch sử là “môn phụ”,
không cần thiết phải đầu tư nhiều. Học sinh chỉ học bài để đối phó với các kỳ
thi, thái độ học nhiều khi thờ ơ, vô cảm.
Nhiều năm qua Bộ Giáo dục, Sở Giáo dục cũng đã có nhiều văn bản,
nhiều lớp tập huấn về đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực nhằm
phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh. Bộ cũng đã nêu ra định hướng
cho giáo viên tổ chức dạy học theo hướng tích hợp. Tuy nhiên do Sách giáo
khoa chưa đổi mới, giáo viên chưa nắm rõ phương thức cũng như lượng kiến

thức cần tích hợp, đề thi vẫn còn nhiều câu hỏi “học thuộc” nên giáo viên chưa
dám mạnh mẽ đổi mới phương pháp; việc dạy học tích hợp, dạy học theo chủ đề
chỉ mới được áp dụng nhỏ giọt, chưa có chiều sâu.
7


Chính lượng kiến thức nặng nề lại được truyền tải bởi cách dạy truyền
thống tẻ nhạt, khô khan khiến học sinh cảm thấy nhàm chán, mệt mỏi. Các em
không nắm được kiến thức một cách sâu sắc, không được rèn luyện kỹ năng. Và
hệ quả của vấn đề này dĩ nhiên là chất lượng dạy và học giảm sút.
Thứ ba: Cách thức kiểm tra - đánh giá học sinh.
Sẽ không quá đáng khi nói rằng hình thức kiểm tra - đánh giá học sinh mà
chúng ta đã và đang áp dụng có “trách nhiệm” rất lớn trong việc chậm đổi mới
phương pháp giảng dạy của giáo viên. Trước đây giáo viên vẫn quen với cách ra
đề kiểm tra theo hướng học thuộc lòng, bắt học sinh phải ghi nhớ máy móc, chi
tiết các sự kiện đã xảy ra. Mỗi cuối học kỳ giáo viên bộ môn luôn lo đau đáu đáp
án sợ học sinh của mình bị trừ điểm vì thiếu ý. Chính cách kiểm tra - đánh giá
thiếu khoa học trên đã dẫn đến một hệ quả “dây chuyền” không mong muốn.
Nội dung kiến thức nhiều, thời gian tiết học quá ngắn và tâm lý giáo viên thì sợ
“dạy thiếu” làm ảnh hưởng đến kết quả thi của học sinh, chính vì thế mà nhiều
giáo viên đành chọn giải pháp “dạy chay”, miễn sao có thể dạy hết giáo án, cung
cấp nhiều kiến thức giáo khoa cho học sinh nhất. Học sinh thì bị “quá tải” về
kiến thức hàn lâm, không hiểu bài, chán nản nên học trước quên sau, nhầm lẫn
sự kiện lung tung. Để đảm bảo chất lượng bộ môn giáo viên phải tăng cường trả
bài học sinh: từ trả bài miệng, trả bài giấy đến kiểm tra 15 phút nhiều lần, nhiều
đợt… Điều đó khiến tiết học Sử trở nên nặng nề, áp lực. Nhiều học sinh “đón”
tiết học Sử với sự căng thẳng giống như người “sắp bị đưa ra chiến trường”.
Trong 05 năm trở lại đây việc đổi mới hình thức kiểm tra - đánh giá đã
được Bộ Giáo dục đề cập đến khá nhiều. Bộ và các Sở Giáo dục đều đưa ra định
hướng phải ra đề theo hướng mở gắn với thời sự quê hương, đất nước, cho học

sinh cơ hội bày tỏ quan điểm, chính kiến. Đây là một định hướng hay mang tính
khoa học phù hợp với yêu cầu thời đại. Tuy nhiên trong các đề thi của Bộ, của
Sở và Phòng giáo dục riêng đối với môn Lịch sử tỉ lệ điểm của câu hỏi “mở” so
với câu hỏi học thuộc lòng vẫn còn khiêm tốn. Do vậy giáo viên bộ môn vẫn

8


chưa dám mạnh mẽ đổi mới cách kiểm tra, đánh giá học sinh tại lớp, chưa dám
đổi mới cách dạy truyền thống để đưa thêm những kiến thức thực tiễn vào bài.
Từ những nguyên nhân và thực trạng nêu trên là một giáo viên dạy Sử tôi
rất mong có thể góp phần cải thiện chất lượng bộ môn, biến những mốc lịch sử
khô khan từ trong sách trở thành những câu truyện gần gũi, giản dị, dễ ghi dễ
nhớ từ đó tạo được cảm hứng cho học sinh, giúp học sinh yêu thích Lịch Sử
hơn. Đó là lý do tôi chọn đề tài của mình là “Góp thêm vài phương pháp dạy học
để nâng cao vị thế và sức hấp dẫn của bộ môn Lịch sử ở trường THCS”.
7.1.2. Cơ sở lí thuyết.
Việc học tập Lịch sử, cũng như học tập bất cứ bộ môn nào ở nhà trường
đều nhằm cung cấp kiến thức khoa học, hình thành thế giới quan khoa học,
phẩm chất đạo đức chính trị cho học sinh.
Trong những năm qua khi thực hiện chương trình thay sách giáo khoa,
việc đổi mới phương pháp dạy học đã được nhiều người quan tâm và khẳng định
vai trò quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học trong việc nâng cao
chất lượng dạy học.. Bộ môn Lịch sử cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ
sở của khoa học lịch sử, nên đòi hỏi học sinh không chỉ nhớ mà còn phải hiểu và
vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Cho nên, cùng với các môn học khác,
việc học tập Lịch sử đòi hỏi phát triển tư duy, thông minh, sáng tạo. Đã có quan
niệm sai lầm cho rằng học Lịch sử chỉ cần học thuộc lòng sách giáo khoa, ghi
nhớ các sự kiện - hiện tượng lịch sử là đạt, không cần phải tư duy - động não,
không có bài tập thực hành,… Đây là một trong những nguyên nhân làm suy

giảm chất lượng môn học.
Điều quan trọng nhất trong trong việc đổi mới phương pháp dạy học là
thầy dạy thế nào để học sinh động não, làm thay đổi chất lượng hoạt động trí tuệ
của học sinh, làm phát triển trí thông minh, trí sáng tạo của các em. Hiện nay,
trong quá trình dạy học trên lớp, hoạt động trí tuệ chủ yếu của học sinh là ghi
nhớ và tái hiện. Ở nhà, học sinh tự học dưới dạng học bài và làm bài…nhưng về
9


căn bản đã được hướng dẫn ở lớp, nên hoạt động trí tuệ của học sinh vẫn nặng
về rèn luyện trí nhớ và khả năng tái hiện. Như vậy, rèn luyện năng lực tư duy,
khả năng tưởng tượng, sáng tạo phát triển trí tuệ, trí thông minh…của học sinh
nói chung, được xem là nhiệm vụ chủ yếu, nhiệm vụ quan trọng nhất của quá
trình dạy học hiện đại. Vì vậy, then chốt của việc đổi mới phương pháp dạy học
là điều chỉnh mối quan hệ giữa tái hiện và sáng tạo, đến việc tăng cường các
phương pháp sáng tạo nhằm đổi mới tính chất hoạt động nhận thức của học sinh
trong quá trình dạy học.
7.1.3. Các giải pháp cụ thể:
“Vận dụng sáng tạo các phương pháp dạy học nhằm tăng sự hứng thú
của học sinh trong mỗi bài học Lịch Sử ở trường THCS” mà tôi đưa ra giúp
học sinh tạo thói quen học tập tích cực, nhớ bài tốt hơn, hiểu bài sâu hơn và có
thêm nhiều kiến thức thực tiễn. Biết thu thập, so sánh, xử lí các thông tin để tìm
ra kiến thức mới và giúp khắc sâu kiến thức cho học sinh, mang lại sự hứng thú
trong học tập bộ môn, giúp học sinh yêu thích lịch sử hơn và có thể ứng dụng
các kiến thức đã học vào cuộc sống và chắc chắn hiệu quả học tập cũng như
chất lượng bộ môn sẽ được nâng lên.
Mỗi một môn học hay một tiết học giáo viên có rất nhiều phương pháp
giảng dạy khác nhau để truyền tải kiến thức đến cho học sinh. Tuy nhiên với đề
tài này người viết chỉ xin được trình bày, giới thiệu một số phương pháp - kỹ
thuật mới của mình.

7.1.3.1. Phương pháp dạy học nêu vấn đề:
Dạy học nêu vấn đề là phương pháp mà trong đó giáo viên tạo ra những
“tình huống có vấn đề”, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác,
tích cực, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề và thông qua đó chiếm lĩnh tri
thức, rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập khác.
Có nhiều cách để tạo ra “tình huống có vấn đề”, có thể kể đến những cách
dễ thực hiện như: Dự đoán qua quan sát trực quan, thực hành hoặc hoạt động
10


thực tiễn (giáo viên đưa ra một số hình ảnh trực quan, đoạn clip về một sự kiện,
hiện tượng sau đó đặt câu hỏi cho học sinh.
Ví dụ khi dạy Lịch sử 6, bài 3: “Xã hội nguyên thủy” giáo viên cho học
sinh xem hình vượn cổ, người tối cổ, người tinh khôn, hình công cụ đá cũ, đá
mới, hình hang động, mái đá, cư trú “nhà cửa”, bầy người nguyên thủy và tổ
chức thị tộc, bộ lạc…, sau đó đề nghị học sinh dự đoán người nguyên thủy đã
trải qua mấy giai đoạn tiến hóa và sự tiến hóa của họ thể hiện trong những lĩnh
vực nào? Học sinh dựa vào các hình ảnh để thảo luận với nhau rồi đưa ra các
câu trả lời, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài để rút ra kết luận chính
xác nhất. Đây là cách dạy mới, nếu chỉ đơn điệu theo lối đàm thoại, vấn đáp thì
học sinh rất chán mà phải kết hợp với hình ảnh, tư liệu liên quan đến bài dạy sẽ
giúp các em hứng thú học tập, yêu thích bộ môn hơn.
Để vận dụng có hiệu quả phương pháp dạy học này giáo viên cần nắm
được đặc điểm của lớp (về trình độ nhận thức, kỹ năng), từ đó xây dựng nên hệ
thống câu hỏi vừa sức, phù hợp. Giáo viên cũng cần có sự linh hoạt, uyển
chuyển trong quá trình dẫn dắt học sinh giải quyết vấn đề, tránh trường hợp học
sinh lạc đề, làm mất nhiều thời gian.
7.1.3.2. Phương pháp tích hợp liên môn.
Trong thực tế, việc vận dụng nguyên tắc dạy học liên môn đối với môn
Lịch sử ở trường THCS đã được một số giáo viên tiến hành làm, song hiệu quả

chưa cao, quá trình thực hiện còn trùng lặp, gây mất thời gian học tập, gây tình
trạng nặng nề, quá tải cho học sinh. Một số giáo viên lại “quên” mất việc vận
dụng nguyên tắc này, khiến giờ học kém phần hấp dẫn.
Với thực trạng hiện nay, tôi nhận thấy dạy học liên môn là một trong
những nguyên tắc quan trọng của dạy học Lịch sử ở trường phổ thông, nó giúp
cho chúng ta nhận thức được sự phát triển của xã hội một cách liên tục, thống
nhất, thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực cuộc sống xã hội, hiểu
được tính toàn diện của lịch sử, khắc phục được tính rời rạc, tản mạn trong kiến
11


thức của học sinh. Nắm được mối quan hệ kiến thức giữa các môn học, tính hệ
thống của các tri thức lịch sử sẽ giúp các em có khả năng phân tích các sự kiện,
tìm ra bản chất, quy luật phát triển của lịch sử.
Vì vậy, việc dạy học liên môn trong Lịch sử đòi hỏi người Giáo viên
không chỉ có những kiến thức vững chắc về bộ môn Lịch sử mà còn phải nắm
những nội dung, chương trình các bộ môn được giảng dạy ở trường phổ thông
(có kiến thức cơ bản về môn được tích hợp). Tích hợp linh hoạt, nhẹ nhàng,
đúng địa chỉ - không làm nặng nề hoặc rối tiết học. Tránh biến môn Lịch sử
thành môn Ngữ văn hay các môn khác.
Ví dụ: Vận dụng kiến thức Văn học.
Khi dạy Lịch sử 7 ở mục 2. Văn học (Phần II: Sự phát triển văn hóa của
bài 15: Sự phát triển kinh tế và văn hóa thời Trần). Giáo viên giúp học sinh vận
dụng các tác phẩm văn học như: “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Phú
sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu, “Phò giá về kinh” của Trần Quang Khải
… để làm phong phú thêm bài học. Sau đó giáo viên nhấn mạnh:
Trần Quốc Tuấn viết “Hịch tướng sĩ”. Đây là bản anh hùng ca sáng ngời
chí khí hào hùng, chí khí anh hùng của Đại Việt trong triều đại nhà Trần. Bài
hịch đã vạch trần âm mưu xâm lược của giặc Mông - Nguyên, thể hiện lòng căm
thù giặc sôi sục, nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng, sẵn sàng xả thân trên

chiến địa để bảo vệ sơn hà xã tắc.
Trương Hán Siêu viết “Phú sông Bạch Đằng” thể hiện lòng yêu nước và
niềm tự hào dân tộc của tác giả trước những chiến thắng lẫy lừng của quân dân
nhà Trần trên sông Bạch Đằng năm 1288, đồng thời ca ngợi truyền thống anh
hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam. Thông qua việc đề cao vai trò và vị trí của
con người trong lịch sử, đề cao đạo lí chính nghĩa, tác phẩm chứa đựng tư tưởng
nhân văn sâu sắc.
Đối với bài “Phò giá về kinh” của Trần Quang Khải, học sinh được học ở
môn Ngữ văn 7, nên giáo viên gợi cho học sinh dựa vào kiến thức văn học đã học
12


để nêu lên nội dung của tác phẩm này. Sau đó giáo viên nhấn mạnh: Với cách nói
giản dị, cô đúc của bài thơ có tác dụng thể hiện hào khí chiến thắng và khát vọng
hòa bình của dân tộc ta ở thời nhà Trần. Làm nên chất thơ chính là cảm xúc tự
hào, vui mừng về chiến công hiển hách của dân tộc, là hào khí của thời đại nhà
Trần và niềm tin vào một nền thái bình vững chắc. Những cảm xúc ấy được ẩn
chứa trong cách nói chắc nịch, ngăn gọn của thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt, không hoa
mĩ, cầu kì. Đây cũng là vẻ đẹp độc đáo của bài thơ mà tác giả là một vị tướng.
Ví dụ: Khi dạy Lịch sử 7 ở mục 2. Cuộc chiến đấu trên phòng tuyến
sông Như Nguyệt (Phần II. Giai đoạn thứ hai (1076 - 1077) của bài 11: Cuộc
kháng chiến chống quân xâm lược Tống (1075 - 1077)). Giáo viên cho học sinh
đọc bài thơ “Nam quốc sơn hà” (Sông núi nước Nam) của Lí Thường Kiệt. HS
dựa vào kiến thức Văn học để nêu nội dung và ý nghĩa bài thơ. Sau đó giáo viên
nhấn mạnh: Theo tương truyền để khích lệ tinh thần chiến đấu của quân ta, đồng
thời làm khiếp đảm tinh thần quân Tống, đêm đêm Lý Thường Kiệt cho người
vào đền Xà - nơi thờ Trương Hống, Trương Hát (2 vị tướng của Triệu Quang
Phục) trên bờ sông Như Nguyệt ngâm bài thơ “Nam quốc sơn hà” (Sông núi
nước Nam). Chính bài thơ đã kích động tinh thần yêu nước thành sức mạnh
chiến đấu trực tiếp diệt thù và đồng thời làm cho giặc càng nhụt ý chí chiến đấu

hơn. Bài thơ đã khẳng định chủ quyền về biên giới của Tổ quốc và ý chí quyết
tâm đánh giặc xâm lược để bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc. Bài
thơ là lời tuyên ngôn hùng hồn của dân tộc. Kẻ thù nào dám xâm phạm sẽ bị
đánh tơi bời. Bài thơ còn được coi như bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân
tộc ta.
Ví dụ: Khi dạy Lịch sử 9 mục 2. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ
(Phần II: Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954 và chiến dịch lịch
sử Điện Biên Phủ, của bài 27: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp
xâm lược kết thúc (1953-1954). Giáo viên có thể sử dụng các tác phẩm văn học
“Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” (Tố Hữu) và trích dẫn 2 câu thơ sau để khắc sâu
về hình ảnh chiến đấu dũng cảm, gan dạ của các chiến sĩ Điện Biên đó là:
13


“ Khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn”
Ví dụ: Vận dụng kiến thức Địa lí.
Hai môn Địa Lí và Lịch Sử đều có những nội dung thuộc nhóm Khoa học
xã hội nhân văn, đều nghiên cứu những vấn đề của con người, xem xét các mối
quan hệ mang tính qui luật trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, tuy rằng mỗi môn học
có mục tiêu riêng (Lịch sử chú ý đến quá trình hình thành và phát triển của xã
hội, trong khi đó địa lí chú ý đến tính không gian lãnh thổ của các sự vật hiện
tượng đang diễn ra hiện nay). Tuy vậy, giữa chúng có mối quan hệ tác động qua
lại với nhau bởi các sự kiện lịch sử bao giờ cũng diễn ra trong một khoảng
không gian nhất định với các điều kiện cụ thể, trong đó có các điều kiện địa lí.
Lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc (kể cả phần lịch sử địa phương) đều gắn với
những điều kiện tự nhiên mà con người sinh sống, cho nên khi học tập lịch sử xã
hội phải phân tích đến các yếu tố của môi trường tự nhiên và thông qua nội dung
lịch sử để hiểu rõ hơn môi trường tự nhiên và thực hiện giáo dục môi trường.
Ví dụ: Khi dạy Lịch sử 6 ở mục 1. Các quốc gia cổ đại phương Đông

được hình thành ở đâu và từ bao giờ của bài 4 Các quốc gia cổ đại phương
Đông. học sinh sẽ biết được vai trò của các con sông đối với sự phát triển của khu
vực này. Do nằm ven các con sông lớn: Trung Quốc có sông Hoàng Hà và Trường
Giang, Ai Cập có sông Nin, Ấn Độ có sông Ấn và sông Hằng…Các con sông đã
cung cấp phù sa, mặt khác đem lại nguồn nước tưới tiêu cho đồng ruộng. Chính vì
vậy, đất đai ở đây tơi xốp màu mỡ, tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển. Điều
này lí giải tại sao nhà nước ra đời sớm ở các quốc gia phương Đông cổ đại, mặt
khác tại sao ở đây lại có nền văn minh ra đời sớm nhất trên thế giới.
Ví dụ: Khi dạy Lịch sử 7 ở mục 1. Kháng chiến bùng nổ (Phần II. Giai
đoạn thứ hai (1076-1077) của bài 11: Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Tống (1075 - 1077)). Để trả lời cho câu hỏi (?) Tại sao Lý Thường Kiệt lại chọn
sông Như Nguyệt làm phòng tuyến chống quân xâm lược Tống? Giáo viên gợi
14


cho học sinh dựa vào kiến thức địa lí để trình bày về vị trí địa lí và đặc điểm của
sông Như Nguyệt, rồi nhấn mạnh. Sông Cầu bắt nguồn từ Bắc Kạn đổ ra Lục
Đầu Giang ở Phả Lại (Chí Linh - Hải Dương). Từ vùng Đông Bắc về tới Thăng
Long tất cả các đường bộ đều phải vượt qua sông Cầu. Đường thủy từ Bạch
Đằng về Thiên Đức, Thăng Long cũng phải qua đây, trong đó vùng thượng lưu
con sông này rất hiểm trở. Khúc sông từ Thái Nguyên đến Đa Phúc có thể qua
lại được nhưng khi sang sông lại gặp phải dãy núi Tam Đảo khó vượt qua. Như
vậy chỉ còn khúc sông từ Đa Phúc đến Phả Lại dài khoảng 100km, nhất là đoạn
từ ngã ba Xà (nơi sông Cà Lồ gặp Sông Cầu) trở xuống (tức sông Như Nguyệt)
là có thể qua lại dễ dàng vì có bến đò, có đường bộ về Thăng Long. Vì vậy Lý
Thường Kiệt chọn đây là nơi xây dựng phòng tuyến.
Ví dụ: Vận dụng kiến thức Giáo dục công dân.
Với yêu cầu đặc trưng là giúp học sinh hiểu rõ từng thời kì phát triển của
xã hội để có những nhận thức thức lịch sử đúng đắn, bộ môn Lịch sử có thể tích
hợp nhiều nội dung, chủ đề giáo dục của môn Giáo dục công dân. Cụ thể như

nội dung về đức tính (Sống giản dị; đoàn kết, tương trợ; siêng năng, kiên trì; chí
công vô tư. Từ đó lồng ghép giáo dục thông qua gương sáng của Bác Hồ, các
nhân vật lịch sử). Nội dung về lòng biết ơn với những người có công với nước,
noi gương các anh hùng tuổi thanh niên sẵn sàng xã thân vì nước. Nội dung kế
thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Bảo vệ di sản văn hóa, di tích
lịch sử, nghĩa vụ bảo vệ Tổ Quốc. Qua đó học sinh hiểu được bổn phận và trách
nhiệm cụ thể của công dân hiện nay. Nội dung về tôn trọng và học hỏi các dân
tộc khác, Bảo vệ hòa bình, Tình hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới, Hợp tác
cùng phát triển. Qua đó học sinh hiểu được truyền thống yêu chuộng hòa bình
của dân tộc và chủ trương hội nhập, hợp tác quốc tế của Đảng hiện nay.
Ví dụ: Khi dạy Lịch sử 7 ở mục 1. Đời sống văn hóa. (Phần II: Sự phát
triển văn hóa của bài 15: Sự phát triển kinh tế và văn hóa thời Trần). Khi nói về
nội dung lối sống của nhân dân thời Trần, Giáo viên hỏi (?) Em có nhận xét gì
về lối sống của nhân dân thời Trần? HS kết hợp kiến thức Giáo dục công dân để
15


trả lời: Nhân dân thời Trần có tập quán sống giản dị như đi chân đất, áo quần
đơn giản rất phổ biến. Nhưng ẩn bên trong sự giản dị đó là một dân tộc giàu tinh
thần thượng võ, yêu quê hương đất nước tha thiết và trọng nghĩa tình.
Ví dụ: Vận dụng kiến thức Mĩ thuật.
Một hình ảnh nghệ thuật như tác phẩm hội họa, kiến trúc, điêu khắc, tranh
ảnh … được sử dụng hợp lí sẽ giúp học sinh tiếp nhận kiến thức sâu sắc hơn và
việc học Lịch Sử sẽ hứng thú hơn. Ngày nay, với sự hỗ trợ của công nghệ thông
tin, giáo viên trình chiếu kênh hình sẽ có ưu thế hơn vì học sinh được trực quan
với hình ảnh rõ, kích thước lớn, màu sắc sinh động và ấn tượng hơn.
Ví dụ: Khi dạy Lịch sử 7 ở mục 4. Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc.
(Phần II: Sự phát triển văn hóa của bài 15: Sự phát triển kinh tế và văn hóa thời
Trần).
HS dựa vào kiến thức Mĩ thuật lớp 7 để giới thiệu những nét độc đáo của

chùa Phổ Minh, thành Tây Đô, Tháp Bình Sơn (Sông Lô - Vĩnh Phúc), so sánh
sự khác nhau giữa Rồng thời Trần với Rồng thời Lý.
Chùa Phổ Minh (Nam Định) có nhà thủy tạ để lễ hội, có đỉnh đồng nặng
hơn 1000 cân, ngoài chùa có dựng tòa tháp 14 tầng, cao hơn 20 mét….
Thành Tây Đô có tường cao gần 6 mét, được xây dựng bằng những khối
đá lớn. Thành có 3 cổng chính, được xây theo kiểu vòm cuốn; xung quanh có
hào sâu, cống ngầm thông trong ngoài. Phía trong thành là cung điện và dinh thự
các quan.
Tháp Bình Sơn được xây dựng từ thời nhà Lý và được tu bổ ở thời Trần.
Đây là 1 công trình kiến trúc độc đáo mang đậm nét văn hóa của 2 thời Lý Trần. Tháp tương truyền có 15 tầng, hiện nay còn 11 tầng và 1 tầng bệ. Tháp cao
16,5 mét, được xây bằng 13.200 viên gạch nung …
Rồng Lý: Mình trơn, toàn thân uốn khúc, uyển chuyển như một ngọn lủa
=> thể hiện khoảng cách vua - tôi không xa.
16


Rồng Trần: Mình có vảy, có sừng uy nghiêm, thân rồng thường mập mạp,
tư thế vươn về phía trước, răng nanh ra phía trước khá lớn, miệng há rộng, có
lúc ngậm quả cầu lửa…
Ví dụ: Khi dạy Lịch sử 8 ở mục 1. Phong trào đập phá máy móc và
bãi công (Phần I. Phong trào công nhân nửa đầu thế kỉ XIX của bài Bài 4:
Phong trào công nhân và sự ra đời của Chủ nghĩa Mác), giáo viên cho học
sinh xem bức ảnh “ Lao động trẻ em trong hầm mỏ ở Anh”. Giáo viên đưa ra
câu hỏi cho học sinh thảo luận: Vì sao giới chủ lại thích sử dụng lao động trẻ
em? Liên hệ với trẻ em ngày nay, công ước về quyền trẻ em… Từ đó thấy được
tính ưu việt của chế độ ta. Đồng thời liên hệ ngay ở địa phương: Một số trẻ em
chưa đến tuổi lao động cũng đã bỏ học đi làm và bị bóc lột sức lao động mà
không biết.
Ví dụ: Vận dụng kiến thức Âm nhạc.
Các tác phẩm âm nhạc trong chương trình có tác dụng minh họa kiến thức

lịch sử một cách cụ thể bởi nhiều tác phẩm được sáng tác trong chính thời kì đó.
Đặc biệt thông qua ca từ và âm nhạc sẽ có sức lay động lớn đến tâm tư, tình
cảm, nhận thức của người học, giúp học sinh hình dung một cách cụ thể, sinh
động các giai đoạn lịch sử.
Ví dụ: Khi dạy Lịch sử 9 ở mục 2. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ
(Phần II: Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954 và chiến dịch lịch
sử Điện Biên Phủ, của bài 27: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp
xâm lược kết thúc (1953-1954). Lúc nói về sự chuẩn bị cho chiến dịch Điện
Biên Phủ, giáo viên cho học sinh nghe bài hát “Hò kéo pháo” của nhạc sĩ
Hoàng Vân để học sinh thấy được lòng quyết tâm vượt qua khó khăn và sự hi
sinh anh dũng của các chiến sĩ Điện Biên Phủ. (Bài “Hò kéo pháo” học sinh đã
được học trong môn Âm nhạc lớp 8 nên trước khi cho học sinh nghe giáo viên
có thể gọi học sinh đọc hoặc hát lại bài hát này, hoặc hỏi về hoàn cảnh sáng tác
cũng như nêu cảm nhận về bài hát…)
17


Ngoài ra giáo viên có thể cho học sinh nghe lời bài hát “Hành quân xa”
của nhạc sĩ Đỗ Nhuận, để học sinh thấy được lời bài hát ấy như một lời thầm thì,
động viên hàng triệu chiến sĩ Điện Biên anh hùng đào núi, mở hầm trong lòng
trận địa. "Hành quân xa dẫu có nhiều gian khổ. Vai vác nặng ta đã đổ mồ
hôi…”. Tác phẩm đã phản ảnh chân thực cuộc chiến tranh chính nghĩa, hào
hùng của nhân dân ta trong cuộc chiến Điện Biên Phủ nói riêng và kháng chiến
chống thực dân Pháp nói chung.
7.1.3.3. Phương pháp thuyết trình:
Trong phương pháp thuyết trình truyền thống, người thầy giữ vai trò trung
tâm còn học sinh tiếp nhận kiến thức một cách thụ động. Ngày nay với xu hướng
dạy học lấy học sinh làm trung tâm chúng ta có thể áp dụng phương pháp thuyết
trình theo một cách hoàn toàn mới: giáo viên là người đặt vấn đề, hướng dẫn học
sinh tìm hiểu, các em sẽ là người chủ động tìm tri thức, làm bài thuyết trình và

trình bày sản phẩm trí tuệ của mình trước mọi người. Tùy vào đối tượng học
sinh mà chúng ta có thể linh hoạt sử dụng các kiểu thuyết trình. Đối với đối
tượng học sinh khá-giỏi, giáo viên có thể phân công từng cá nhân hoặc chia
nhóm học sinh và giao nhiệm vụ, chủ đề cho các em về nhà tìm hiểu và làm bài
thuyết trình. Nội dung thuyết trình có thể linh hoạt, đa dạng như: thuyết trình
theo kiểu tái hiện, tường thuật lại một sự kiện nào đó: ví dụ: thuyết trình về cuộc
kháng chiến chống Tống thời Lý, cuộc kháng chiến chống quân Thanh…; thuyết
trình theo kiểu giải quyết một vấn đề mà giáo viên đưa ra ví dụ thuyết trình lý do
vì sao văn hóa cổ đại phương Tây phát triển hơn phương Đông.. ; thuyết trình
theo kiểu phân tích, tổng hợp: ví dụ thuyết trình về nguyên nhân Bác Hồ phải ra
đi tìm đường cứu nước….; thuyết trình theo kiểu so sánh: ví dụ so sánh khuynh
hướng cứu nước của cụ Phan Bội Châu và cụ Phan Châu Trinh…. Đối với đối
tượng học sinh trung bình, giáo viên có thể rèn luyện cho các em kỹ năng tìm tài
liệu, xây dựng bài thuyết trình đơn giản với nội dung thuyết trình là tường thuật
về một sự kiện trọng tâm. Khi áp dụng phương pháp thuyết trình theo cách mới,
phát huy tính tích cực của người học, giáo viên sẽ rèn được cho học sinh rất
18


nhiều kỹ năng cần thiết: kỹ năng đọc và thu thập tài liệu, kỹ năng làm bài thuyết
trình (word, power point), kỹ năng nhận xét, phản biện…
7.1.3.4. Phương pháp “động não”:
“Động não” là phương pháp mà trong đó giáo viên đặt câu hỏi, tình huống
khiến học sinh phải tư duy nhanh, trong thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý
tưởng, giải pháp để xử lý. Với phương pháp này người thầy nêu câu hỏi, tình
huống trước lớp và khuyến khích học sinh phát biểu, đóng góp ý kiến càng
nhiều càng tốt. Sau đó giáo viên và học sinh sẽ cùng phân tích các ý kiến, qua đó
học sinh sẽ tìm được tri thức cần thiết. Phương pháp này có thể áp dụng cho đối
tượng học sinh khá-giỏi khi tìm hiểu những nội dung trọng tâm của bài, chủ đề.
Ví dụ khi giảng Lịch sử 6, bài 3: Xã hội nguyên thủy phần “Con người

đã xuất hiện như thế nào” giáo viên có thể đặt câu hỏi “Theo em vì sao loài
vượn cổ ngày xưa có thể tiến hóa thành người mà loài vượn ngày nay không
thể?”. Phương pháp động não có thể tạo nên sự sinh động, thú vị cho tiết học Sử
giúp học sinh phát huy được khả năng tư duy sáng tạo, qua đó rèn luyện được kỹ
năng suy nghĩ linh hoạt, đề ra giải pháp cho các tình huống mới nảy sinh. Để
thực hiện phương pháp này có hiệu quả giáo viên cần có kiến thức chuyên môn
và kiến thức xã hội sâu rộng, phát hiện ra được những “điểm nhấn” thú vị của
nội dung bài học, chuẩn bị được những câu hỏi hay vừa tầm với sự hiểu biết và
khả năng nhận thức của các em, kích thích được các em tư duy để tìm ra giải
pháp mới.

7.1.3.5. Phương pháp “đóng vai”:
Đây là phương pháp mà giáo viên đưa ra một tình huống Lịch sử và đề
nghị học sinh “đóng vai” một nhân vật trong tình huống đó để đưa ra cách giải
quyết. Phương pháp này có thể được áp dụng trên mọi đối tượng học sinh trong
tiết dạy. Nội dung để học sinh “đóng vai” giải quyết cũng khá đa dạng: là một vị
tướng để đưa ra cách đánh trong một trận chiến; là lãnh đạo để đưa ra giải pháp
19


cho đất nước trong một tình huống khó khăn (khủng hoảng kinh tế, mâu thuẫn
xã hội hay có chiến tranh…). Phương pháp đóng vai có mối liên hệ mật thiết với
phương pháp “nêu vấn đề” và phương pháp “động não”, buộc học sinh phải đặt
mình vào tình huống mà giáo viên đưa ra để suy nghĩ và đưa ra giải pháp giải
quyết vấn đề. Trong tiết giảng giáo viên có thể chọn một nội dung trọng tâm nào
đó để đặt thành “tình huống có vấn đề” buộc học sinh phải suy nghĩ. Ví dụ dạy
Lịch sử 7, bài 25 “Phong trào Tây Sơn” khi nói đến trận đánh quân Xiêm ở
Rạch Gầm-Xoài Mút giáo viên có thể cho các em xem phim tư liệu về địa thế
Rạch Gầm-Xoài Mút, sau đó hỏi các em “Nếu em là anh hùng Nguyễn Huệ em
sẽ bố trí trận địa như thế nào, dùng cách gì để đánh quân Xiêm?”. Đối với hoạt

động ngoại khóa giáo viên có thể tổ chức một cuộc thi “Ứng phó nhanh” giữa
các nhóm trong một lớp hoặc giữa các đội thi của các lớp khác nhau. Trong cuộc
thi này giáo viên sẽ cho học sinh tái hiện lại một sự kiện nào đó trong Lịch sử
rồi đặt tình huống cho các đội dự thi giải quyết. Phương pháp đóng vai áp dụng
cho các tiết học ngoại khóa, có trang bị đạo cụ, trang phục, sẽ khiến cho tiết học
Lịch sử trở nên thú vị, hấp dẫn kích thích tư duy năng động, sáng tạo của học
sinh qua đó rèn cho các em được nhiều kỹ năng như kỹ năng xử lý tình huống,
kỹ năng diễn đạt suy nghĩ bằng ngôn ngữ, cử chỉ…
Trên đây là những phương pháp giảng dạy tích cực mà tôi nhận thấy có
thể ứng dụng rộng rãi khi giảng dạy bộ môn. Mỗi phương pháp nếu được áp
dụng phù hợp, đúng lúc sẽ kích thích tư duy sáng tạo, sự chủ động tìm kiếm tri
thức cho học sinh, qua đó rèn cho các em kỹ năng tự học, kỹ năng xử lý tình
huống và nhiều kỹ năng sống khác.
Khi triển khai một phương pháp giảng dạy, chúng ta cần sự hỗ trợ của
nhiều kỹ thuật dạy học khác nhau. Các kỹ thuật dạy này có thể kết hợp với nhau
để cùng tạo nên hiệu quả tốt nhất cho bài giảng. Dưới đây là một số kỹ thuật dạy
học có thể ứng dụng rất tốt cho việc giảng dạy bộ môn.
7.1.3.6. Kỹ thuật chia nhóm - Kỹ thuật chia sẻ nhóm đôi: Trong xu
hướng “toàn cầu hóa” hiện nay một trong các kỹ năng cần phải trang bị cho học
20


sinh là kỹ năng làm việc nhóm. Khi tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm giáo
viên nên sử dụng nhiều cách chia nhóm khác nhau để tạo nên sự mới mẻ gây
hứng thú cho học sinh, đồng thời giúp các em có cơ hội hợp tác, giao lưu với
nhiều bạn khác nhau trong lớp. Đối với những nội dung câu hỏi cần “động não”
nhưng không quá phức tạp hoặc trong điều kiện không gian không thuận lợi cho
hoạt động nhóm đông, giáo viên có thể cho học sinh trao đổi nhanh với bạn ngồi
cạnh (kỹ thuật chia sẻ nhóm đôi). Sự khéo léo, tinh tế của giáo viên trong việc
chia nhóm học sinh có ảnh hưởng lớn đến chất lượng hoạt động nhóm và hiệu

quả công việc. Một nhóm làm việc ăn ý, hiểu nhau sẽ giúp các em phát huy tốt
nhất năng suất làm việc, tư duy chủ động, sáng tạo và rèn luyện được kỹ năng
hợp tác với mọi người.
7.1.3.7. Kỹ thuật giao nhiệm vụ: Song hành với kỹ thuật chia nhóm là kỹ
thuật giao nhiệm vụ. Đây cũng là một khâu quan trọng tác động không nhỏ đến
chất lượng hoạt động nhóm của học sinh và hiệu quả tiết dạy của giáo viên. Khi
cho học sinh làm việc nhóm (thảo luận để trả lời câu hỏi hay thuyết trình về một
vấn đề) giáo viên cần lưu ý đến khâu giao nhiệm vụ cho học sinh: nhiệm vụ là
gì? giao cho nhóm nào?cá nhân ai, thời gian thực hiện bao lâu, sản phẩm cần đạt
được những tiêu chuẩn nào? Đặc biệt giáo viên cần lưu ý giao nhiệm vụ phù hợp
với năng lực, trình độ của học sinh, điều kiện cơ sở vật chất hỗ trợ cho học sinh
thực hiện nhiệm vụ. Khi giao nhiệm vụ rõ ràng đúng người, đúng việc, học sinh
sẽ có định hướng và hoạt động có kế hoạch, sản phẩm mà các em làm ra cũng
đạt yêu cầu và có chất lượng hơn. Đây cũng là một cách rèn kỹ năng cho học
sinh để các em phát huy vai trò lãnh đạo, điều hành công việc tập thể và kỹ năng
hợp tác.
7.1.3.8. Kỹ thuật đặt câu hỏi - Kỹ thuật hỏi và trả lời: Khi giảng dạy ở tất
cả các bộ môn để tương tác với học sinh hoặc để giao nhiệm vụ cho học sinh
giáo viên thường phải đặt rất nhiều câu hỏi. Việc đặt câu hỏi không chỉ để thu
thập thông tin mà còn là để khơi gợi sự hứng thú tìm hiểu kiến thức, gợi mở, dẫn
dắt tư duy của học sinh giúp các em chủ động học tập và nắm vững kiến thức
21


hơn, câu hỏi còn là để kiểm tra mức độ, khả năng nhận thức của học sinh qua đó
giúp cho giáo viên điều chỉnh phương pháp giảng dạy. Chính vì thế các câu hỏi
của giáo viên phải thật sự chất lượng, “vừa sức” với học sinh và phải có tính hấp
dẫn, tính khoa học và tính lo-gic. Và đương nhiên để xây dựng một hệ thống câu
hỏi tốt là điều không dễ dàng, nó đòi hỏi giáo viên phải có chuyên môn vững
vàng, bên cạnh đó phải có kiến thức xã hội phong phú và kỹ năng ứng xử, xử lý

tình huống...
7.1.3.9. Kỹ thuật động não - Kỹ thuật tia chớp: Hai kỹ thuật dạy học này
có liên quan mật thiết đến phương pháp “động não” và gắn liền với Kỹ thuật đặt
câu hỏi. Hai kỹ thuật này đều nhằm kích thích sự tư duy của học sinh để giải
quyết một vấn đề nào đó mà giáo viên đặt ra trong quá trình giảng bài. Điểm
khác nhau giữa hai phương pháp là về mặt thời gian: kỹ thuật tia chớp đòi hỏi
học sinh đưa ra các ý kiến cho một vấn đề trong thời gian rất ngắn (nhanh như
tia chớp) còn kỹ thuật “động não” cho phép học sinh suy nghĩ trong thời gian dài
hơn. Hai kỹ thuật này có thể được áp dụng thường xuyên ở đa số các nội dung
của bài giảng. Tùy theo mức độ khó, phức tạp của câu hỏi mà giáo viên có thể
linh hoạt dùng kỹ thuật động não hay kỹ thuật tia chớp (ví dụ, giáo viên hỏi học
sinh “Theo em, động lực nào thúc đẩy sự tiến hóa của con người?” học sinh cần
vận dụng nhiều kiến thức để suy luận nên thời gian suy nghĩ phải nhiều hơn (kỹ
thuật “động não”); còn câu hỏi “Theo em đồ kim loại sẽ tác động như thế nào
đến sản xuất của người nguyên thủy?” học sinh có thể trả lời ngay nên thời gian
suy nghĩ sẽ ít hơn (kỹ thuật tia chớp). Hai kỹ thuật này thường được sử dụng
trong quá trình giảng dạy. Tuy nhiên giáo viên có thể linh hoạt sử dụng hai kỹ
thuật này để thiết kế thành “trò chơi nhỏ” để dẫn nhập vào bài và củng cố kiến
thức cuối bài (ví dụ như xem hình ảnh và đoán nội dung bài sẽ học, chơi trò chơi
ô chữ về những nội dung vừa được học trong tiết. Để hai kỹ thuật này được vận
dụng hiệu quả giáo viên cần nắm vững kỹ thuật đặt câu hỏi và có kỹ năng thành
thạo trong kỹ thuật này.

22


7.1.3.10. Kỹ thuật tranh luận ủng hộ - phản đối: Đây là một kỹ thuật
được ứng dụng trong hoạt động nhóm, đề cập đến chủ đề có chứa đựng xung đột
hoặc có nhiều giải pháp cần chọn lựa. Các học sinh chọn giải pháp giống nhau
sẽ được xếp vào cùng một nhóm. Các nhóm sẽ tranh luận, phân tích để bảo vệ

quan điểm của mình và phản đối ý kiến đối phương. Kết quả của quá trình tranh
luận là tìm ra giải pháp khả thi nhất để giải quyết vấn đề được đặt ra. Ví dụ giáo
viên đặt ra vấn đề: Nhà Nguyễn nên “đóng cửa” hay “mở cửa” thì giữ nước tốt
hơn? Ưu điểm của kỹ thuật này là phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh,
rèn luyện cho học sinh kỹ năng suy nghĩ, lập luận lo-gic và xem xét vấn đề ở
nhiều góc độ khác nhau. Có điều kỹ thuật này có thể gây mất nhiều thời gian (vì
có thể học sinh đưa ra nhiều ý kiến khác nhau và diễn đạt ý kiến dài dòng) nên
giáo viên cần lưu ý điều hành thảo luận, dẫn dắt khéo léo và “kết” đúng lúc. Kỹ
thuật này có thể phát huy tác dụng tốt hơn khi giáo viên lựa chọn một vấn đề
trọng tâm nào đó trong chương trình học và tổ chức thành buổi hội thảo/thảo
luận ngoại khóa cho học sinh.
7.1.3.11. Kỹ thuật phân tích phim video: Phim video đặc biệt là phim tư
liệu là một trong những nguồn tài liệu quý, phục vụ rất tốt cho việc dạy học
môn Lịch sử. Khi đưa video vào bài giảng sự kiện Lịch sử sẽ trở nên gần gũi, dễ
hình dung và tiết học sẽ trở nên sinh động, lôi cuốn sự chú ý của người học. Tuy
nhiên nếu chỉ đưa phim tư liệu vào để minh họa cho bài giảng thì sẽ không phát
huy được tính tích cực, chủ động của học sinh và không khắc sâu kiến thức cho
các em được. Chính vì thế giáo viên cần áp dụng kỹ thuật phân tích phim video.
Trước khi học sinh xem phim giáo viên có thể định hướng bằng cách đặt ra câu
hỏi, liệt kê các điều mà học sinh cần chú ý khi xem phim. Sau khi xem phim
xong các em sẽ có 1-2 phút để thảo luận và trả lời câu hỏi. Giáo viên và học sinh
sẽ cùng phân tích các câu trả lời và “chốt” lại kiến thức “chuẩn” nhất. Với kỹ
thuật này học sinh sẽ được rèn luyện khả năng quan sát, ghi nhớ và khả năng
phân tích, nhìn nhận vấn đề ở những góc độ khác nhau. Một trong những ưu thế
để triển khai kỹ thuật này là nguồn phim Lịch sử trên mạng internet rất đa dạng,
23


phong phú và có nhiều phim có giá trị khoa học cao. Điều quan trọng là giáo
viên cần chọn lựa các phim video có chất lượng về cả kỹ thuật lẫn nội dung, thời

lượng phù hợp để phục vụ tốt nhất cho việc giảng dạy trên lớp. Với những bộ
phim dài có nội dung phù hợp, hay và chất lượng cao, giáo viên có thể linh hoạt
áp dụng kỹ thuật này để tổ chức cho học sinh học ngoại khóa. Ví dụ giáo viên tổ
chức cho các em xem và làm bài thu hoạch (với một số câu hỏi được cho trước
mang tính định hướng) về một bộ phim Lịch sử (về Chiến tranh thế giới thứ hai,
về trận Điện Biên Phủ năm 1954, về Cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân
1975…)
7.1.3.12. Kỹ thuật phòng tranh: Đây là một kỹ thuật thú vị, hấp dẫn đối
với học sinh cho phép các em phát huy trí tưởng tượng, khả năng hội họa và kỹ
năng thể hiện suy nghĩ thông qua hình ảnh. Để triển khai kỹ thuật này giáo viên
đặt ra cho nhóm học sinh một vấn đề nào đó cần phải giải quyết rồi đề nghị các
em thảo luận, thể hiện ý tưởng của mình qua hình ảnh, sơ đồ, lược đồ. Kỹ thuật
này có mối liên hệ, có đôi nét tương tự với kỹ thuật sơ đồ tư duy và phương
pháp “đóng vai”. Giáo viên có thể áp dụng kỹ thuật này khi củng cố kiến thức
cho học sinh (đề nghị học sinh tóm tắt lại nội dung bài đã học bằng sơ đồ hoặc
hình ảnh); khi cần khắc họa sự vật, hiện tượng, một chiến lược, một giải pháp
mang tính Lịch sử hoặc chân dung của một nhân vật Lịch sử nào đó (ví dụ giáo
viên mô tả địa thế căn cứ Điện Biên Phủ, địa thế Rạch Gầm - Xoài Mút và đề
nghị học sinh đề xuất chiến thuật để đánh giặc. Tất cả các ý tưởng của các em
đều sẽ được thể hiện trên giấy A0 (hoặc A1, A2) sau đó dán lên bảng hoặc quanh
lớp học để giáo viên và các nhóm sẽ đi tham quan “tranh” của nhau rồi nêu nhận
xét, kết luận. Kỹ thuật “phòng tranh” sẽ mang đến không khí mới mẻ, bất ngờ
cho giờ học Lịch sử. Tuy nhiên do kỹ thuật này mang tính “vừa học vừa chơi”
nên không thể vận dụng nhiều trong tiết học.
7.1.3.13. Kỹ thuật sơ đồ, lược đồ tư duy: Đây là một trong những kỹ thuật
được áp dụng rất nhiều trong hầu hết các bộ môn, nhằm thể hiện một ý tưởng, kế
hoạch hay những kiến thức đã nắm được một cách cô đọng, ấn tượng, rõ ràng và
24



×