Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN TẠI CÁC NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.66 KB, 19 trang )

TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
NGẮN HẠN TẠI CÁC NHTM
I.Tổng quan về tín dụng.
1. KHÁI NIỆM TÍN DỤNG
Tín dụng là một phạm trù kinh tế và nó cũng là sản phẩm của nền kinh tế
hàng hóa. Tín dụng ra đời, tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ tín
dụng được phát sinh ngay từ thời kỳ chế độ công xã nguyên thủy bắt đầu tan rã.
Khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất xuất hiện, cũng là đồng thời xuất hiện quan
hệ trao đổi hàng hóa. Thời kỳ này, tín dụng được thực hiện dưới hình thức vay
mượn bằng hiện vật - hàng hóa. Quan hệ tín dụng phát triển hết sức đa dạng và
phức tạp bắt đầu từ khi chế độ chủ nghĩa tư bản ra đời. Cho đến ngày nay các quan
hệ tín dụng đã phát triển toàn diện.
Qua nhiều giai đoạn tồn tại và phát triển, ngày nay tín dụng được hiểu theo định nghĩa cơ
bản sau:
Hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng được định nghĩa là việc tổ chức tín
dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để thỏa thuận cấp tín dụng cho
khách hàng với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho
thuê tài chính, bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
(Theo khoản 8 và khoản 10, điều 20 Luật các TCTD năm 2010 ) .
2.Đặc điểm tín dụng ngân hàng.
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng dựa trên cơ sở lòng tin. Ngân hàng chỉ cấp tín
dụng khi có lòng tin vào việc khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích, hiệu
quả và có khả năng hoàn trả nợ vay (gốc , lãi) đúng hạn; còn người đi vay thì tin
tưởng vào khả năng kiếm được tiền trong tương lai để trả nợ gốc và lãi vay.
Thứ hai, tín dụng là sự chuyển nhượng một tài sản có thời hạn . Ngân hàng
là trung gian tài chính “đi vay để cho vay”, nên mọi khoản tín dụng ngân hàng đều
phải có thời hạn, bảo đảm cho ngân hàng hoàn trả vốn huy động. Để xác định thời
hạn cho vay hợp lý, ngân hàng phải căn cứ vào tính chất thời hạn nguồn vốn của
mình và quá trình luân chuyển vốn của đối tượng vay. Nếu ngân hàng có nguồn
vốn dài hạn ổn định thì có thể cấp được nhiều tín dụng dài hạn và ngược lại, nếu
nguồn vốn không ổn định và kỳ hạn ngắn mà cấp nhiều tín dụng dài hạn thì sẽ gặp


rủi ro thanh khoản. Mặt khác thời hạn cho vay phải phù hợp với chu kỳ luân
chuyển vốn của đối tượng vay thì người vay mới có điều kiện trả nợ đúng hạn. Nếu
ngân hàng xác định thời hạn vay nhỏ hơn chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng
vay, thì khách hàng không có đủ nguồn để trả nợ khi đến hạn, gây khó khăn cho
khách hàng. Ngược lại nếu thời hạn cho vay lớn hơn chu kỳ luân chuyển vốn sẽ tạo
điều kiện cho khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích, gây rủi ro tín
dụng cho ngân hàng.
Thứ ba, tín dụng phải trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Nếu không có
sự hoàn trả thì không được coi là tín dụng. Giá trị hoàn trả phải lớn hơn giá trị lúc
cho vay (giá trị gốc), khách hàng phải trả cho ngân hàng một khoản lãi, đây chính
là giá của quyền của sử dụng vốn vay. Khoản lãi phải luôn là một số dương có như
vậy mới bù đắp được chi phí hoạt động và tạo ra lợi nhuận, phản ánh bản chất hoạt
động kinh doanh của ngân hàng.
Thứ tư, tín dụng là hoạt động tiềm ẩn rủi ro cao cho ngân hàng. Việc thu hồi
tín dụng phụ thuộc không những phụ thuộc vào bản thân ngân hàng, mà còn phụ
thuộc vào môi trường hoạt động, ngoài tầm kiểm soát của khách hàng như sự biến
động về giá cả, lãi suất, tỷ giá, lạm phát ... Khi khách hàng gặp khó khăn cho môi
trường kinh doanh thay đổi , dẫn đến khó khăn trong việc trả nợ, điều này khiến
cho ngân hàng gặp rủi ro tín dụng.
Thứ năm, tín dụng phải trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Quá trình
xin vay và cho vay diễn ra trên cơ sở những căn cứ pháp lý chặt chẽ như: Hợp
đồng tín dụng, khế ước vay tiền, bảo lãnh.., trong đó bên đi vay phải cam kết hoàn
trả vô điều kiện khoản vay cho ngân hàng khi đến hạn.
Từ các đặc điểm trên cho thấy, tín dụng ngân hàng phải đảm bảo được hai nguyên
tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích.
Thứ hai, vốn vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn đã cam kết trong
hợp đồng.
3. Phân loại tín dụng ngân hàng
3.1.Căn cứ vào phương thức cho vay.

Theo tiêu thức này, tín dụng có thể chia thành các loại sau:
• Cho vay theo món vay hay cho từng lần :
Đặc điểm của phương thức cho vay này là mỗi lần khách hàng vay món nào thì
phải làm hồ sơ món đó. Như vậy trong một quý khách hàng có bao nhiêu món vay
thì phải làm bấy nhiêu hồ sơ vay.Bộ phận tín dụng sẽ tiến hành phân tích và xem
xét cho vay đối với từng hồ sơ cụ thể.
Phương thức này thường được áp dụng cho khách hàng vay không thường
xuyên hay khách hàng vay thường xuyên nhưng chưa được ngân hàng tín nhiệm
cho áp dụng hạn mức tín dụng; phương thức này thường yêu cầu khách hàng phải
có đảm bảo.
Ưu điểm của phương thức này là ngân hàng có thể chủ động sử dụng vốn và thu
lãi nhiều đối với từng khoản vay, nhưng nhược điểm của nó là thủ tục vay phức
tạp, tốn chi phí, thời gian, khách hàng không chủ động được nguồn vốn. Với những
đặc điểm như vậy nên phương thức cho vay này cũng thường được áp dụng cho
các khoản vay trung và dài hạn hoặc cho vay các dự án.
• Cho vay theo hạn mức tín dụng:
Đặc điểm cơ bản của phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng là khách
hàng chỉ cần lập một bộ hồ sơ vay vào đầu kỳ kế hoạch có thể sử dụng cho
nhiều món vay. Cụ thể, khách hàng nộp hồ sơ vay vốn một lần vào đầu quý , dù
trong quý khách hàng có nhiều món vay cũng chỉ cần một bộ hồ sơ duy nhất.
Bộ phận tín dụng sẽ tiến hành phân tích và nếu đồng ý cho vay, hai bên sẽ tiến
hàng ký kết hợp đồng tín dụng, trong hợp đồng tín dụng sẽ xác định hạn mức
tín dụng cho khách hàng.
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong một thời hạn
nhất định mà ngân hàng và khách hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Khác với phương thức vay từng lần, ngân hàng sẽ không xác định kỳ hạn nợ
cho từng món vay mà chỉ khống chế theo hạn mức tín dụng có nghĩa là vào một
thời điểm nào đó nếu dư nợ vay của khách hàng lên đến mức tối đa cho phép
ngân hàng sẽ ngừng cho đối với khách hàng.
Phương thức này áp dụng cho khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên

và được ngân hàng tín nhiệm.
• Cho vay theo hạn mức thấu chi.
Là việc cho vay mà TCTD thỏa thuận bằng văn bản chấp thuận cho KH chi vượt số
tiền có trên tài khoản thanh toán của KH phù hợp với các quy định của pháp luật
về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
• Cho vay theo dự án đầu tư.
TCTD cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án phát triển sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
• Cho vay hợp vốn.
Một nhóm TCTD cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay
vốn của KH; trong đó, một TCTD làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các TCTD
khác.
• Cho vay trả góp.
Khi vay vốn, TCTD và khách hàng xác định lãi suất thỏa thuận số lãi vốn vay phải
trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho
vay.
• Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành thẻ tín dụng.
TCTD chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn
mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút
tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Khi cho vay
phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, TCTD và khách hàng phải tuân theo các quy
định của pháp luật về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
• Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng
TCTD cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức
tín dụng nhất định. TCTD và khách hàng thỏa thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức
tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng.
3.2. Căn cứ vào mục đích
Dựa vào căn cứ này cho vay được chia ra làm các loại sau:
• Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương

mại và dịch vụ.
• Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung
vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và
dịch vụ.
• Cho vay tiêu dùng là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng của cá
nhân như mua sắm ôtô hay các vật dụng khác, ngày nay ngân hàng còn thực hiện
các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đơì sống thông qua
phát hành thẻ tín dụng.
• Thuê mua và các loại khác.
3.3. Căn cứ vào thời hạn tín dụng.
• Tín dụng ngắn hạn: Loại tín dụng này có thời hạn dưới 12 tháng và được sử
dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu
ngắn hạn của cá nhân.
• Tín dụng trung hạn: tín dụng trung hạn có thời hạn vay từ 1 năm đến 5 năm.
Tín dụng trung hạn chủ yếu được đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc
đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới
có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
• Tín dụng dài hạn: các khoản tín dụng có thời hạn trên 5 năm.Tín dụng dài
hạn là loại tín dựng cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các
thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
3.4. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
Theo căn cứ này tín dụng được chia làm hai loại:
• Cho vay không bảo đảm là loại cho vay không cần tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản
thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có
khả năng tài chính mạnh, quản trị tài chính hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín
dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ
hai bổ sung.
• Cho vay có bảo đảm là loại cho vay được ngân hàng cung ứng phải có tài
sản thế chấp hoặc cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với khách

hàng không có uy tín cao với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự
bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có một nguồn thu thứ hai, bổ sung
nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn. Đồng thời tài sản thế chấp này bảo đảm
khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích cam kết.
3.5 . Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng.
Theo căn cứ này tín dụng ngân hàng được chia làm hai loại:
• Tín dụng bằng tiền là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được
cung cấp bằng tiền. Đây là loại tín dụng chủ yếu của các ngân hàng và việc thực
hiện bằng các kỹ thuật khác nhau như: Tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời
vụ, tín dụng trả góp...
• Tín dụng bằng tài sản là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và đa
dạng, riêng đối với các ngân hàng cho vay bằng tài sản được áp dụng phổ biến đó
là tài trợ thuê mua.
3.6. Căn cứ vào xuất xứ tín dụng.
Dựa vào căn cứ này cho vay chia làm hai loại:
• Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho những người có nhu
cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
• Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại
các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Các
ngân hàng thương mại cho vay gián tiếp theo các loại sau: Chiết khấu thương mại,
mua các phiếu bán hàng, mua các khoản nợ của doanh nghiệp... Ngoài các loại cho
vay trên đây, ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh cho khách hàng bằng
uy tín của mình.

×