Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC RA ĐỜI MỘT ĐỒNG TIỀN CHUNG ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.42 KB, 14 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC RA ĐỜI MỘT ĐỒNG TIỀN
CHUNG ASEAN
I.1 Liên minh tiền tệ và đồng tiền chung - Một hình thức cao nhất của liên
kết kinh tế Quốc tế.
Nhân loại đã bước sang những năm đầu của thế kỷ 21. Các quốc gia, dân tộc đang chuẩn bị hành trang cho
một kỷ nguyên mới mà một trong các đặc trưng cơ bản là xu hướng hợp tác, liên kết giữa các Quốc gia để giải quyết
các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và môi trường mang tính chất toàn cầu. Ngày nay trong quá trình phát
triển của mình, các quốc gia trên thế giới đang từng bước tạo lập nên các mối quan hệ song phương và đa phương
nhằm từng bước tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế với nhiều mức độ khác nhau, đem lại lợi ích thiết thực cho
mỗi bên. Chính các liên kết kinh tế quốc tế là biểu hiện của xu hướng toàn cầu hoá khu vực hoá đang diễn ra hết
sức sôi động trong những năm gần đây.
Khái niệm:
Liên kết kinh tế quôc tế hay còn gọi là nhất thể hoá kinh tế quốc tế là một hình thức trong đó diễn ra quá trình
xã hội hoá có tính chất quốc tế đối với quá trình tái sản xuất giữa các chủ thể Kinh tế quốc tế.
Liên kết kinh tế quốc tế chính là sự thành lập một tổ hợp Kinh tế quốc tế của các nước thành viên nhằm tăng
cường phối hợp và điều chỉnh lợi ích giữa các bên tham gia, giảm bớt sự khác biệt về điều kiện phát triển giữa các
bên và thúc đẩy Quan hệ kinh tế quốc tế phát triển cả bề rộng và chiều sâu. Quá trình Liên kết kinh tế quốc tế đưa
tới việc hình thành một thực thể kinh tế mới ở cấp độ cao hơn với các mối Quan hệ kinh tế quốc tế phức tạp và đa
dạng.
Các bên tham gia các liên kết kinh tế quốc tế có thể là các Quốc gia hoặc các tổ chức doanh nghiệp thuộc các
nước khác nhau.
Như vậy liên kết Kinh tế quốc tế là một qúa trình khách quan bởi nó là kết quả của quá trình vận động mang
tính quy luật, xuất phát từ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất và quốc tế hoá đời sống kinh tế do tác động của cách
mạng Khoa học kỹ thuật. Mặt khác, liên kết Kinh tế quốc tế cũng là một quá trình chủ quan bởi nó là kết quả của
những hoạt động của các quốc gia trong việc phối hợp nền kinh tế của các quốc gia đó, làm cho các nền kinh tế thích
ứng với nhau, dần dần hình thành một chỉnh thể kinh tế có cơ cấu tối ưu, có năng suất lao động cao.
Liên kết Kinh tế quốc tế hay nhất thể hoá Kinh tế quốc tế là một khái niệm được tranh luận tương đối nhiều,
ý kiến chia rẽ tương đối lớn trên các diễn đàn kinh tế thế giới, trong những năm gần đây. Nhìn từ mặt hàm nghĩa thì
từ liên kết Kinh tế quốc tế (Integration) là bắt nguồn từ chữ Latinh Intergratio, ý của nó là chỉ việc liên hiệp hoặc
hoà nhập các bộ phận khác nhau lại thành một chỉnh thể. Về nghĩa rộng thì nhất thể hoá kinh tế thế giới có hai tầng
bậc lớn là vi mô và vĩ mô. Về mặt vi mô thì buổi đầu sớm nhất chỉ là giữa các doanh nghiệp với nhau thông qua các


hình thức độc quyền như Cácten, Tờ rớt, ... để kết hợp lại thành một thể liên hiệp kinh tế mới. Về mặt vĩ mô là chỉ
sự liên hiệp kinh tế giữa các nước và khu vực khác nhau trong cùng một Châu lục hoặc giữa các Châu lục thông qua
ký kết các điều ước hay Hiệp định, lập ra các chuẩn tác hoạt động chung để thực hiện các mục đích kinh tế và chính
trị, thậm chí thông qua việc nhượng bớt chủ quyền cục bộ của quốc gia, xây dựng các tổ chức “siêu quốc gia” để
thực hiện sự liên hiệp kinh tế.
1.1 Liên kết kinh tế quốc tế là kết quả tất yếu của quá trình Quốc tế hoá đời sống kinh tế
Trong quá trình phát triển gần một trăm năm qua, kinh tế thế giới có những quy luật đặc thù và dần dần xuất
hiện một xu thế có tính chất toàn thể. Đó chính là xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế. Quốc tế hoá đời sống kinh tế
chính là sự dựa vào nhau để cùng tồn tại, sự xâm nhập vào nhau ngày càng sâu của kinh tế các nước trên thế giới.
Trong thế kỷ XX, quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới không ngừng được tăng lên và phạm vi ngày càng mở
rộng, nội dung ngày càng sâu sắc.
Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế dẫn đến việc hình thành các liên kết kinh tế quốc tế là một tất yếu
khách quan do những nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất: Quốc tế hoá về các mặt vốn, kỹ thuật, thị trường tiêu thụ sản phẩm làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các quốc gia. Năng lực đơn độc trong việc điều chỉnh và khống chế kinh tế của các nước ngày càng suy
giảm. Việc giải quyết các vấn đề kinh tế và đặt ra chính sách kinh tế của các nước ngày càng phụ thuộc chặt chẽ vào
sự hợp tác, liên kết giữa các quốc gia.
Thứ hai: Quốc tế hoá về mặt sản xuất đã làm cho các hoạt động kinh tế giữa các nước đan xen vào nhau,
không thể phát triển một cách đơn độc và tách rời nhau. Để điều hoà một cách tổng thể quá trình quốc tế hoá sản
xuất và tạo ra tiếng nói chung trong quá trình phát triển kinh tế và định hướng sản xuất, các nước hình thành nên
các liên kết kinh tế dưới các cấp độ khác nhau.
Thứ ba: Xu thế tập đoàn hoá khu vực tạo điều kiện thúc đẩy sự hợp tác giữa các nước ngày càng sâu sắc. Tập
đoàn hoá khu vực cho phép giải quyết những vấn đề kinh tế, thương mại có liên quan đến lợi ích của các nước ở quy
mô quốc tế. Chính quá trình đó đã góp phần thúc đẩy liên kết chặt chẽ hơn giữa các quốc gia.
Thứ tư: Quốc tế hoá một cách cao độ lực lượng sản xuất dẫn đến phân công lao động quốc tế diễn ra ngày
càng sâu sắc, các nước tiến hành chuyên môn hóa nhằm đạt tới quy mô tối ưu cho từng ngành sản xuất. Các quốc gia
sẽ tập trung vào một số ngành và sản phẩm nhất định mà họ có lợi thế rồi trao đổi với các nước khác. Ngày nay, các
nước không chỉ trao đổi sản phẩm đã hoàn thiện với nhau mà thậm chí còn trao đổi từng bộ phận sản phẩm. Bởi vậy
mới có tình trạng một loại hàng hoá có thể được sản xuất ở nhiều nước khác nhau, mỗi nơi một bộ phận theo khả
năng chuyên môn hoá của từng nước. Chẳng hạn để sản xuất ra chiếc máy bay Boeing có tới 650 công ty trên thế

giới tham gia và được đặt ở hơn 30 nước. Ôtô Ford cũng vậy có tới 165 công ty ở hơn 20 nước tham gia sản
xuất ...Tính thống nhất của nền kinh tế thế giới làm cho toàn bộ quá trình sản xuất như một dây chuyền “dây chuyền
quốc tế” cả về phạm vi và quy mô. Chính vì vậy các liên kết kinh tế quốc tế ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu liên kết
với nhau để cùng phát triển của tất cả các quốc gia trên thế giới.
1.2 Các hình thức của Liên kết kinh tế quốc tế
Có 2 hình thức :
- Liên kết lớn (Macro Intergration)
-Liên kết nhỏ (Micro Intergration)
Duới đây chỉ đề cập đến hình thức liên kết lớn :
Liên kết lớn là hình thức của liên kết kinh tế quốc tế mà chủ thể tham gia là các Nhà nước, các quốc gia trong
đó các chính phủ ký với nhau các Hiệp định để tạo nên khuôn khổ chung cho sự phối hợp và điều chỉnh quan hệ
kinh tế quốc tế giữa các Nhà nước.
Dựa vào nội dung liên kết và mức độ hội nhập, liên kết lớn có những hình thức chủ yếu sau:
• Khu vực mậu dịch tự do (Free trade Area - FTA)
Khu vực mậu dịch tự do là liên minh quốc tế giữa hai hay nhiều nước nhằm mục đích tự do hoá việc buôn
bán về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó.
Khu vực mậu dịch tự do sẽ hình thành một thị trường thống nhất nhưng mỗi thành viên vẫn thi hành chính
sách ngoại thương độc lập đối với các nước ngoài liên minh. Trên thế giới hiện nay hình thành rất nhiều khu vực
mậu dịch tự do như: Khu vực mậu dịch tự do Châu Âu - EFTA, khu vực tự do Bắc Mỹ - NAFTA, khu vực mậu dịch
tự do - AFTA của các nước ASEAN v.v..
Mục đích của khu vực mậu dịch tự do là nhằm:
- Khuyến khích phát triển thương mại trong nội bộ khối, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Thu hút vốn đầu tư từ các nước bên ngoài khối cũng như trong nội bộ khối.
• Liên minh thuế quan (Custom Union)
Đây là một liên minh quốc tế với nội dung bãi miễn thuế quan và những hạn chế về mậu dịch khác giữa các
nước thành viên. Tuy nhiên, liên minh thuế quan có điểm khác với khu vực mậu dịch tự do là các nước thành viên
còn có một biểu thuế quan chung áp dụng với các nước ngoài khối.
• Thị trường chung (Common Market)
Thị trường chung là một liên minh quốc tế áp dụng các biện pháp tương tự như liên minh thuế quan trong
việc trao đổi thương mại nhưng nó đi xa thêm một bước là cho phép di chuyển ở cả tư bản và lao động tự do giữa

các nước thành viên với nhau và từ đó tạo điều kiện cho sự hình thành thị trường thống nhất theo nghĩa rộng.
Cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC) từ năm 1992 theo loại hình này.
• Liên minh kinh tế (Economic Union)
Liên minh kinh tế là hình thức liên kết kinh tế quốc tế trong đó các nước thành viên thực hiện thống nhất và
hài hoá các chính sách kinh tế - tài chính - tiền tệ giữa các nước thành viên. Giữa các nước cho phép tự do di chuyển
hàng hoá, dịch vụ, sức lao động và tư bản.
Khối đồng minh Benelux là một liên minh kinh tế giữa ba nước Bỉ, Hà Lan, Luxembua kể từ năm 1960, liên
minh Châu Âu - EU từ năm 1994 cũng được coi là một liên minh kinh tế .
• Liên minh tiền tệ (Monetary Union)
Đây là hình thức phát triển cao của liên kết kinh tế quốc tế trong đó các nước thành viên phải phối hợp chính
sách tiền tệ với nhau và cùng thực hiện một chính sách tiền tệ thống nhất trong toàn khối. Trong liên minh tiền tệ,
người ta thực hiện thống nhất các giao dịch tiền tệ giữa các thành viên, thống nhất về đồng tiền dự trữ và phát hành
đồng tiền tập thể cho các nước trong liên minh.
VD: Đồng tiền chung Châu Âu - Euro giữa 12 nước thành viên.
Ngoài ra dưới khía cạnh địa lý, liên kết lớn có thể có các hình thức sau:
- Liên kết khu vực: là hình thức liên kết giữa các quốc gia trong cùng một khu vực địa lý, chẳng hạn: ASEAN
- liên kết 10 nước khu vực Đông Nam á, EU - 15 nước EU, NAFTA - 3 nước Bắc Mỹ, MERCOSUR - 6 nước Nam
Mỹ
I.2 Lý thuyết "Khu vực tiền tệ tối ưu"- cơ sở lý luận hình thành liên minh
tiền tệ.
Lý thuyết "Khu vực tiền tệ tối ưu" ra đời vào đầu những năm 1960 và cho đến nay đã trải qua một quá trình
phát triển lâu dài. Nghiên cứu đầu tiên mang tính tiên phong về lĩnh vực này do các nhà kinh tế Mỹ R.Mundell
(1961) và R.Mc Kinnon (1963) (cùng Ingram 1962) đưa ra, trong đó nêu lên những đặc tính cơ bản nhất để xác định
một "Khu vực tiền tệ tối ưu". Những nghiên cứu sau này của các nhà kinh tế khác như Grubel (1970), Corden
(1972), Ishiyama (1975) và Tower và Willet (1976) đã chuyển sang tập trung đánh giá chi phí và lợi ích của việc
tham gia một khu vực tiền tệ. Nhìn chung, lý thuyết này giải quyết các vấn đề như lựa chọn một cơ chế tỷ giá cho
một nước như thế nào, vai trò của điều chỉnh tỷ giá khi xảy ra sự mất cân bằng cán cân thanh toán là gì và đặc biệt
quan trọng, lý thuyết này đã đặt nền móng cho lý thuyết hội nhập về tiền tệ, là cơ sở cho sự hình thành Liên minh
tiền tệ châu Âu cũng như sự ra đời của các liên minh tiền tệ khác trên thế giới trong tương lai.
2.1 Khái niệm:

Trước hết, để hiểu được khái niệm "Khu vực tiền tệ tối ưu", chúng ta cần tìm hiểu khái niệm khu vực tiền tệ.
Một khu vực tiền tệ là một khu vực trong đó tỷ giá hối đoái là cố định hoặc tồn tại một đồng tiền chung. Như vậy,
mỗi nước có một đồng tiền riêng của mình đều là một khu vực tiền tệ. Vấn đề mà R.Mundell và R.Mc Kinnon đặt ra
là liệu nước đó có phải là một khu vực tiền tệ tối ưu hay không, hay nói cách khác, liệu nước này có những đặc điểm
cho phép nó sử dụng một cách tối ưu đồng tiền của mình hay không. Nếu câu trả lời là không thì thứ nhất, từng vùng
của nước đó có phát triển tốt hơn nếu sử dụng đồng tiền riêng của vùng hay không. Và thứ hai, liệu nước đó có lợi
hơn khi tham gia vào một khu vực tiền tệ lớn hơn thay vì sử dụng đồng tiền riêng của nước mình hay không. Để trả
lời hai câu hỏi này, Mundell và Kinnon đã phát triển thành lý thuyết trong đó nêu lên khái niệm và các tiêu chuẩn
của một khu vực tiền tệ tối ưu.
Một khu vực tiền tệ tối ưu là một khu vực "tối ưu" về mặt địa lý trong đó phương tiện thanh toán là một đồng
tiền chung hoặc là một số đồng tiền mà giá trị trao đổi của chúng được neo cố định với nhau với khả năng chuyển
đổi vô hạn cho cả các giao dịch vãng lai và các giao dịch về vốn, nhưng tỷ giá hối đoái của chúng lại biến động một
cách hài hoà với các nước khác trên thế giới.
1
"Tối ưu" được xác định về mặt mục tiêu kinh tế vĩ mô là duy trì cân
bằng cả bên trong và bên ngoài. Cân bằng bên trong đạt được tại điểm thoả hiệp tối ưu giữa lạm phát và thất nghiệp
và cân bằng bên ngoài là sự duy trì trạng thái cán cân thanh toán cân bằng.
2.2 Các đặc điểm của một khu vực tiền tệ tối ưu
a.Sự linh hoạt về giá cả và tiền lương:
1 The New Palgrave Dictionary of Money and Finance, tập III, trang 78
Giả sử một khu vực gồm nhiều vùng hoặc nhiều nước. Nếu giá cả và tiền lương thực tế đủ linh hoạt trên cả
khu vực này để đối phó với những thay đổi của cầu và cung, thì các vùng trong khu vực đó nên được gắn với nhau
bằng chế độ tỷ giá cố định. Sự linh hoạt tuyệt đối của giá cả và tiền lương sẽ làm cho thị trường luôn cân bằng và tạo
điều kiện cho sự điều chỉnh thực tế diễn ra ngay lập tức khi có những rối loạn ảnh hưởng đến tình hình thanh toán
trong khu vực mà không gây ra tình trạng thất nghiệp.
Việc liên kết các vùng trong khu vực bằng chế độ tỷ giá cố định là có lợi cho toàn bộ khu vực vì điều này
thúc đẩy tính hữu dụng của tiền tệ nhờ giảm bớt chi phí giao dịch, loại bỏ rủi ro tỷ giá, tiết kiệm chi phí phòng ngừa
rủi ro tiền tệ, hạ thấp giá cả do giá cả trong toàn bộ khu vực trở nên dễ so sánh hơn. Sự cân bằng được duy trì bằng
việc thả nổi tập thể các đồng tiền của khu vực so với các đồng tiền ngoài khu vực cũng như bằng sự linh hoạt của
giá cả. Khi giá cả và tiền lương không linh hoạt thì sự điều chỉnh về vị trí cân bằng có thể gây ra thất nghiệp ở một

vùng và/hoặc lạm phát ở một vùng khác.
b. Sự hội nhập thị trường tài chính
Nghiên cứu của Ingram (1962) đã nói lên rằng một khu vực tiền tệ thành công phải hội nhập chặt chẽ trong
lĩnh vực tài chính, nghĩa là dỡ bỏ mọi rào cản đối với việc luân chuyển vốn. Khi xảy ra một sự rối loạn làm thâm hụt
cán cân thanh toán thì các dòng vốn sẽ là một vùng đệm, làm cho yêu cầu điều chỉnh thực tế giảm đi hay thậm chí là
việc điều chỉnh sẽ không cần thiết nữa. Nhờ các dòng vốn, quá trình điều chỉnh thực tế có thể được tiến hành trong
một thời gian dài hơn. Chi phí của việc điều chỉnh cũng sẽ thấp hơn nếu có được sự linh hoạt của giá cả-tiền lương
và sự tự do di chuyển các yếu tố bên trong. Do đó, sự hội nhập thị trường tài chính làm giảm nhu cầu thay đổi điều
kiện thương mại giữa các vùng khi có sự biến động của tỷ giá hối đoái, ít nhất là trong ngắn hạn.
c. Sự hội nhập thị trường các yếu tố
Theo Mundell (1961), một khu vực tiền tệ tối ưu được xác định bởi sự tự do di chuyển các yếu tố bên trong
(cả giữa các khu vực và giữa các ngành) và sự tự do di chuyển các yếu tố bên ngoài. Ví dụ, nếu giá hàng xuất khẩu ở
một vùng giảm, thì để duy trì khả năng cạnh tranh với các vùng khác trong khu vực, cần điều chỉnh tỷ giá, chi phí
sản xuất hoặc giá cả. Trong điều kiện tỷ giá cố định và giá cả không linh hoạt thì chỉ có thể giảm chi phí sản xuất,
trong đó giảm chi phí sản xuất bằng cách giảm chi phí tiền lương là dễ thực hiện nhất, với điều kiện sức lao động
được tự do di chuyển. Trên thực tế, khi giá hàng xuất khẩu giảm dẫn đến thu nhập của doanh nghiệp giảm, chủ
doanh nghiệp phải cắt giảm tiền lương hay cắt giảm số lao động và lao động buộc phải rời bỏ vùng bị suy thoái để
tìm kiếm việc làm mới hoặc tiền lương cao hơn ở các vùng khác.
Như vậy, sự tự do di chuyển các yếu tố của sản xuất (đặc biệt là lao động) sẽ làm giảm nhẹ áp lực thay đổi
giá cả thực tế của các yếu tố để đối phó với các cú sốc về cung và cầu. Do đó nhu cầu điều chỉnh tỷ giá hối đoái
nhằm điều chỉnh giá cả thực tế của các yếu tố cũng được giảm nhẹ. Theo nghĩa này, sự tự do di chuyển các yếu tố
phần nào đóng vai trò là một sự thay thế cho tính linh hoạt của giá cả-tiền lương. Do thường thấp trong ngắn hạn
nên sự tự do di chuyển các yếu tố giúp giải quyết sự mất cân bằng cán cân thanh toán thường xuyên trong dài hạn tốt
hơn là giải quyết sự mất cân đối cán cân thanh toán tạm thời.
Như vậy, sự hội nhập thị trường các yếu tố sẽ tạo điều kiện để các nước không phải điều chỉnh tỷ giá hối đoái
nhằm duy trì tình hình cán cân thanh toán ổn định giữa các vùng trong khu vực.
d. Sự hội nhập thị trường hàng hoá

×