Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.21 KB, 29 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ
CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
1.1. NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ - MỘT CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
Tại bất kỳ một quốc gia nào có nền kinh tế thị trường, để đạt được các mục
tiêu phát triển kinh tế vĩ mô đều phải sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô như
chính sách tài chính, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại và chính
sách tiền tệ (CSTT). Thông qua việc điều hành các chính sách này để tác động đến
các mục tiêu như tăng trưởng, lạm phát, việc làm … Vì vậy, CSTT đóng vai trò là
một bộ phận quan trọng và không thể thiếu trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô
của Nhà nước.
1.1.1. Khái niệm về chính sách tiền tệ
CSTT là một chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó NHTW sử dụng các công
cụ của mình để điều tiết và kiểm soát các điều kiện tiền tệ của nền kinh tế nhằm
đảm bảo sự ổn định giá trị tiền tệ, tạo nền tảng thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và
duy trì các mục tiêu xã hội hợp lý.
Theo nghĩa rộng, CSTT là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền tệ
trong nền kinh tế nhằm phân bổ một cách hiệu quả nhất các nguồn lực nhằm thực
hiện các mục tiêu tăng trưởng, cân đối kinh tế trên cơ sở đó ổn định giá trị đồng
tiền quốc gia. Theo nghĩa hẹp, CSTT là chính sách đảm bảo sao cho khối lượng
tiền cung ứng tăng thêm trong một năm tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế và
chỉ số lạm phát nhằm ổn định giá trị của đồng tiền, góp phần thực hiện các mục
tiêu kinh tế vĩ mô.
NHTW có vai trò rất quan trọng trong việc quyết định các vấn đề liên quan
đến CSTT vì mọi hoạt động của NHTW và hệ thống ngân hàng đều ảnh hưởng đến
hệ thống điều kiện tiền tệ của nền kinh tế được thể hiện qua các chỉ tiêu như khối
lượng tiền, tín dụng, lãi suất, tỷ giá … Vì thế công tác xây dựng và điều hành
CSTT là trọng tâm hoạt động của một NHTW.
1.1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Nội dung của CSTT thể hiện thông qua việc thiết kế hệ thống mục tiêu của
CSTT trong từng thời kỳ bao gồm các mục tiêu tổng quát và hệ thống mục tiêu


điều hành.
1.1.2.1. Mục tiêu tổnq quát (mục tiêu cuối cùng)
Mục tiêu CSTT hầu như thống nhất ở các nước. Sự điều chỉnh lượng tiền
cung ứng nhằm mục tiêu trước hết là ổn định giá trị tiền tệ, trên cơ sở đó góp phần
tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm. Ngoài các mục tiêu vĩ mô trên, một số
nước còn tập trung vào các mục tiêu cụ thể, tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế phát
triển đặc thù quốc gia. Tuy nhiên do tính chất mâu thuẫn giữa các mục tiêu nên
NHTW không thể theo đuổi tất cả các mục tiêu trên trong một khoảng thời gian
nhất định. Điều này buộc NHTW phải có sự lựa chọn và ưu tiên cho những mục
tiêu quan trọng trong từng thời kỳ mặc dù mục tiêu ổn định giá cả luôn là mục tiêu
dài hạn của NHTW.
1.1.2.2. Mục tiêu điều hành
Các mục tiêu chính sách trên chỉ là mục tiêu cuối cùng mà các CSTT nhắm
tới. Đây là các mục tiêu mang tính định tính nên để tạo điều kiện thuận lợi trong
quá trình điều hành CSTT, các NHTW đều xây dựng hệ thống mục tiêu điều hành
mang tính định lượng cụ thể hơn.
Mục tiêu điều hành là các biến số tiền tệ có tác động mạnh theo một chiều
nhất định đến mục tiêu cuối cùng (mục tiêu chính sách) của CSTT. Căn cứ vào sự
phát triển và diễn biến của thị trường tiền tệ, NHTW các nước đều lựa chọn các
mục tiêu điều hành của CSTT. Mục tiêu điều hành của CSTT bao gồm mục tiêu
trung gian và mục tiêu hoạt động.
a, Mục tiêu trung gian
NHTW không thể sử dụng các công cụ CSTT tác động trực tiếp và ngay lập
tức đến các mục tiêu cuối cùng của nền kinh tế. Ảnh hướng của CSTT chỉ xuất
hiện sau một thời gian nhất định. Để khắc phục hạn chế này, NHTW của tất cả các
nước thường xác định các chỉ tiêu cần đạt được trước khi đạt được mục tiêu cuối
cùng.
Tiêu chuẩn của chỉ tiêu trung gian: (1) Có thể đo lường được một cách chính
xác và nhanh chóng, bởi vì các chỉ tiêu này chỉ có ích khi nó phản ánh được tình
trạng của CSTT nhanh hơn mục tiêu cuối cùng; (2) Có thể kiểm soát được để có

thể điều chỉnh mục tiêu đó cho phù hợp với định hướng của CSTT; (3) Có mối liên
hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng.
Cả tổng lượng tiền cung ứng và lãi suất đều thoả mãn các tiêu chuẩn trên,
nhưng NHTW không thể chọn cả hai chỉ tiêu trên làm mục tiêu trung gian mà chỉ
có thể chọn một trong hai chỉ tiêu đó. Bởi lẽ, nếu đạt được mục tiêu về tổng khối
lượng tiền cung ứng thì phải chấp nhận sự biến động của lãi suất và ngược lại.
b, Mục tiêu hoạt động
Mục tiêu hoạt động là các chỉ tiêu có phản ứng tức thời với sự điều chỉnh của
công cụ CSTT đồng thời có mối quan hệ chi phối tới các mục tiêu trung gian. Việc
lựa chọn hệ thống chỉ tiêu thích hợp làm mục tiêu hoạt động có ý nghĩa quan trọng
quyết định hiệu quả tác động của CSTT. Hệ thống chỉ tiêu này vừa đóng vai trò
phản ánh tình trạng CSTT đồng thời phản ánh dấu hiệu về định hướng CSTT của
NHTW.
Các tiêu chuẩn lựa chọn chỉ tiêu làm mục tiêu hoạt động cũng tương tự như
tiêu chuẩn lựa chọn mục tiêu trung gian, bao gồm: (1) Phải đo lường được nhằm
tránh những suy diễn thiếu chính xác làm sai lệch dấu hiệu của CSTT; (2) Phải có
mối quan hệ trực tiếp và ổn định với các công cụ của CSTT; (3) Phải có mối quan
hệ chặt chẽ và ổn định với mụcc tiêu trung gian được lựa chọn. Căn cứ vào tiêu
chuẩn trên, các chỉ tiêu thường được lựa chọn làm mục tiêu hoạt động của NHTW
bao gồm: lãi suất liên ngân hàng và dự trữ ngân hàng.
1.1.3. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ
Để thực hiện CSTT theo các mục tiêu đã xác định trong từng thời kỳ, NHTW sử
dụng một số công cụ CSTT nhằm tác động đến khối lượng tiền trong lưu thông và lãi
suất (chi phí) vay vốn. Công cụ CSTT là các hoạt động được thực hiện trực tiếp bởi
NHTW nhằm tác động trực tiếp tới các mục tiêu hoạt động, qua đó ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp tới mục tiêu trung gian, từ đó đạt được các mục tiêu cuối cùng của
CSTT.
1.1.3.1. Các công cụ chủ yếu
Đây là nhóm công cụ tác động trước hết vào các mục tiêu hoạt động của CSTT
như lãi suất thị trường liên ngân hàng, dự trữ không vay, dự trữ đi vay, … và thông qua

cơ chế thị trường mà tác động này truyền tới các mục tiêu trung gian là khối lượng tiền
cung ứng và lãi suất. Nhóm công cụ này bao gồm:
a, Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc (DTBB) là số tiền mà các NHTM buộc phải duy trì trên một
tài khoản tiền gửi tại NHTW trong một thời kỳ nhất định. DTBB được tính trên
cơ sở tỷ lệ DTBB do NHTW quy định đối với từng loại tiền gửi cấu thành nên
nguồn vốn hoạt động của một ngân hàng. Tỷ lệ DTBB do NHTW quy định và
được xác định bằng một tỷ lệ % nhất định trên tổng số dư tiền gửi của khách hàng
tại NHTM. Tỷ lệ DTBB được áp dụng có phân biệt đối với các loại tiền gửi có
thời hạn khác nhau, quy mô và tính chất hoạt động của NHTM.
DTBB tác động tới cung ứng tiền tệ bằng cách gây ra thay đổi số nhân cung
ứng tiền tệ. Tỷ lệ DTBB tăng lên sẽ làm giảm số tiền gửi được nâng đỡ bởi một
mức nhất định của cơ số tiền tệ và dẫn đến việc thu hẹp cung ứng tiền. Mặt khác,
tỷ lệ DTBB giảm xuống sẽ dẫn đến một sự tăng lên của cung ứng tiền tệ do việc
tạo thêm tiền gửi gấp nhiều lần. Việc quy định tỷ lệ DTBB do NHTW quyết định
tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của nền kinh tế.
b, Chính sách chiết khấu
Chiết khấu là một trong những hình thức cho vay của NHTW đối với các NHTM.
Khi cấp một khoản tín dụng cho NHTM, một mặt NHTW đã làm tăng lượng tiền cung
ứng, mặt khác tạo cơ sở cho các NHTM tạo bút tệ cũng như khai thông được năng lực
thanh toán của họ.
Chính sách chiết khấu bao gồm các quy định về hạn mức chiết khấu, lãi suất chiết
khấu và điều kiện cho vay của NHTW đối với các ngân hàng. NHTW cho vay ngắn
hạn trên cơ sở chiết khấu các chứng từ có giá của ngân hàng. NHTW kiểm soát công cụ
này chủ yếu bằng cách tác động tới giá cả khoản vay thông qua lãi suất chiết khấu căn
cứ vào mục tiêu của CSTT là thắt chặt hay nới lỏng, từ đó tác động tới lượng tiền trong
lưu thông.
Sự thay đổi về lãi suất chiết khấu được xem là một dấu hiệu thông báo của
NHTW trong định hướng thực hiện CSTT. Các tuyên bố của NHTW về chiều hướng
biến động lãi suất chiết khấu (tăng lên hoặc giảm xuống) có tác dụng hướng dẫn hành

vi của thị trường theo định hướng CSTT.
c, Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở (OMO) là hoạt động NHTW mua, bán GTCG như
tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, tín phiếu NHTW, chứng chỉ tiền gửi ... trên
thị trường tiền tệ, nhằm làm thay đổi cơ số tiền tệ mà đặc biệt là tiền dự trữ trong
hệ thống ngân hàng, qua đó tác động đến khối lượng tiền cung ứng. Do vậy, thị
trường này có khả năng tiếp nhận được một lượng rất lớn nghiệp vụ của NHTW
mà không làm cho giá cả biến động mạnh.
OMO là công cụ CSTT quan trọng của NHTW. Nghiệp vụ này là yếu tố quyết
định quan trọng nhất đối với những thay đổi trong cơ số tiền tệ và đó cũng là
nguồn gốc chính gây nên những biến động trong cung ứng tiền tệ.
OMO là một trong những cửa ngõ quan trọng để NHTW phát hành tiền vào
lưu thông hoặc rút bớt tiền trong lưu thông về thông qua mua hay bán các các loại
GTCG. Qua nghiệp vụ mua bán này NHTW làm tăng hay giảm dự trữ của các
NHTM, tác động đến khả năng tín dụng của các ngân hàng này và từ đó làm tăng
hay giảm lượng tiền cung ứng.
1.1.3.2. Các công cụ bổ trợ
Bên cạnh những công cụ chủ yếu nêu trên thì NHTW còn sử dụng các công cụ bổ
trợ để thực hiện CSTT.
a, Lãi suất
Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện CSTT trong điều khiển mức
cung ứng tiền cho nền kinh tế, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối
lượng tiền tệ trong lưu thông. Sự biến động của lãi suất có thể kích thích hoặc kìm hãm
sản xuất. Do vậy, lãi suất là một công cụ quan trọng của NHTW trong thực hiện CSTT.
Thông qua chính sách chiết khấu đối với các ngân hàng, NHTW thực hiện quản lý
gián tiếp lãi suất cho vay của các ngân hàng đối với nền kinh tế. Khi muốn điều chỉnh
lãi suất của các ngân hàng, NHTW điều chỉnh các lãi suất của mình, từ đó tác động đến
lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất huy
động, cho vay của các ngân hàng. Ngoài ra, NHTW có thể quản lý trực tiếp lãi suất của
các TCTD đối với nền kinh tế thông qua quy định các mức lãi suất cụ thể về cho vay và

huy động. Tuy nhiên hình thức quản lý trực tiếp lãi suất này chỉ phù hợp tại các nước có
hệ thống tài chính tiền tệ chưa phát triển, và xu hướng chung là giảm dần sự quản lý
trực tiếp này.
b, Hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là một trong những công cụ can thiệp trực tiếp của NHTW để
khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của hệ thống tổ chức tín dụng cung ứng cho
nền kinh tế đảm bảo mức tăng trưởng của tổng phương tiện thanh toán theo mục tiêu đề
ra. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các ngân hàng phải tôn
trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợ quy định cho từng ngân hàng căn cứ
vào đặc điểm kinh doanh của ngân hàng, trong định hướng cơ cấu kinh tế và trong giới
hạn tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong một thời gian xác định.
Hạn mức tín dụng được sử dụng để khống chế tổng dư nợ tín dụng, qua đó khống
chế tổng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Do vậy cơ chế tác động của nó mang
tính áp đặt của NHTW đối với hệ thống ngân hàng.
c, Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là tương quan giữa sức mua của đồng nội tệ và đồng ngoại tệ,
hay có thể nói là giá cả của đồng tiền này đo bằng một đồng tiền khác. Tỷ giá vừa
phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại tệ. Đến
lượt mình, tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, có tác
động mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.
Chính sách tỷ giá tác động nhạy bén và mạnh mẽ đến sản xuất, xuất nhập khẩu
hàng hoá, tình trạng tài chính tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế, vốn đầu tư và dự
trữ của quốc gia.
Về thực chất thì tỷ giá không phải là công cụ CSTT bởi lẽ tỷ giá không làm
tăng giảm khối lượng tiền trong lưu thông, mà chỉ góp phần thay đổi cơ cấu khối
lượng tiền. Tuy nhiên tại nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có nền kinh tế
đang phát triển, có mức độ đôla hoá cao, thì tỷ giá được xem là một công cụ bổ trợ
quan trọng cho điều hành CSTT.
1.2. NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
1.2.1. Khái niệm

Theo cách hiểu chung nhất thì khái niệm “Nghiệp vụ thị trường mở” là
hoạt động mua bán các GTCG của NHTW với các đối tác được lựa chọn để qua
đó tác động tới lãi suất của thị trường hoặc dự trữ của các đối tác này, vì thế có
thể ảnh hưởng tới các điều kiện tiền tệ của nền kinh tế thông qua những ảnh
hưởng về mặt lượng và giá cả. Thuật ngữ "Thị trường mở" ở đây được hiểu là
một thị trường có tính chất mở, nghĩa là đa dạng về các đối tác tham gia thị
trường và đa dạng về các loại giao dịch trên thị trường.
Nghiệp vụ thị trường mở (OMO) được Ngân hàng Anh áp dụng đầu tiên từ
năm 1914 trong nỗ lực tìm kiếm công cụ có hiệu quả hơn để điều chỉnh lãi suất
thị trường theo hướng mong muốn.
OMO là một trong các công cụ CSTT có hiệu quả cao và hiện đang được
các nước trên thế giới sử dụng. Mặc dù OMO được sử dụng phổ biến nhưng việc
đưa ra một khái niệm chung là không thống nhất. Sự không thống nhất này thể
hiện ở sự khác nhau về hàng hoá giao dịch, các đối tác tham gia thị trường và
các loại giao dịch trên thị trường.
Các GTCG được sử dụng trên thị trường mở là các GTCG ngắn hạn và dài
hạn như tín phiếu, trái phiếu chính phủ, tín phiếu NHTW, trái phiếu doanh
nghiệp, trái phiếu ngân hàng v.v.. Các chủ thể của thị trường mở là NHTW và
các đối tác chủ yếu là các ngân hàng, và có thể là các tổ chức tài chính, tín dụng
phi ngân hàng.
Xét về mặt hình thức, thị trường mở là thị trường giao dịch các chứng
khoán nợ cả ngắn hạn và dài hạn. Tuy nhiên khác với các khái niệm có phạm vi
và loại hình công cụ rõ ràng như thị trường chứng khoán hay thị trường tiền tệ,
thị trường mở ở các nước khác nhau lại khác nhau về phạm vi, loại hình công cụ
và thời hạn của các công cụ giao dịch trên thị trường. Đối với một số nước, hàng
hoá giao dịch trên thị trường mở chỉ gồm các GTCG ngắn hạn và đối tác tham
gia chỉ là các TCTD. Khi đó, thị trường mở là một bộ phận của thị trường tiền
tệ. Đối với nước khác như Mỹ, Đức thì các GTCG dài hạn cũng có thể giao dịch,
khi đó thị trường mở bao gồm cả một phần của thị trường chứng khoán. Điều đó
có nghĩa là các giới hạn, quy định khác nhau về hàng hoá và đối tác tham gia

OMO với NHTW sẽ quyết định khái niệm cụ thể về thị trường mở ở từng nước.
1.2.2. Cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở
Thông qua hoạt động mua, bán các GTCG trên thị trường mở, NHTW đã
tác động trực tiếp đến dự trữ của các ngân hàng và ảnh hưởng gián tiếp đến các
mức lãi suất trên thị trường, từ đó tác động trực tiếp đến các mục tiêu của chính
sách tiền tệ cả về mặt giá và mặt lượng.
a, Về mặt lượng - Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng
Hành vi mua bán các GTCG trên thị trường mở của NHTW có khả năng tác
động ngay lập tức đến tình trạng dự trữ của các NHTM thông qua ảnh hưởng
đến tiền gửi của các ngân hàng tại NHTW (nếu các NHTM là đối tác tham gia
OMO) và tiền gửi của khách hàng tại hệ thống ngân hàng (nếu các khách hàng
là đối tác tham gia OMO).
Sơ đồ 1.1. Cơ chế tác động của OMO tới dự trữ ngân hàng
NHTW bán GTCG
Dự trữ NH giảm
Dự trữ mở rộng cho vay giảm
Khối lượng TD giảm
MS giảm
Khi NHTW thực hiện bán GTCG cho các ngân hàng thì tiền gửi của ngân
hàng tại NHTW sẽ giảm xuống tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW
bán ra. Trường hợp người mua là các khách hàng của ngân hàng thì số tiền mua
GTCG sẽ làm giảm số dư tiền gửi của họ tại hệ thống ngân hàng. Kết quả là dự
trữ của hệ thống ngân hàng giảm sút tương ứng với khối lượng GTCG mà
NHTW bán ra. Sự giảm sút dự trữ của hệ thống ngân hàng sẽ làm giảm khả năng
cho vay của ngân hàng và vì thế khối lượng tín dụng giảm dẫn đến cung tiền sẽ
giảm. Ngược lại, khi NHTW thực hiện mua GTCG trên thị trường mở, kết quả
làm dự trữ của các ngân hàng tăng lên. Như vậy, khi NHTW thực hiện nghiệp vụ
thị trường nó sẽ tác động đến dự trữ của các ngân hàng, làm ảnh hưởng đến khối
lượng tín dụng, từ đó ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng.
b, Về mặt giá - Tác động qua lãi suất

Hành vi mua bán GTCG của NHTW trên thị trường mở có thể ảnh hưởng
gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua 2 con đường sau:
Thứ nhất, khi dự trữ của ngân hàng bị ảnh hưởng sẽ tác động đến cung cầu
vốn NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Đến lượt nó, cung cầu tiền
trung ương thay đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi. Mức lãi
suất ngắn hạn này, thông qua dự đoán của thị trường và các hoạt động arbitrage
về lãi suất, sẽ truyền tác động tới các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị
trường tài chính. Tại một mức lãi suất thị trường xác định, tổng cầu AD của nền
kinh tế, và do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ được quyết định.
Sơ đồ 1.2. Cơ chế tác động của OMO qua lãi suất
Cung TPKB tăng
NHTW bán TPKB
Dự trữ NH giảm
Đầu tư giảm
Cung của quỹ cho vay giảm
Lãi suất ngắn hạn tăng
Lãi suất thị trường tăng
Giá TPKB giảm
LS thị trường tăng
tăng
Thứ hai, việc mua bán GTCG sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung
cầu về loại GTCG đó trên thị trường và giá cả của nó. Khi giá chứng khoán thay
đổi, tỷ lệ sinh lời của chúng cũng thay đổi. Nếu khối lượng chứng khoán này
chiếm tỷ trọng lớn trong các giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỷ
lệ sinh lời của nó sẽ tác động trở lại lãi suất thị trường, và vì thế mà tác động đến
tổng cầu AD và sản lượng.
Khi NHTW bán tín phiếu kho bạc sẽ làm giảm dự trữ của hệ thống ngân
hàng. Điều này làm giảm cung quỹ cho vay và sẽ ảnh hưởng đến lãi suất ngắn
hạn, làm lãi suất ngắn hạn có xu hướng tăng lên và tác động vào làm tăng các lãi
suất thị trường. Bên cạnh đó khi NHTW thực hiện bán tín phiếu kho bạc trên thị

trường mở sẽ làm tăng cung tín phiếu kho bạc trên thị trường, từ đó làm giảm
giá của tín phiếu kho bạc. Điều này làm ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của tín
phiếu kho bạc theo hướng tăng lên, dẫn đến sự chuyển dịch vốn đầu tư sang tín
phiếu kho bạc. Để cân bằng lãi suất và hạn chế sự dịch chuyển vốn đầu tư, lãi
suất thị trường sẽ tăng lên. Khi lãi suất thị trường tăng lên thì hoạt động đầu tư
của các chủ thể đối với nền kinh tế sẽ giảm xuống do tỷ suất sinh lời giảm. Từ
đó tổng cầu trên thị trường giảm xuống và góp phần làm giảm sản lượng, ảnh
hưởng đến lượng tiền cung ứng.
1.2.3. Vai trò và sự cần thiết của nghiệp vụ thị trường mở
1.2.3.1. Đối với ngân hàng trung ương
Để thực hiện nhiệm vụ ổn định giá trị đồng tiền, NHTW đã xây dựng và
thực thi các công cụ CSTT nhằm đưa tiền ra và rút tiền về từ lưu thông theo tín
hiệu thị trường. Trong đó, OMO là công cụ CSTT gián tiếp quan trọng nhất tại
nhiều quốc gia làm thay đổi cung - cầu tiền tệ dẫn đến thay đổi lãi suất trên thị
trường tiền tệ. Thông qua việc mua bán GTCG tại thị trường mở, NHTW có thể
mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng và tác
động một cách tốt nhất đến cơ số tiền tệ, lượng tiền cung ứng. Như vậy, OMO
đã tạo điều kiện cho NHTW hạn chế sử dụng các công cụ mang tính trực tiếp
trong điều hành CSTT.
Bên cạnh mục đích điều tiết vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng, thông
qua mua bán GTCG trên thị trường mở, NHTW còn cấp tín hiệu cho thị trường
về định hướng điều hành CSTT trong tương lai là nới lỏng hay thắt chặt. Đặc
biệt khi thực hiện OMO thường xuyên và hiệu quả, lãi suất thị trường mở có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc định hướng, chỉ đạo lãi suất thị trường và qua đó
NHTW có thể hạn chế những biến động của lãi suất thị trường.
OMO là một công cụ CSTT có tính chủ động cao. OMO do NHTW chủ động
khởi xướng, khác với các nghiệp vụ cho vay hỗ trợ vốn khác của NHTW thường
do các ngân hàng có nhu cầu vay vốn chủ động khởi xướng. Như vậy, NHTW có
thể chủ động thực hiện OMO theo định kỳ hoặc vào các thời điểm cần thiết. OMO
có thể được thực hiện linh hoạt xét trên góc độ về khối lượng cũng như thời gian

giao dịch. NHTW có thể thực hiện OMO ở quy mô lớn/nhỏ (khối lượng mua bán
GTCG lớn/nhỏ) với thời hạn dài/ngắn tuỳ theo quyết định mua/bán GTCG.
OMO có thể khắc phục được những hạn chế của các công cụ kiểm soát tiền tệ
trực tiếp và các công cụ gián tiếp khác. Các giao dịch OMO có tính hai chiều, qua
đó NHTW có thể bơm thêm tiền vào lưu thông hoặc rút tiền từ lưu thông, trong khi
công cụ TCV chỉ có thể bơm thêm tiền vào lưu thông. Mặt khác, với công cụ
OMO, NHTW có thể chủ động hơn trong việc điều tiết lưu thông, không phụ thuộc
nhiều vào ý muốn chủ quan của NHTM như trong công cụ TCV. Qua việc tính toán
và dự báo vốn khả dụng cũng như lượng tiền cung ứng, NHTW có thể biết chính
xác được khối lượng tiền cần bơm thêm hoặc rút về từ lưu thông.
1.2.3.2. Đối với các đối tác của ngân hàng trung ương
Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng trong cơ chế thị trường ngày càng
đa dạng dẫn đến hoạt động quản lý và sử dụng vốn khả dụng cần phải chủ động và
linh hoạt hơn. Hiện nay trong cơ cấu nguồn vốn của các ngân hàng, tiền gửi không
kỳ hạn và có kỳ hạn với thời gian dưới 12 tháng thường chiếm tỷ trọng từ 60-70%.
Vì vậy, vấn đề cấp bách hiện nay đối với các ngân hàng là làm thế nào để sử dụng
vốn linh hoạt hiệu quả và giải quyết được khó khăn tạm thời về vốn khả dụng trong
thời gian ngắn, không gây ách tắc trong thanh toán cũng như đáp ứng nhu cầu tăng
trưởng tín dụng.
Thị trường mở là nơi các đối tác của NHTW được chủ động tham gia mua bán
GTCG với NHTW và lãi suất thực sự là mang tính thị trường. Thông qua thị
trường mở, các ngân hàng có thể sử dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để đầu
tư vào các GTCG để thu được lợi tức và đáp ứng nhu cầu dự trữ thứ cấp. Khi cần
thiết, các ngân hàng có thể bán lại các GTCG này trên thị trường mở để giải quyết
khó khăn về nguồn vốn. Các thành viên tham gia thị trường mở thường là các đối
tác có độ tin cậy cao, nên việc mua bán GTCG trên thị trường mở có độ an toàn rất
cao. Bên cạnh đó, những điều kiện về chủng loại và chất lượng các GTCG được
giao dịch trong OMO sẽ gián tiếp làm thay đổi danh mục đầu tư GTCG của các

×