Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.52 KB, 27 trang )

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ
CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
2.1. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ THỊ
TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
Luật NHNN Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/1998 đã tạo cơ sở
pháp lý quan trọng cho NHNN Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới hoạt động
ngân hàng trong thiên niên kỷ mới, trong đó có đổi mới về các công cụ CSTT.
Theo quy định tại Điều 9, Điều 16 và Điều 21 Luật NHNN, nghiệp vụ thị trường
mở là một công cụ thực hiện CSTT quốc gia, theo đó: “OMO là nghiệp vụ mua,
bán các GTCG ngắn hạn do NHNN thực hiện trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện
CSTT quốc gia.”
2.1.1. Sự cần thiết ra đời nghiệp vụ thị trường mở trong điều hành chính
sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước
2.1.1.1. Hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ thấp
Nhìn chung, công tác điều hành CSTT của NHNN giai đoạn 1995-2000 đã
đem lại những thành công đáng kể khi nhìn vào các chỉ số phản ánh sự biến động
của các mục tiêu vĩ mô: tỷ lệ lạm phát ở mức một chữ số, tốc độ tăng trưởng kinh
tế đạt bình quân 8,6%/năm.
Tuy nhiên nếu quan niệm rằng mục tiêu hàng đầu của CSTT là ổn định giá trị
đồng tiền thì mục tiêu này chưa được thực hiện tốt. Tỷ lệ lạm phát biến động tương
đối mạnh và khó dự đoán. Đặc biệt từ năm 1996, mặc dù tổng phương tiện thanh
toán vẫn tăng liên tục nhưng chỉ số giá cả, tiếp đó là tốc độ tăng trưởng kinh tế, vẫn
có xu hướng giảm ở các tháng đầu năm 1996, 1997, 1998 và 1999. Điều này chứng
tỏ sự hạn chế trong hiệu quả tác động của các công cụ CSTT của NHNN, thể hiện
sự thiếu chủ động, linh hoạt và khả năng truyền dẫn tác động chậm chạp.
Hoạt động TCV bước đầu đã hình thành cơ chế cho vay bù đắp sự thiếu hụt
tạm thời về nguồn vốn của NHNN đối với các ngân hàng, tạo ra kênh cung ứng
vốn tin dụng ngắn hạn có kiểm soát của NHNN. Tuy nhiên, việc TCV mới chỉ thực
hiện chủ yếu tại 4 NHTMNN và hơn 70% các khoản vay dành cho mục tiêu chỉ
định. Hiệu lực tác động của công cụ này thấp, không có tác dụng kích thích nhu
cầu tiền tệ của các TCTD và tác động tới lãi suất thị trường. Nguyên nhân chủ yếu


do lãi suất TCV được quy định cứng nhắc, xa rời lãi suất thị trường và chỉ điều
chỉnh nhằm phù hợp với lãi suất thị trường hơn là điều tiết thị trường.
Bên cạnh đó, do NHNN không quy định phải tính DTBB đối với tiền gửi có
kỳ hạn trên 12 tháng nên khả năng kiểm soát và điều tiết M2 của NHNN còn hạn
chế. Việc trả lãi tiền gửi vượt DTBB đã không khuyến khích cả TCTD tận dụng tối
đa nguồn vốn. Thêm vào đó việc quản lý vốn khả dụng của các NTHM còn yếu,
chưa chủ động trong dự báo dẫn đến tình trạng có thời kỳ các NHTM để dự trữ dư
thừa nhiều, hạn chế các hoạt động của thị trường tiền tệ, nhất là hoạt động cho vay
ngắn hạn hoặc qua đêm giữa các ngân hàng, có lúc gây ra thiếu phương tiện thanh
toán trầm trọng.
Các công cụ hiện hành không cho phép NHNN có thể điều chỉnh linh hoạt
lượng vốn khả dụng trong điều kiện dư thừa. Tình trạng dự trữ dư thừa không
mong muốn tại các ngân hàng bắt đầu từ năm 1994 và kéo dài đến năm 2000 là cho
các ngân hàng phải chịu áp lực mạnh về chi phí vốn, đồng thời giảm hiệu quả tác
động của CSTT, đặc biệt công cụ TCV. Các công cụ này tỏ ra thiếu chủ động trong
việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng. Điều này thể hiện rõ trong hai năm 1998-
1999 khi trần lãi suất cho vay liên tục giảm nhưng khối lượng tín dụng không tăng
tương ứng, đồng thời giá cả và sản lượng giảm liên tục.
Hiệu quả của CSTT thấp còn bởi vì chúng chỉ tác động được qua kênh truyền
dẫn duy nhất là kênh tín dụng của hệ thống ngân hàng. Các kênh tác động khác
như lãi suất và thị trường tài chính chưa phát huy do thị trường tiền tệ và chứng
khoán chưa hoạt động. Vì vậy, tác động của CSTT trong giai đoạn này chủ yếu
thông qua tác động về khối lượng.
Để khắc phục nhược điểm này, bên cạnh việc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện
các công cụ hiện có cũng như kênh truyền dẫn tác động, việc đưa vào áp dụng các
công cụ CSTT gián tiếp có khả năng tác động đến lãi suất và khối lượng vốn của
nền kinh tế là cấp thiết. Một trong những công cụ đó là nghiệp vụ thị trường mở.
Chính vì vậy, sự hình thành thị trường mở trở thành mục tiêu của NHNN trong
việc hoàn thiện công cụ CSTT trong giai đoạn này.
2.1.1.2. Sự tồn tại của các thị trường chứng khoán nợ

Trước năm 1990, nền kinh tế Việt Nam được tài trợ từ các trung gian tài chính
mà chủ yếu là các ngân hàng. Từ đầu thập niên 1990s, tình trạng này đã được cải
thiện. Nhiều người có nhu cầu vốn đã bắt đầu làm quen với hình thức huy động
vốn trực tiếp từ công chúng trên cơ sở sử dụng các GTCG với các thời hạn khác
nhau. Đây là điều kiện nền tảng cho hoạt động thị trường mở. Các thị trường chứng
khoán nợ (ngắn hạn và dài hạn) đã ra đời và phát triển, đó là thị trường trái phiếu
chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp.
Trái phiếu chính phủ đã trở thành nguồn bù đắp chi tiêu ngân sách phổ biến từ
năm 1994 khi Chính phủ bắt đầu phát hành tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc và
trái phiếu công trình. Từ năm 1995, tín phiếu kho bạc đã bắt đầu được phát hành
theo hình thức đấu thầu tại NHNN với số lượng trúng thầu ngày càng tăng. Lượng
tín phiếu kho bạc trúng thầu qua NHNN đã tạo cơ sở tiền đề về hàng hoá ban đầu
cho hoạt động thị trường mở sau này. Bên cạnh trái phiếu chính phủ, một số chứng
khoán nợ của doanh nghiệp cũng được phát hành, trong đó chủ yếu là các kỳ phiếu
ngân hàng. Tuy nhiên các giao dịch đối với trái phiếu doanh nghiệp là nhỏ bé và tự
phát.
Mặc dù thị trường giao dịch trái phiếu chưa phát triển nhưng cũng đã tạo ra
những điều kiện tiền đề cho sự vận hành của thị trường mở.
2.1.1.3. Xu thế hội nhập kinh tế
Xu hướng toàn cầu hoá các hoạt động thương mại và tài chính đã ảnh hưởng
đến các chính sách kinh tế vĩ mô và các công cụ CSTT ở hầu hết các nước trên thế
giới. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Xu hướng toàn cầu hoá tất yếu dẫn
đến trào lưu liên minh khu vực và tự do hoá các thị trường tài chính khu vực. Trào
lưu này đòi hỏi các công cụ CSTT phải đảm bảo mối liên hệ linh hoạt giữa các cân
bằng nội và cân bằng ngoại. Nghiệp vụ thị trường mở, với cơ chế hoạt động chủ
yếu dựa vào thị trường, là công cụ CSTT thích hợp nhất tại hầu hết các quốc gia.
Thông qua OMO, NHTW có thể tác động trức tiếp và nhanh chóng đến các mục
tiêu hoạt động. Bên cạnh đó, OMO đang trở thành một công cụ CSTT phổ biến ở
các quốc gia phát triển và đang phát triển. Đây là điều kiện thuận lợi cho Việt Nam
trong việc học hỏi kinh nghiệm và tổ chức hoạt động của thị trường mở tại Việt

Nam.
2.1.2. Quá trình hình thành và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý của nghiệp
vụ thị trường mở
2.1.2.1. Khuôn khổ pháp lý cho sự ra đời của nghiệp vụ thị trường mở
Bên cạnh các điều kiện vĩ mô về tiền tệ ngân hàng cho sự ra đời của nghiệp
vụ thị trường mở thì việc thiếu cơ sở pháp lý hợp lý và đồng bộ sẽ hạn chế hoạt
động và phát triển của thị trường mở. Về cơ bản, hành lang pháp lý cần thiết cho
hoạt động thị trường mở phải bao gồm các lĩnh vực sau: Giới hạn phạm vi thị
trường, các công cụ của thị trường, quy định về phát hành GTCG, cơ chế hoạt
động của thị trường thứ cấp, quy chế hoạt động can thiệp của NHNN, quản lý vốn
khả dụng của NHNN. Cho đến tháng 3/2000, về cơ bản, hệ thống văn bản pháp lý
làm cơ sở cho sự ra đời và hoạt động của OMO đã hình thành. Cụ thể:
Thứ nhất, khung pháp lý về phạm vi thị trường và công cụ
Theo quy định tại Điều 21 Luật NHNN: "NHNN thực hiện OMO thông qua
việc mua bán tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN, chứng chỉ tiền gửi và các loại
GTCG ngắn hạn trên thị trường tiền tệ để thực hiện CSTT quốc gia." Như vậy, thị
trường mở chỉ giới hạn trong phạm vi thị trường tiền tệ, ngụ ý rằng các giao dịch
thị trường mở phải có thời gian dưới 12 tháng và các loại GTCG giao dịch cũng
phải đáo hạn trong vòng 1 năm.
Ngoài ra, Luật NHNN cũng đã cụ thể hoá các loại công cụ (GTCG) giao dịch
thông qua OMO là tín phiếu KBNN, tín phiếu NHNN, chứng chỉ tiền gửi và các
loại GTCG ngắn hạn khác do Thống đốc quy định cụ thể.
Thứ hai, khung pháp lý về việc phát hành các giấy tờ có giá - hàng hoá của
thị trường
Để cung cấp hàng hoá cho thị trường, một số loại GTCG đã được phát hành.
Hệ thống pháp lý về việc ban hành các GTCG này đã được hoàn thiện, như:
- Quy chế phát hành tín phiếu NHNN ban hành theo Quyết định số
362/1999/QĐ-NHNN1 ngày 08/10/1999 của Thống đốc;
- Quy chế phát hành trái phiếu chính phủ theo Nghị định số 72/CP ngày
26/7/1994 của Chính phủ và Quyết định số 01/2000/QĐ-TTg ngày 13/01/2000 của

Thủ tướng Chính phủ;
- Pháp lệnh thương phiếu tháng 2/1999;
- Luật Thương mại năm 1997.
Thứ ba, khung pháp lý về thị trường thứ cấp
NHNN đã ban hành nhiều văn bản quy định về các giao dịch thứ cấp nhằm
tạo tính thanh khoản cho các GTCG trên và thị trường thứ cấp, như:
- Quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường nội tệ liên ngân hàng theo
Quyết định số 136 QĐ/NH2 ngày 20/7/1993 của Thống đốc;
- Quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo
Quyết định số 101/1999/QĐ-NHNN13 ngày 26/3/1999 của Thống đốc;
- Quy chế về nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu của NHNN đối với các ngân
hàng theo Quyết định 356/1999/QĐ-NHNN14 ngày 06/10/1999 của Thống đốc.
Thứ tư, khung pháp lý về hoạt động can thiệp của NHNN trên thị trường mở
Quy chế nghiệp vụ thị trường mở được ban hành theo Quyết định
85/2000/QĐ-NHNN14 ngày 09/3/2000 của Thống đốc. Quy chế này hướng dẫn
thực hiện giao dịch trên thị trường mở, nghiệp vụ thanh toán, lưu ký, … và sự can
thiệp của NHNN trên thị trường. NHNN cũng đã thành lập Ban điều hành nghiệp
vụ thị trường mở để quyết định tất cả các vấn đề liên quan.
Thứ năm, khung pháp lý về quản lý vốn khả dụng
Quy chế quản lý vốn khả dụng được ban hành theo Quyết định số
37/2000/QĐ-NHNN1 ngày 24/01/2000 của Thống đốc. Đây là yếu tố nền tảng cho
hoạt động OMO và hoạt động TCV của NHNN. Nó xác định lượng vốn khả dụng
thừa thiếu hàng ngày làm căn cứ để quyết định chiều hướng và mức độ can thiệp
của NHNN trên thị trường mở.
Như vậy, để chuẩn bị cho công cụ OMO triển khai hoạt động, NHNN đã ban
hành nhiều văn bản pháp lý liên quan, không những trực tiếp quy định về công cụ
này như quy chế về OMO, thành lập Ban điều hành OMO, quy trình thực hiện
OMO, hạch toán giao dịch OMO, chế độ thông tin báo cáo, … mà còn ban hành
quy định về những vấn đề liên quan đến công cụ này như quy chế quản lý vốn khả
dụng, quy chế lưu ký GTCG ngắn hạn, quy trình đấu thầu tín phiếu kho bạc, ..

Thông qua các quy định này, NHNN đã hướng dẫn cụ thể việc tổ chức và thực hiện
các giao dịch trên thị trường mở, tạo điều kiện cho các TCTD nắm bắt và triển khai
thực hiện. Hệ thống các văn bản pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của thị trường
mở đã cơ bản đầy đủ và sẽ hoàn thiện trong tương lai. Các quy định này đảm bảo
hoạt động thị trường mở trôi chảy từ khâu phát hành GTCG đến giao dịch GTCG
cũng như cơ sở để xác định mức độ can thiệp thị trường của NHNN.
2.1.2.2. Quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của
nghiệp vụ thị trường mở
Sau một thời gian chuẩn bị, nghiệp vụ thị trường mở chính thức được NHNN
khai trương và đưa vào vận hành vào ngày 12/7/2000, đánh dấu một bước tiến
quan trọng của NHNN trong việc chuyển sang điều hành CSTT bằng các công cụ
gián tiếp.
Trong thời gian 5 năm triển khai thực hiện, NHNN cũng đã tiến hành sửa đổi
kịp thời các văn bản nhằm thúc đẩy sự hoạt động của thị trường như sửa đổi quy
chế hoạt động OMO vào các năm 2001, 2002, 2003 và 2004; quy chế lưu ký
GTCG được sửa đổi năm 2004, ...
a. Quy chế về nghiệp vụ thị trường mở
Để tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai công cụ OMO tại Việt Nam, ngày
09/3/2000, Thống đốc đã ban hành Quy chế hoạt động nghiệp vụ thị trường mở
kèm theo Quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN (gọi tắt là Quy chế 85). Theo đó,
OMO là nghiệp vụ mua bán các GTCG ngắn hạn giữa một bên là NHNN với một
bên là các TCTD là thành viên của thị trường mở trên thị trường tiền tệ để thực
hiện CSTT quốc gia. Các GTCG ngắn hạn được giao dịch ở thị trường mở bao
gồm tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN và các loại GTCG ngắn hạn khác do
Thống đốc quy định. Quy chế 85 cũng quy định về các giao dịch trên thị trường
mở, phương thức giao dịch, phương thức đấu thầu, điều kiện tham gia thị trường
mở, các loại GTCG được giao dịch thông qua thị trường mở, quy trình tham gia
OMO.
Tuy nhiên, việc quy định về hình thức giao dịch đấu thầu lãi suất, ngày thanh
toán, lãi suất mua hoặc bán, khối lượng mua hoặc bán ... tại Quy chế 85 chưa phù

hợp nên NHNN đã tiếp tục sửa đổi, bổ sung bằng các Quyết định số
1439/2001/QĐ-NHNN ngày 20/11/2001 và Quyết định số 877/2002/QĐ-NHNN
ngày 19/8/2002. Theo đó, “Đấu thầu lãi suất là việc xác định lãi suất trúng thầu
của các TCTD tham gia OMO trên cơ sở lãi suất dự thầu của các TCTD và khối
lượng GTCG NHNN cần mua hoặc bán.” và “Ngày thanh toán là ngày đấu thầu,
các TCTD trúng thầu thực hiện giao, nhận GTCG và thanh toán với NHNN.”. Bên
cạnh đó, NHNN cũng quy định thẩm quyền của “Ban điều hành OMO quyết định
thông báo hoặc không thông báo khối lượng GTCG NHNN cần mua hoặc cần bán
trước mỗi phiên đấu thầu”trong phương thức đấu thầu lãi suất.
Sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật NHNN được ban hành,
NHNN đã ban hành Quyết định số 1085/2003/QĐ-NHNN ngày 16/9/2003 và công
văn số 1511/NHNN-TD ngày 28/12/2004 để sửa đổi, bổ sung một số quy định tại
Quy chế nghiệp vụ thị trường mở. Theo đó, “NHNN thực hiện OMO thông qua việc
mua bán ngắn hạn tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN và các loại GTCG khác với
TCTD trên thị trường tiền tệ để thực hiện CSTT quốc gia.” Bên cạnh đó, cuối năm
2005, Thống đốc ban hành Quyết định số 1909/QĐ-NHNN ngày 30/12/2005 cho
phép trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu Quỹ hỗ trợ phát triển được
phép giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở. Chủng loại GTCG được giao dịch
trên thị trường mở cũng được mở rộng, ngoài những GTCG ngắn hạn như tín phiếu
kho bạc, tín phiếu NHNN còn bao gồm cả những GTCG dài hạn như trái phiếu
kho bạc, trái phiếu đầu tư do ngân sách trung ương thanh toán, công trái, trái phiếu
công trình trung ương và các loại GTCG khác do Thống đốc quy định. Ngoài ra,
NHNN cũng đã sửa đổi các quy định liên quan đến thời gian thực hiện nghiệp vụ,
các mẫu biểu đi kèm … nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các TCTD khi tham
gia thị trường mở.
Để khắc phục những hạn chế và tiến dần tới chuẩn hóa các quy định của Ngân
hàng Nhà nước trong các giao dịch liên quan đến GTCG, Thống đốc đã ban hành
Quyết định số 01/2007/QĐ-NHNN ngày 05/01/2007 về ban hành Quy chế nghiệp
vụ thị trường mở, thay thế tất cả các quy định trước đó.
b. Quy chế quản lý vốn khả dụng

Để quyết định việc “bơm”, “hút” tiền qua thị trường mở, NHNN cần phải căn
cứ vào thực trạng vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng. Vì vậy việc quản lý và dự
báo vốn khả dụng nhằm phục vụ cho điều hành CSTT là hết sức cần thiết.
Theo Quy chế quản lý vốn khả dụng kèm theo Quyết định số 37/2000/QĐ-
NHNN ngày 24/01/2000 của Thống đốc, vốn khả dụng là số tiền gửi của các
TCTD (gồm tiền gửi DTBB, tiền gửi thanh toán và các loại tiền gửi khác) tại
NHNN. Trên cơ sở tính toán, phân tích và dự báo sự thay đổi về vốn khả dụng,
NHNN sẽ xác định mức vốn khả dụng cần duy trì của các TCTD để đảm bảo thực
hiện CSTT, từ đó đưa ra các giải pháp để can thiệp đến vốn khả dụng của các
TCTD thông qua các công cụ CSTT.
NHNN dự báo vốn khả dụng của các TCTD trên cơ sở xác định các nhân tố
ảnh hưởng đến vốn khả dụng, như: cung cầu ngoại tệ trên thị trường tiền tệ và sự
can thiệp của NHNN; diễn biến thu chi ngân sách nhà nước; doanh số phát hành và
thu hồi tiền mặt của NHNN; nhu cầu vay và khả năng huy động vốn của các
NTHM, … Kết quả dự báo vốn khả dụng của các TCTD được sử dụng làm cơ sở
thực hiện OMO và dự đoán cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ để điều hành
CSTT.
Như vậy, việc tính toán và dự báo diễn biến vốn khả dụng là cơ sở cho việc
điều hành OMO nói riêng và CSTT nói chung của NHNN.
2.1.3. Bộ máy tổ chức điều hành nghiệp vụ thị trường mở
Để tổ chức và điều hành OMO, NHNN cũng đã hình thành được một bộ máy tổ
chức và triển khai hoạt động thị trường mở tại NHNN bao gồm Ban điều hành
OMO do một Phó Thống đốc làm trưởng ban. Bên cạnh đó, một số bộ phận tại các
Vụ Cục cũng được thiết lập và hoàn thiện nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực về
con người, trang thiết bị để xây dựng và hoàn thiện hoạt động thị trường mở.
2.1.3.1. Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở
Ban điều hành OMO trực tiếp chỉ đạo điều hành toàn bộ hoạt động OMO tại Việt
Nam. Trưởng ban điều hành là 1 Phó Thống đốc. Ban điều hành có 1 phó trưởng
ban thường trực là Vụ trưởng Vụ CSTT, 1 phó trưởng ban là Giám đốc Sở giao
dịch NHNN. Các uỷ viên Ban điều hành OMO là đại diện lãnh đạo các Vụ Tín

dụng, Vụ Quản lý ngoại hối và Sở Giao dịch. Thư ký ban là chuyên viên của Vụ
CSTT và Sở giao dịch.
Mọi vấn đề từ chủ trương định hướng đến các quyết định cụ thể trong từng phiên
hay các sáng kiến cải tiến cơ chế, quy chế, quy trình kỹ thuật đều được Ban điều
hành bàn bạc tập thể và Trưởng ban quyết định trên cơ sở các ý kiến đã thống nhất.
Việc điều hành OMO đã ngày càng mang tính thị trường, các quyết định mua và
bán GTCG với các phương án đấu thầu, xét thầu cụ thể đối với từng phiên đều
được Ban điều hành cân nhắc kỹ lưỡng trên cơ sở xem xét tình hình vốn khả dụng
của hệ thống các TCTD, xu hướng lãi suất thị trường và mục tiêu điều hành CSTT
của NHNN.
Bên cạnh việc chỉ đạo sát sao các Vụ, Cục liên quan chủ động nghiên cứu đổi mới
cơ chế, quy chế về OMO, Ban điều hành đã tổ chức một số đợt tập huấn, hội nghị
sơ kết hàng năm để hướng dẫn các văn bản mới, tiếp thu kịp thời các kiến nghị, đề
xuất góp phần hoàn thiện công cụ OMO. Đồng thời thông qua một số đợt khảo sát
trong nước và nước ngoài, Ban điều hành đã kịp thời có các đề xuất về đổi mới
hoạt động OMO, phát triển các nghiệp vụ thị trường tiền tệ và việc điều hành
CSTT của NHNN nói chung.
2.1.3.2. Các phòng, bộ phận liên quan
Để triển khai những nghiệp vụ mới phục vụ cho OMO, một số bộ phận tại các Vụ,
Cục của NHNN đã được thiết lập và hoàn thiện.
a, Bộ phận quản lý vốn khả dụng thuộc Vụ Chính sách tiền tệ, xây dựng và
hoàn thiện Quy chế quản lý vốn khả dụng; trực tiếp thu thập các thông tin để dự
báo sự biến động về vốn khả dụng trên thị trường, đề xuất với Ban điều hành về
định hướng hoạt động OMO, cũng như khối lượng, lãi suất và phương thức giao
dịch của từng phiên đấu thầu, qua đó hỗ trợ đắc lực cho Ban điều hành đưa ra
những quyết sách phù hợp.
b, Phòng Nghiệp vụ thị trường tiền tệ thuộc Sở Giao dịch, xây dựng các quy
trình thực hiện OMO, trực tiếp thực hiện các quy trình thủ tục đấu thầu, xét thầu
theo quyết định của Ban điều hành.
c, Phòng Thị trường tiền tệ và bảo lãnh thuộc Vụ Tín dụng, thực hiện xây dựng

và hoàn thiện các cơ chế, quy chế cho hoạt động OMO và các thị trường tiền tệ
liên quan.
d, Một số phòng ban khác đã góp phần cho hoạt động OMO được thực hiện thành
công như:
- Phòng Kế toán, Phòng Thanh toán điện tử liên ngân hàng, Phòng Ngân quỹ … tại
Sở Giao dịch thực hiện các nghiệp vụ hạch toán, thanh toán, lưu ký GTCG …
- Phòng Kỹ thuật I, Phòng Kỹ thuật II, Phòng Quản lý thông tin thuộc Cục Công
nghệ tin học ngân hàng thực hiện thiết kế cài đặt chương trình phần mềm ứng
dụng, trang bị phần cứng, đường truyền kết nối, xử lý các vấn đề kỹ thuật trong
việc thực hiện OMO qua mạng máy tính.
2.1.4. Các thành viên tham gia thị trường mở
Các thành viên tham gia thị trường mở tại Việt Nam bao gồm NHNN và các TCTD
có đủ điều kiện theo quy định của NHNN.
2.1.4.1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
NHNN tham gia thị trường mở với tư cách vừa là người tổ chức và điều hành thị
trường mở vừa là thành viên. NHNN là cơ quan xem xét và chứng nhận tư cách
thành viên cho các TCTD đủ điều kiện.
2.1.4.2. Các đối tác của Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Theo quy định hiện hành về OMO, thành viên tham gia OMO chỉ là các TCTD
thành lập và hoạt động theo Luật các TCTD và có đủ các điều kiện sau: (i) Có tài
khoản tiền gửi tại NHNN, (ii) Có đủ phương tiện cần thiết để tham gia OMO, và
(iii) Có đăng ký tham gia OMO.
Trong điều kiện (ii), đòi hỏi các TCTD phải có đầu tư cơ sở vật chất ban đầu để
tham gia giao dịch trên thị trường mở như máy tính để giao dịch, nối mạng với Sở
giao dịch NHNN, chương trình phần mềm giao dịch … Đối với các TCTD có quy
mô lớn thì có thể đầu tư các thiết bị mạng theo kỹ thuật tiên tiến để giao dịch. Đối
với những TCTD có quy mô nhỏ thì có thể giao dịch với NHNN thông qua việc
truyền file với chi phí thấp.
Khi OMO bắt đầu hoạt động vào tháng 7/2000, có 20 TCTD được công nhận là
thành viên tham gia OMO. Số lượng thành viên thị trường mở tăng dần qua các

năm, nhưng với tốc độ chậm, chỉ 1-2 thành viên mỗi năm. Đến ngày 31/12/2005 đã
có 29 TCTD được công nhận là thành viên tham gia OMO, gồm 05 NHTMNN, 14
NHTMCP, 07 chi nhánh NHNg, 01 ngân hàng liên doanh, 01 công ty tài chính và
Quỹ Tín dụng nhân dân trung ương. Đây có thể coi là những thành viên năng động
nhất trên thị trường tiền tệ, góp phần quan trọng vào việc điều hoà vốn cho thị
trường, truyền dẫn vốn từ NHTW đến các TCTD thiếu vốn nhưng không có đủ các
điều kiện để tham gia OMO.

×