Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ CỦA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.82 KB, 17 trang )

BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
I. Bối cảnh kinh tế thế giới
1. Đặc điểm và chiều hướng phát triển của kinh tế thế giới
1.1. Kinh tế thế giới chuyển từ phát triển theo chiều rộng (gia tăng nguồn lực)
sang phát triển theo chiều sâu (nâng cao hiệu quả).
Những thập niên cuối của thế kỷ 20, các nhân tố phát triển theo chiều rộng
như các nguồn nguyên nhiên liệu, năng lượng, khoáng sản, ưu thế về nguồn lao
động giá rẻ... suy giảm rõ rệt. Cuộc khủng hoảng dầu lửa trong thập niên 70, 80 đã
thúc đẩy các quốc gia tìm kiếm các biện pháp phát triển chiều sâu như nâng cao
hiệu quả sử dụng nguyên nhiên liệu, năng lượng; nghiên cứu phát triển các loại vật
liệu mới, các kỹ thuật công nghệ cao như máy tính, điện tử, vi điện tử, tự động hoá,
sinh học... Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ vào nửa sau của thế kỷ 20 đã tạo
ra một bước ngoặt trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất
lao động và hiệu quả sản xuất của toàn xã hội, tác động sâu sắc đến mọi mặt của
đời sống kinh tế thế giới. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba đã dẫn đến sự
phát triển mạnh mẽ của các ngành chủ yếu như điện tử, năng lượng nguyên tử,
công nghệ hoá dầu, công nghệ hàng không vũ trụ, công nghệ sinh học, công nghệ
thông tin... và hình thành nên những phương thức, mô hình sản xuất mới với năng
suất và hiệu quả cao hơn, thúc đẩy sức sản xuất xã hội phát triển nhanh chóng. Dựa
trên những thành tựu đó, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã bùng nổ trên
phạm vi ngày càng rộng hơn và tác động ngày càng sâu sắc hơn đến sự phát triển
của nền kinh tế thế giới. Kết quả là kinh tế thế giới chuyển dần từ nền kinh tế công
nghiệp sang một loại hình kinh tế mới dựa trên chất xám và kỹ thuật, công nghệ
cao - kinh tế tri thức. Trong thế kỷ 20, sản xuất công nghiệp thế giới tăng 35 lần
trong khi thế kỷ 19 chỉ tăng 3 lần. Những thành tựu khoa học - công nghệ đã và sẽ
trực tiếp đi vào lực lượng sản xuất trong khoảng thời gian rất ngắn, trở thành lực
lượng sản xuất nòng cốt và trực tiếp của xã hội, tạo nên động lực chính của sự phát
triển của kinh tế thế giới trong những thập niên đầu của thế kỷ 21.
Dưới tác động của cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế thế giới có
những bước chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ, trong đó tỷ trọng giá trị nông nghiệp
không ngừng suy giảm; tỷ trọng công nghiệp có xu hướng thu hẹp ở các nước công


nghiệp phát triển nhưng vẫn tăng lên ở các nước đang phát triển; đồng thời tỷ trọng
ngành dịch vụ không ngừng mở rộng. Năm 1900, nông nghiệp chiếm 1/3 GDP thế
giới, đến nay chỉ còn khoảng 3%, trong khi công nghiệp chiếm 35% và dịch vụ
chiếm 60%. Thậm chí, ở nhiều nước công nghiệp phát triển, dịch vụ đã chiếm tới
hơn 75% lực lượng lao động, đóng góp gần 70% vào GDP.
1.2. Gắn liền với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ mới, nền kinh tế tri thức sẽ
là một đặc trưng nổi bật của kinh tế thế giới trong những thập kỷ đầu thế kỷ 21
Giá trị của các yếu tố đầu vào truyền thống như nguyên nhiên liệu, đất đai,
lao động phổ thông hoặc ít đào tạo ngày càng giảm. Trong khi chất xám, tri thức và
thông tin có vai trò ngày càng tăng và mang tính quyết định đối với các quá trình
sản xuất, phân phối, tiêu thụ và đóng góp tỷ lệ ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh
tế của mỗi quốc gia. Trong thời gian tới, tất cả các nước sẽ điều chỉnh lại cơ cấu
kinh tế theo hướng nâng cao vai trò chủ đạo và dẫn đầu của các ngành kinh tế dựa
trên các công nghệ mới và có hàm lượng chất xám cao để làm động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế.
1.3. Quá trình kép toàn cầu hoá - tự do hoá kinh tế và hội nhập quốc tế phát triển
mạnh thành một trào lưu bao trùm, cuốn hút hầu hết các nước
Sau chiến tranh lạnh, thế giới đã hình thành một thị trường rộng lớn và thống
nhất theo cơ chế thị trường làm cho quan hệ kinh tế, văn hoá giữa các nước phát
triển nhanh chóng. Sự vận động của các công ty xuyên quốc gia thông qua dịch
chuyển các yếu tố sản xuất (vốn, công nghệ, lao động...) cũng như sự mở rộng
những quan hệ kinh tế quốc tế như thương mại, đầu tư, vay nợ... ra phạm vi toàn
cầu đang thúc đẩy hình thành nên thị trường thế giới ngày càng thống nhất với
những “luật chơi” chung. Quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư cũng phát triển
mạnh, thúc đẩy xu thế toàn cầu hoá phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Toàn
cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới hiện nay thể hiện qua những xu
hướng chính:
(1) Xu hướng tăng cường hợp tác đa phương
Xu hướng tăng cường hợp tác đa phương thể hiện rõ nét qua việc ngày càng
có nhiều nước xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). WTO được

thành lập ngày 1/1/1995 với 124 thành viên là kết quả của vòng đàm phán Uruguay
kéo dài trong suốt 8 năm (1986-1994) nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của thương
mại thế giới, là sự kế thừa của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại
(GATT). Tính đến ngày 11/12/2005, tổ chức này đã kết nạp được 149 thành viên,
điều chỉnh 95-98% giá trị thương mại thế giới.
Năm 2001, sự kiện Trung Quốc (quốc gia đông dân nhất thế giới, với dân số
gần 1,3 tỷ người chiếm 1/5 thị trường tiêu dùng của thế giới) trở thành thành viên
của WTO tác động không nhỏ đến kinh tế - thương mại thế giới. Từ khi WTO khởi
đầu vòng đàm phán mới (vòng Doha) đã có một số nước đang phát triển gia nhập
vào tổ chức này. Một vài nước đã rút ngắn quá trình đàm phán thậm chí bỏ qua hầu
hết các bước để nhanh chóng được kết nạp. Nhân tố đó cho thấy WTO ngày càng
có một vai trò hấp dẫn hơn đối với các nền kinh tế đang phát triển trong bối cảnh
hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế.
(2) Xu hướng tự do hoá và khu vực hoá
Các khu thương mại tự do song phương (FTAs) và thoả thuận thương mại tự
do khu vực (RTAs) gia tăng nhanh chóng. Các FTAs và RTAs có mức độ ưu đãi
và tự do thương mại cao hơn quy chế tối huệ quốc (MFN) kéo theo những thay đổi
lớn trong cục diện thương mại giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Có
một số khu vực thương mại tự do lớn được hình thành là Liên minh Châu Âu (EU),
khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), thị trường chung Nam Mỹ
(MERCOSUR)...
Tính đến giữa năm 2003 có khoảng 250 hiệp định thương mại tự do song
phương và khu vực (trong đó có 33 RTAs). Dự tính đến cuối năm 2005 các FTA
đang được dự tính hoặc đã đi vào đàm phán được ký kết và có hiệu lực sẽ lên tới
300. Khu vực Đông á có Khu vực thương mại tự do ASEAN/AFTA, ASEAN + 3
(ASEAN + Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản); ASEAN + ấn Độ, ASEAN +
CER (Ô-xtrâylia, Niu Di-lân) đang hình thành từ nay đến năm 2010 với tổng số
dân trên 2 tỷ người. Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ và Mỹ La-tinh (gồm 33
nước với số dân 911 triệu người, GDP của khu vực này trên 11 nghìn tỷ USD) thực
hiện năm 2005 biến khu vực này thành FTA lớn nhất thế giới. ấn Độ, Pa-ki-xtan,

Nê-pan, Xri-lan-ka. Maldives, Băng-la-đét và Bu-tan đã ký thoả thuận thành lập
Khu vực thương mại tự do Nam á (khu vực chiếm 1/4 dân số thế giới, với cam kết
giảm thuế từ 25 - 30% xuống 5% trong vòng 7 - 10 năm). Việc EU mở rộng sang
phía Đông cũng là một sự kiện quan trọng: từ tháng 4/2004, EU có 25 nước thành
viên với số dân 455 triệu người, GDP khoảng 9 nghìn tỷ USD và sẽ là khối liên
minh kinh tế lớn nhất thế giới.
Trong bối cảnh đó, các nước trên thế giới đều tiến hành hội nhập kinh tế
quốc tế, phát huy lợi thế so sánh của mình cũng như tranh thủ vốn, công nghệ, thị
trường và tri thức quản lý - kinh doanh tiên tiến phục vụ cho phát triển kinh tế.
Không nước nào có thể đứng ngoài quá trình hội nhập nếu không muốn tự tách
mình khỏi trào lưu phát triển chung và bị tụt hậu.
(3) Thương mại dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong thương mại thế giới
Tự do hoá thương mại tiếp tục được đẩy mạnh và thương mại quốc tế tiếp
tục là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thế giới. Trong những thập kỷ qua, tốc
độ tăng trưởng của thương mại thế giới luôn luôn cao gấp đôi, gấp ba lần tốc độ
tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế thế giới. Hai thập niên đầu thế kỷ 21 là khoảng
thời gian có tính chất “quyết định” đối với sự phát triển của thương mại thế giới
trong nhiều thập kỷ tới. Trong thập niên đầu tiên sẽ diễn ra Vòng đàm phán Doha
của WTO, và những thoả thuận đạt được trong đàm phán về hai lĩnh vực nông
nghiệp và dịch vụ nhiều khả năng sẽ đưa lại một thời kỳ tăng trưởng cao hơn cho
thương mại thế giới.
Những năm đầu thế kỷ 21, do khó khăn của các nền kinh tế lớn, đầu tư nước
ngoài có chiều hướng suy giảm, đồng thời luồng đầu tư cũng nhằm vào những địa
điểm đầu tư an toàn và có lợi thế so sánh trong nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, khi
kinh tế thế giới phát triển khả quan trong những năm tới, luồng vốn đầu tư nước
ngoài cũng có xu hướng gia tăng và chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng đầu tư
trực tiếp do tồn tại những lượng vốn dư thừa khổng lồ. Đặc điểm mới là các nguồn
vốn sẽ chuyển hướng sang những địa bàn có cơ sở hạ tầng thông tin - viễn thông
hiện đại, có nguồn nhân công với tri thức và tay nghề cao. Bên cạnh đó, do tác
động của chủ nghĩa khủng bố quốc tế, tiêu chí “an toàn” trở nên ngày càng quan

trọng đối với các nhà đầu tư.
Các công ty đa quốc gia (TNC) ngày càng lớn mạnh và đóng vai trò động
lực với sự phát triển của kinh tế thế giới. Tốc độ gia tăng các công ty đa quốc gia
rất lớn, đến cuối thế kỷ 20 đã có hơn 60.000 công ty với khoảng 500.000 chi nhánh
trên toàn cầu và chiếm trên 30% tổng giá trị GDP toàn thế giới. Quy mô kinh
doanh, phạm vi và lĩnh vực hoạt động của các TNC không ngừng mở rộng. Từ cuối
thế kỷ 20, làn sóng mua bán, sáp nhập của các TNC đã hình thành nên các công ty
khổng lồ có mặt trên khắp các châu lục và chiếm thị phần quan trọng trên thị
trường thế giới. Thương mại giữa các công ty con của các TNC với nhau chiếm
khoảng 1/3 tổng giá trị thương mại thế giới; trên 4/5 đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
trên thế giới là của các TNC; và trên 9/10 thành quả nghiên cứu và triển khai kỹ
thuật và chuyển giao kỹ thuật trên thế giới nằm trong tay các TNC. Trong những
thập niên tới, các tập đoàn kinh tế khổng lồ có doanh số lớn hơn cả GDP của các
nước loại trung bình sẽ là chủ thể chính đẩy nhanh tốc độ toàn cầu hoá luồng vốn
đầu tư, thương mại quốc tế cũng như hoạt động chuyển giao công nghệ.
(4) Sự tăng cường chính sách bảo hộ với các rào cản thương mại hiện đại
Các nước ngày càng có xu hướng ít sử dụng những biện pháp bảo hộ mang
tính lộ liễu như áp đặt lệnh cấm, hạn chế số lượng hoặc áp đặt thuế suất nhập khẩu
cao. Thay vào đó, các biện pháp bảo hộ được lồng vào những lý do chính đáng như
để bảo vệ những ngành sản xuất trong nước trước những hành động thương mại
không lành mạnh, bảo vệ sức khoẻ con người, kiểm soát chất lượng, môi trường,
quy định về an toàn thực phẩm, điều kiện lao động, kiểm soát dịch bệnh, chống
bán phá giá, chống trợ cấp, ghi nhãn hàng hoá...
1.4. Trong nền kinh tế toàn cầu hoá, các nước ngày càng có xu hướng lựa chọn
chiến lược kinh tế phát triển bền vững
Trong những thập kỷ tới, quá trình toàn cầu hoá kinh tế phát triển mạnh mẽ
mang lại cho các quốc gia những cơ hội phát triển lớn lao nhưng đồng thời cũng đi
kèm với những thách thức không kém phần gay gắt, nhất là các thách thức về môi
trường - xã hội. Việc ký kết hàng loạt thoả thuận quốc tế về môi trường, ví dụ như
Nghị định thư Kyoto cụ thể hoá Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi

khí hậu, cùng với việc tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Toàn cầu về Phát triển bền
vững (Nam Phi, ngày 26/8-4/9/2002) cho thấy vấn đề phát triển bền vững đã trở
thành mối quan tâm hàng đầu của cộng đồng quốc tế. Do vậy, trong những thập kỷ
tới mô thức phát triển kinh tế bền vững sẽ dần trở thành lựa chọn phổ biến của các
quốc gia, nhằm cân bằng giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường tự nhiên và
giải quyết các vấn đề xã hội
1.5. Kinh tế thế giới sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều thách thức gay gắt trong
hai thập niên tới, trước hết là nguy cơ của khủng hoảng kinh tế - tài chính và chủ
nghĩa khủng bố quốc tế
Nguy cơ khủng hoảng kinh tế - tài chính: Quá trình toàn cầu hoá kinh tế đã
dẫn đến nhất thể hoá thị trường tài chính thế giới với sự phụ thuộc lẫn nhau ngày
càng tăng giữa các nền kinh tế - tài chính quốc gia. Chính sự luân chuyển tự do của
các dòng vốn trên thị trường tài chính quốc tế là nguy cơ gây ra các bất ổn về tài
chính tiền tệ, và các cuộc khủng hoảng nếu xảy ra ở một khu vực dù không lớn vẫn
có thể làm điêu đứng thị trường tài chính và kinh tế toàn cầu. Từ cuối thế kỷ 20,
cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực ở châu á đã ảnh hưởng lớn đến các
khu vực khác và kéo lùi tốc độ tăng trưởng của toàn bộ kinh tế thế giới.
Nguy cơ khủng bố quốc tế: Xu hướng gia tăng của chủ nghĩa khủng bố quốc
tế, xung đột vũ trang và tội phạm xuyên quốc gia cũng sẽ đặt ra nhiều rủi ro đối với
sự phát triển của kinh tế thế giới trong những thập niên đầu thế kỷ 21. Nếu không
có sự phối hợp hiệu quả hơn giữa các quốc gia để ngăn chặn những nguy cơ này,
lòng tin của người tiêu dùng và các nhà đầu tư sẽ bị ảnh hưởng rất lớn, từ đó có thể
dẫn đến những bất ổn, xáo trộn trong nền kinh tế thế giới. Khủng bố quốc tế sẽ làm
tăng chi phí sản xuất do các chính phủ, công ty đều phải chi tiêu nhiều hơn cho an
ninh, đồng thời dẫn đến sự chuyển dịch các luồng vốn đầu tư nước ngoài đến
những địa điểm an toàn hơn, mà hệ quả là các nước đang và kém phát triển sẽ là
những nước chịu thiệt hại nhiều nhất.
2. Kinh tế thế giới năm 2005 và triển vọng những năm tới
Năm 2005, bất chấp giá dầu lửa tăng cao cùng với thiên tai và dịch cúm gia
cầm hoành hành song nền kinh tế thế giới vẫn đạt mức tăng trưởng cao, ước đạt

4,8%; Trung Quốc là quốc gia có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất (9,9%), GDP của
ấn Độ tăng 8,3%. Xét theo khu vực thì mức tăng trưởng cao nhất thuộc về các thị
trường mới nổi và các quốc gia đang phát triển (7,2%), tiếp theo là các nước công
nghiệp mới ở Châu á (4,6%), mức tăng trưởng GDP chung của các nước phát triển
là 2,7%. Dự đoán năm 2006-07, kinh tế thế giới tiếp tục tăng trưởng, tốc độ tăng
bình quân của các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật, khu vực đồng Euro khoảng 2,7%.
Khối lượng thương mại dự kiến tăng 7% mỗi năm. Tuy nhiên, bên cạnh triển vọng
sáng sủa đó vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro: giá năng lượng còn tiếp tục tăng cao, sự gia
tăng chính sách bảo hộ của các nước công nghiệp, cúm gia cầm, sự mất cân đối của
cán cân thanh toán quốc tế ảnh hưởng tới khả năng điều chỉnh tỷ giá hối đoái và lãi
suất.
Khối lượng buôn bán hàng hoá năm 2005 tăng 6,2% phản ánh sự dịch
chuyển về địa lý trong thương mại: xuất khẩu của các nước công nghiệp chiếm tỷ
lệ thấp, trong khi thị phần của Trung Quốc trong thương mại toàn cầu tiếp tục tăng
ổn định, ước chiếm khoảng 7% kim ngạch xuất khẩu toàn cầu năm 2005 (so với
4,3% năm 2001). Cùng với kỳ vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2006, cầu
hàng điện tử hồi phục, thương mại toàn cầu được kỳ vọng sẽ tăng khoảng 7% năm
2006 - 07.
2.1. Kinh tế Mỹ
Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2005 của Mỹ là 3,5%, giảm so với 4,2% năm
2004. Chỉ số giá tiêu dùng ở mức 3,4% trong lúc giá thực phẩm và năng lượng tăng

×