Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

NHẬN ĐỊNH VỀ KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM KHI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.11 KB, 18 trang )

NHẬN ĐỊNH VỀ KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT
NAM KHI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Khi tham gia hội nhập, các doanh nghiệp Việt Nam phải từng bước tiếp cận
và mở rộng thị phần các sản phẩm của mình trên thị trường quốc tế, góp phần nâng
cao năng lực xuất khẩu của Việt Nam, tạo điều kiện đầu tư, phát triển chiều sâu
theo hướng chuyên môn hoá, tận dụng các lợi thế so sánh, thúc đẩy quá trình tham
gia vào sự phân công lao động quốc tế của Việt Nam. Mở rộng thị trường xuất
khẩu hiện đang là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của thương mại
Việt Nam và người thực hiện nhiệm vụ này không ai khác chính là các doanh
nghiệp. Giá trị kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp góp phần làm cân bằng
cán cân thương mại của Việt Nam, giảm nhập siêu, cơ cấu thị trường cân đối, hạn
chế những rủi ro trong thương mại quốc tế, ổn định mức tăng trưởng ngoại thương,
góp phần giữ mức tăng trưởng ổn định cho toàn bộ nền kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam hiện vẫn là các
hàng nông sản, nguyên liệu thô, các mặt hàng chưa qua chế biến… Yếu tố tư bản
vốn, hàm lượng tri thức và công nghệ trong các sản phẩm này không cao, chủ yếu
dựa vào yếu tố lao động hoặc điều kiện tự nhiên, do đó chất lượng sản phẩm hàng
hoá xuất khẩu thấp chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường quốc tế. Bên cạnh
đó, một số sản phẩm xuất khẩu chủ lực lại không hoàn toàn mang thương hiệu Việt
nam, ví dụ như dệt, may vì làm gia công chế biến cho nước ngoài. Vì vậy, giá trị
gia tăng và thu nhập thấp và do đó khả năng cạnh tranh của các sản phẩm này trên
thị trường quốc tế không cao.
Bảng: Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam
STT Mặt hàng Đơn vị 2001 2002 2003 2004 2005
1
1 Gạo Triệu tấn 3,7 3,2 3,8 4,1 4,5
2 Cà phê Nghìn tấn 931 722 749 975 850
3 Cao su Nghìn tấn 308 455 432 513 520
4
Dây điện và
dây cáp điện


Triệu USD 181 188 292 389 500
1 ước thực hiện
5 Chè Nghìn tấn 68 75 59 99 80
6 Hàng rau quả Triệu USD 344 221 151 179 230
7 Hạt điều Triệu USD 152 210 277 436 534
8 Hạt tiêu Triệu USD 91 110 105 153 131
9 Hàng thuỷ sản Triệu USD 1816 2036 2200 2401 2650
10 Hàng dệt may Triệu USD 1975 2732 3609 4386 4800
11 Hàng giầy dép Triệu USD 1587 1875 2261 2692 3000
12
Hàng điện tử
và linh kiện
Triệu USD 709 605 855 1075 1400
13 Dầu thô Triệu tấn 16,7 16,9 17,1 19,5 18,8
14 Than đá Triệu tấn 4,3 6,0 7,3 11,6 14
15 Sản phẩm gỗ Triệu USD 324 431 567 956 1450
Nguồn: MPI
Như vậy, với thực trạng về sản phẩm của doanh nghiệp nêu trên có thể nói
rằng, các doanh nghiệp Việt Nam rất khó cạnh tranh trên thị trường thế giới nếu
như không có sự thay đổi về mẫu mã, chủng loại cũng như chất lượng sản phẩm.
Bên cạnh đó, làm thế nào để các doanh nghiệp Việt Nam thích ứng với thị
trường trong quá trình hội nhập là cả một vấn đề không đơn giản. Mở cửa thị
trường, cùng với cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ, các doanh nghiệp Việt Nam
phải đối mặt với thách thức rất lớn là cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn trong thời gian qua, nhưng nhìn chung,
nền kinh tế Việt Nam vẫn còn những hạn chế cần khắc phục. Ở nhiều doanh
nghiệp, tính tự chủ không cao, khả năng vận hành và tính thích ứng với sự thay đổi
của môi trường kinh doanh còn hạn chế. Khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế phải đối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt với các
doanh nghiệp nước ngoài về thị trường hàng hoá và dịch vụ. Các doanh nghiệp

nước ngoài với ưu thế là nguồn vốn lớn, sản phẩm sản xuất trên nền tảng CNH,
HĐH, nên chất lượng và giá cả phù hợp, thêm vào đó là kinh nghiệm chiếm lĩnh
thị trường của những tập đoàn hàng đầu trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Sự
cạnh tranh này khiến các doanh nghiệp Việt Nam phải đứng trước hai sự lựa chọn :
- Chấp nhận sự cạnh tranh, liên tục đổi mới công nghệ, áp dụng khoa học - kỹ
thuật, vận hành hệ thống quản lý mới, cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ
giá thành, tăng cường dịch vụ nhằm để sản phẩm sản xuất ra có thể cạnh tranh với
sản phẩm cùng loại, chiếm lĩnh được thị trường, hướng tới xuất khẩu và dần tạo uy
thế trên thị trường.
- Doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh, bị đào thải khỏi thị trường.
Điều này có thể xảy ra với những doanh nghiệp quá yếu về tiềm lực kinh tế cũng
như thương hiệu, kinh nghiệm trên thương trường quốc tế. Sự đào thải của hàng
loạt doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả sẽ khiến số lao động thất nghiệp tăng cao.
Đây là một trong những vấn đề cần giải quyết nhằm bảo đảm sự phát triển ổn định
và bền vững.
Khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, thị trường nội địa sẽ
cạnh tranh khốc liệt hơn do hàng hoá từ các nước tràn vào. Nếu trước đây, hàng
Trung Quốc vào Việt Nam phải chịu thuế 40% thì nay chỉ còn 15% và sẽ tiến tới
0%. Vì vậy, sẽ không thể tránh khỏi tình trạng phá sản đối với một số doanh
nghiệp (DN) vừa và nhỏ, thậm chí kể cả DN lớn. Tuy nhiên, chúng ta cũng có
nhiều thuận lợi khi cánh cửa thị trường thế giới mở rộng. "Vòng kim cô" quota dệt
may từ thị trường lớn nhất, tiềm năng nhất là Mỹ sẽ được tháo bỏ. Một số thị
trường ở Nam Mỹ như Brazil, Uruguay, Paraguay... đang áp mức thuế cao đối với
hàng dệt may Việt Nam sẽ phải giảm thuế. Việc mở cửa thị trường thế giới sẽ
mang lại nhiều lợi thế, thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may tăng tốc.
Như phân tích ở trên, khả năng cạnh tranh của hầu hết các sản phẩm, hàng
hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp trong nước còn yếu, chúng ta sẽ phải đối phó
với những thách thức, bất lợi khi gia nhập WTO như thế nào? Là một nước nông
nghiệp, sản phẩm nông nghiệp của ta rất đa dạng, phong phú. Thế nhưng, sự thật
trớ trêu là có đến 70% mặt hàng rau quả tại các khách sạn, nhà hàng trên đất nước

ta có xuất xứ từ ngoại quốc. Còn tại thị trường các thành phố lớn, rau quả ngoại
quốc đang chiếm 20 - 30%! Chúng ta chưa vào WTO mà nhiều sản phẩm nông
nghiệp đã quá yếu thế trên sân nhà. Vậy, khi gia nhập WTO thì các doanh nghiệp
Việt Nam thật sự gặp rất nhiều thách thức, khó khăn đòi hỏi các doanh nghiệp phải
nỗ lực rất nhiều để thích ứng
Song điều đáng nói ở đây chính là những nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ
nước ngoài thường có tiềm lực tài chính mạnh hơn, có hàng hoá chất lượng tốt
hơn, mẫu mã đẹp hơn, có công nghệ phân phối, tiếp thị tốt hơn. Do đó, trong cuộc
cạnh tranh để cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho người tiêu dùng, doanh nghiệp nước
ngoài có sức mạnh hơn sẽ dễ "thắng" được các doanh nghiệp trong nước. Từ đó,
nguy cơ bị mất thị phần, mất thị trường trong nước, "thua" ngay trên "sân nhà" là
có thật. Tình trạng này xảy ra sớm hay muộn, xảy ra phổ biến hay không tuỳ thuộc
vào năng lực cạnh tranh, chống đỡ của doanh nghiệp trong nước.
Khi Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống thuế quan trở nên
minh bạch hơn. Do đó, khả năng tiên liệu về hoạt động sản xuất kinh doanh cũng
tăng lên khiến các doanh nghiệp Việt Nam có thể lập kế hoạch đầu tư và phát triển
dài hạn cho doanh nghiệp của mình. Khi hội nhập, đặc biệt là khi Việt Nam gia
nhập WTO thì việc đầu tiên Việt Nam (cũng như bất kỳ quốc gia hay vùng lãnh
thổ nào muốn gia nhập WTO) phải làm chính là đàm phán với các thành viên của
WTO về cắt giảm thuế quan, loại bỏ các hàng rào phi thuế quan nhằm tạo điều
kiện cho hàng hoá của các thành viên WTO thâm nhập vào. Để thực hiện các cam
kết khi đàm phán gia nhập WTO, hàng rào thuế quan phải hạ thấp xuống, đồng
thời các biện pháp phi thuế như cấm nhập, hạn chế số lượng nhập khẩu, quy định
phải có giấy phép... cũng không được áp dụng nữa. Lúc này, thị trường được "mở
cửa", doanh nghiệp nước ngoài được tự do tham gia buôn bán, cung cấp hàng hoá
như doanh nghiệp trong nước mà không bị phân biệt đối xử. Hàng hoá từ các nước
khác sẽ vào Việt Nam dễ dàng. Trong bối cảnh này, các doanh nghiệp trong nước
sẽ lâm vào tình trạng bị cạnh tranh bởi thị trường sẽ có thêm nhiều người cung cấp
hàng hoá, dịch vụ.


Hộp: Một số sản phẩm nhập khẩu từ Mỹ sẽ được giảm thuế nhập
khẩu
Việt Nam cam kết giảm thuế cho 80% các sản phẩm hóa chất -
chiếm đa số trong số các sản phẩm hóa chất Mỹ xuất khẩu vào Việt
Nam - xuống đến mức hài hũa theo quy định của Hiệp định về hài hũa
thuế trong lĩnh vực húa chất. Mức thuế giảm bỡnh quõn trong lĩnh vực
mỹ phẩm từ 44% xuống 17,9%. Thuế đối với dược phẩm sẽ ở mức
bỡnh quõn là 2,5% trong vũng 5 năm sau khi thực thi. Đối với các sản
phẩm nông nghiệp, hiện Việt Nam áp dụng mức thuế là 27%. Theo
thỏa thuận, mức thuế đối với 3/4 sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu từ
Mỹ vào Việt Nam sẽ cũn 15% hoặc thấp hơn. Các sản phẩm này bao
gồm: sợi cotton, thịt bũ khụng xương, nho, nho khô, táo...
Nguồn: Theo Thanh Niờn Online, ngày 01/06/2006
Theo các chuyên gia kinh tế, khi chưa là thành viên của WTO, thuế suất áp
dụng đối với các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam tại các thị trường có thể lên tới
30 - 40%; thậm chí nếu bị cáo buộc bán phá giá, có khi lên tới 50 - 70%. Nhưng,
khi đã là thành viên của WTO, mức thuế này sẽ hạ xuống còn 0 - 5% (nếu không
có tranh chấp thương mại). Như vậy, có thể thấy rằng, gia nhập WTO làm cánh
cửa xuất khẩu rộng mở đối với các doanh nghiệp Việt Nam, không những thế, các
doanh nghiệp còn được bảo vệ bởi các quy chế của WTO nếu xảy ra tranh chấp
thương mại. Tất cả các lĩnh vực từ văn bản pháp quy, bộ máy hành chính, tổ chức
doanh nghiệp… cũng phải cải thiện để phù hợp với các tiêu chuẩn mà WTO đưa
ra. Rõ ràng, xét về góc độ nào đó, chúng ta sẽ được hưởng lợi rất nhiều do WTO
mang lại, rõ nét nhất là khả năng tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong bối cảnh quá trình quốc
tế hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ thì các doanh nghiệp đóng vai trò rất
quan trọng đối với sự phát triển và hội nhập của nền kinh tế đất nước vì doanh
nghiệp là những chủ thể kinh tế tạo ra của cải vật chất cho xã hội, là nơi diễn ra cả
quá trình sản xuất và tiêu thụ, quá trình cung - cầu, quá trình mua - bán. Trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, doanh nghiệp là người đầu tiên tham gia và đóng vai

trò là cầu nối gắn kết các quá trình kinh tế trong nước với kinh tế khu vực và kinh
tế thế giới, qua đó góp phần sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực khan hiếm của
đất nước, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để tồn tại và phát
triển khi tham gia hội nhập thì khả năng thích ứng của doanh nghiệp đối với những
thay đổi là một trong những yếu tố quan trọng, khả năng thích ứng này được thể
hiện qua nhiều mặt, khía cạnh khác nhau của doanh nghiệp như vốn, nhân lực,
công nghệ, trình độ quản lý, hoạt động nghiên cứu thị trường và lựa chọn thị
trường mục tiêu văn hoá… của doanh nghiệp.
1. Khả năng thích ứng về vốn
Nội lực các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn rất yếu, hầu hết các doanh
nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu của Việt Nam có quy mô vừa và
nhỏ, tiềm lực về vốn rất hạn chế. Muốn tăng cường xuất khẩu, hàng hoá của doanh
nghiệp phải có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Vấn đề cốt lõi trong cạnh
tranh của hàng hoá là nội lực, năng lực sản xuất của các doanh nghiệp.
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tính đến ngày 01/01/2004, cả nước
có 72.012 doanh nghiệp thực tế hoạt động với tổng số vốn là 1.724.558 tỷ đồng
(nếu quy đổi ra đô la Mỹ (thời điểm năm 2003) thì quy mô vốn của các doanh
nghiệp ở Việt Nam chỉ tương đương với một tập đoàn đa quốc gia cỡ trung bình
trên thế giới). Trong đó doanh nghiệp nhà nước chiếm 59,0/% tổng vốn của doanh
nghiệp cả nước (1.018.615 tỷ đồng), doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm
19,55% (337.155 tỷ đồng), doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 21,44%
tổng vốn các doanh nghiệp cả nước (868.788 tỷ đồng). Xét riêng đối với mỗi
doanh nghiệp, vốn của từng doanh nghiệp rất nhỏ (năm 2004, bình quân mỗi doanh
nghiệp là 23,95 tỷ đồng), trong đó số doanh nghiệp có quy mô dưới 0,5 tỷ đồng có
18.790 doanh nghiệp (chiếm 26,09% tổng số doanh nghiệp), doanh nghiệp có quy
mô vốn từ 0,5 đến 1 tỷ đồng là 12.954 doanh nghiệp (chiếm 17,99%), số doanh
nghiệp có vốn từ 1 tỷ đồng đến 5 tỷ đồng là 24.737 doanh nghiệp (chiếm 34,35%),
số doanh nghiệp có vốn từ 5 đến 10 tỷ đồng là 5.496 doanh nghiệp (chiếm 7,63%),
số doanh nghiệp có số vốn từ 10 đến 50 tỷ là 6.648 doanh nghiệp (chiếm 9,23%),
số doanh nghiệp có số vốn từ 50 đến 200 tỷ đồng là 2.491 doanh nghiệp (chiếm

8,46%), số doanh nghiệp có vốn từ 200 đến 500 tỷ đồng là 586 doanh nghiệp
(chiếm O,81%), số doanh nghiệp cọ vốn trên 500 tỷ đồng là 310 doanh nghiệp
(chiếm 0,48% tổng số).
Như vậy, có thể thấy đại đa số các doanh nghiệp đang hoạt động trong tình
trạng không đủ vốn cần thiết, đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh
cũng như năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước và
quốc tế. Đây là điều đáng lo khi các chính sách - bảo hộ của Nhà nước đến năm
2006 hầu như không còn nữa vì theo lịch trình giảm thuế quan cho khu vực mậu
dịch tự do ASEAN - AFTA. Khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ dễ dàng bị các
tập đoàn lớn của các nước trong khu vực đánh bại.
Những khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn của các doanh nghiệp là
rất lớn, trong khi vốn tồn đọng còn nhiều trong các nguồn, nhất là trong các tầng
lớp dân cư và việc huy động vốn trong dân vào đầu tư sản xuất, kinh doanh chưa
được cải thiện. Các doanh nghiệp nhà nước được ưu đãi hơn về vốn trước hết là
được cấp vốn ban đầu từ ngân sách, cấp đất xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh...
Còn các doanh nghiệp ngoài Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
chủ yếu dựa vào vốn tự có của cá nhân, của các tổ choc kinh tế nước ngoài. Với
khả năng tiếp cận nguồn vốn hạn chế, các doanh nghiệp có tình trạng phổ biến là
chiếm dụng vốn lẫn nhau, làm lây nhiễm rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh
doanh giữa các doanh nghiệp.
2. Khả năng thích ứng của nguồn nhân lực
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thì khả năng thích ứng của đội ngũ lao động
trong các doanh nghiệp Việt Nam đối với môi trường làm việc mới có tác động rất
lớn tới năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp.
Việt Nam có một nguồn nhân lực dồi dào góp phần làm tăng khả năng cạnh
tranh của sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường.
Nhóm hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng khá lớn và đạt kim ngạch cao của Việt Nam
chủ yếu dựa vào các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh
về lực lượng lao động, chủ yếu dựa trên nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ.
Trong các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, hàng gia công còn chiếm tỷ

trọng lớn như dệt-may, giày, dép….. Những mặt hàng này, hiện nay đang có sức
cạnh tranh trên thị trường thế giới là do giá nhân công rẻ và sự khéo léo của đội
ngũ công nhân. Hiện nay, giá lao động của công nhân Việt Nam được đánh giá là
thấp trong khu vực. Giá lao động rẻ là một yếu tố tạo ra sức cạnh tranh cho những
ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động trong dây chuyền. Các doanh nghiệp
trong ngành công nghiệp lắp rắp điện tử, dệt-may…. cũng đang được phát triển
dựa trên lợi thế cạnh tranh về nguồn lao động khéo tay, giá nhân công rẻ.
Tuy nhiên, trong các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn một bộ phận không nhỏ
lao động không qua đào tạo, bù lại, đại đa số lao động là lao động trẻ, có sức khoẻ.
Thực tế cho they các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu tập trung trong các lĩnh
vực, sản phẩm có tỷ trọng tư bản vốn thấp, hàm lượng chất xám không cao, thích
hợp với hướng hoạt động kinh doanh sử dụng nhiều lao động thủ công, nâng cao
khả năng cạnh tranh nhờ chi phí lao động thấp, v.v… Tuy nhiên, nhìn ở góc độ dài
hạn, điều đó sẽ làm giảm đáng kể năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
3. Khả năng thích ứng về công nghệ
Việc đầu tư, đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam còn chậm,
trình độ công nghệ lạc hậu, nhất là chậm ứng dụng công nghệ thông tin và tự động
hoá trong các lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Về trình độ cơ khí hoá, tự

×