Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG CỦA DOANH NGHIỆP (2).doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.54 KB, 59 trang )

BAN NGUỒN VÀ PHÁT TRIỂN THÔNG TIN
TRUNG TÂM THÔNG TIN VÀ DỰ BÁO KINH TẾ-XÃ HỘI QUỐC GIA
KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG CỦA DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
CHƯƠNG I - CƠ SỞ LÝ LUẬN –
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế là một
phương thức chủ yếu và là xu thế phát triển không thể đảo ngược của nền kinh
tế thế giới hiện nay. Trong xu thế này, sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế trên thế giới nói chung và các thành phần trong nền kinh tế của mỗi
quốc gia nói riêng đang ngày một gia tăng, được thể hiện ở xu hướng tăng
cường các hoạt động hợp tác song phương, đa phương và các cấp độ liên kết khu
vực. Bởi vậy xu thế này đang chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia và quan hệ quốc tế bắt nguồn từ quy luật phát triển của lực lượng sản
xuất và sự phân công lao động quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện ở các biện pháp mở cửa thị trường, tự
do hoá nền kinh tế của một quốc gia hoặc việc tham gia của quốc gia này vào
các cam kết thoả thuận hợp tác kinh tế thương mại song phương (giữa hai nước
với nhau), khu vực (tham gia vào một tổ chức hợp tác giữa các nước trong cùng
một khu vực địa lý như khu vực Đông Nam á – ASEAN…), đa phương ở phạm
vi toàn cầu như tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới - WTO. Mục tiêu bao
trùm, lớn nhất và nhất quán của việc hội nhập kinh tế quốc tế, dù ở cấp độ đơn
phương của một quốc gia hay tham gia các định chế khu vực và toàn cầu đều
hướng tới việc tự do hoá thương mại, đầu tư ở tầm quốc gia, khu vực và thế giới.
Nắm bắt được xu thế khách quan của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế trên thế giới, Việt Nam đã tiến hành các chính sách đổi mới kinh
tế, mở cửa và cải cách nền kinh tế. Đối với nước ta, Đảng đã khẳng định: "Việt
Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển". Điều này chứng tỏ rằng, hội nhập
kinh tế quốc tế là một trong những quan điểm chiến lược, là con đường tất yếu


đất nước phải trải qua để tiến nhanh trở thành nước công nghiệp hoá hiện đại, là
con đường cả nước ta phải chủ động bước vào với quyết tâm chính trị cao nhất.
Bởi hội nhập kinh tế đặt các quốc gia, các nền kinh tế vào tình huống phải vận
động, phải năng động, đây vừa thách thức và cũng là thời cơ lớn, nếu không tận
dụng được thì đất nước tiếp tục lạc hậu, đói nghèo. Do vậy, tất yếu đòi hỏi Việt
Nam phải xử lý thành công mọi thách thức và nắm lấy mọi cơ hội trên con
đường hội nhập vào xu thế vận động của kinh tế thế giới ngày nay.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ hình thành một cơ cấu kinh tế chung
trên toàn cầu, một thị trường thế giới chung. Quá trình này vận động trên nền
tảng của nền kinh tế tự do cạnh tranh. Tự do cạnh tranh càng phát triển, thì thị
trường của nền kinh tế thế giới càng rộng, càng tự do. Thị trường càng rộng,
2
càng thông thoáng thì những nước mạnh về vỗn, giàu kinh nghiệm quản lý, nhạy
bén trong việc vận dụng thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến càng có nhiều
lợi thế, phần bất lợi thuộc về những nước đang phát triển, yếu về vốn, hạn chế
về kinh nghiệm quản lý và nhất là không tận dụng được những lợi thế do toàn
cầu hoá và cách mạng khoa học công nghệ mang lại.
Đối với các nước đang phát triển nói chung, Việt Nam nói riêng, hội nhập
kinh tế quốc tế vừa tạo ra nhiều cơ hội và cũng đặt ra không ít thách thức phải
vượt qua. Những nước phát triển và các tập đoàn kinh tế của họ đang chi phối
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các nước đang phát triển. Hố ngăn cách
giữa nước giàu với nước nghèo, giữa người giàu và người nghèo có nguy cơ
ngày càng sâu rộng; giá trị bản sắc văn hoá dân tộc ngày càng bị xói mòn; tính
phụ thuộc một chiều của các nước nghèo vào các nước giàu ngày càng gia tăng
nếu quốc gia đó không phát huy được hiệu quả nội lực và tận dụng tốt các nguồn
lực bên ngoài, .v.v.
Sau 11 năm nộp đơn, chuẩn bị các điều kiện và thực hiện đàm pháp gia
nhập WTO, mới đây Việt Nam đã kết thúc đàm phán song phương với Hoa Kỳ,
quốc gia cuối cùng trên con đường Việt Nam gia nhập WTO và nước ta sẽ chính
thức trở thành thành viên của Tổ chức kinh tế lớn nhất toàn cầu này trong một

tương lai rất gần.Việc gia nhập WTO thể hiện sự nỗ lực tổng hợp của nước ta,
đồng thời cũng thể hiện nước ta đã hoàn tất bước đi cuối cùng của quá trình
chuẩn bị để tham gia vào toàn bộ các thể chế hiện hành của kinh tế quốc tế.
Có thể nói rằng vấn đề chung nhất, tổng quát nhất, quan trọng nhất trong
hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay là làm thế nào để hội nhập có hiệu
quả, đảm bảo được lợi ích dân tộc, nâng cao được sức cạnh tranh của nền kinh
tế, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực
hiện thắng lợi mục tiêu chung là: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”.
I. Những vấn đề chung của hội nhập kinh tế quốc tế
Tiến trình hội nhập của nước ta vào kinh tế khu vực và thế giới đang đi
vào chiều sâu với việc thực hiện trên diện rộng các cam kết quốc tế mà nước ta
phải thực hiện. Xét trên bình diện kinh tế quốc tế, hội nhập là thước đo hiệu quả
của mọi nền kinh tế, nó đặt ra những chuẩn mực thương mại ngày càng cao hơn
và tác động mạnh mẽ tới diện mạo thương mại thế giới nói chung và bức tranh
kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng. Những diện mạo đó biểu hiện ở cả trạng thái
“động” lẫn trạng thái “tĩnh” và điều này hoàn toàn phụ thuộc vào sức mạnh của
mỗi nền kinh tế và cách tham gia của các chủ thể. Có thể thấy rằng việc đổi mới
chủ trương, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước là một
trong nguyên nhân quan trọng dẫn đến thành công trong phát triển kinh tế - xã
3
hội ở nước ta, nhưng đồng thời thực tiễn những năm vừa qua cũng đã bộc lộ
nhiều vấn đề cần phân tích lý giải. Dưới đây là một số vấn đề cơ bản của hội
nhập kinh tế đang đặt ra cho nước ta đòi hỏi sự đồng lòng, quyết tâm cao của
Nhà nước nói chung, của doanh nghiệp nói riêng,…để giải quyết tốt những vấn
đề đang đặt ra và có thể nảy sinh nhằm góp phần thành công vào tiến trình hội
nhập kinh tế:
1. Vấn đề hoàn thiện thế chế thương mại
Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải chấp nhận "luật chơi" và "cách
chơi" của các sân chơi khác nhau như: WTO, ASEAN, APEC..., song cho tới

nay cơ chế, hệ thống chính sách kinh tế, thương mại của nước ta vẫn còn nhiều
bất cập mặc dù đã có những điều chỉnh bổ sung tích cực. Bởi hiện nay, cơ chế,
hệ thống pháp luật chúng ta đang áp dụng vẫn còn có những yếu tố, những điều
khoản chưa phù hợp với "luật chơi" của WTO, ASEAN, APEC (chẳng hạn như
chính sách thuế của nước ta chưa thể hiện được như một công cụ kích thích và
điều tiết sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tăng cường sức cạnh tranh của các doanh
nghiệp, góp phần thu hút đầu tư nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế)
trong khi những biện pháp, chính sách mà được các tổ chức trên thừa nhận tạo
lợi thế cho kinh tế và thương mại thì chúng ta lại chưa có. Đây là một điểm yếu
mà Việt Nam cần lưu ý khắc phục.
Thể chế thương mại là những luật lệ, hình thức, các định chế và chế tài
quy định luật chơi và cách chơi đối với các chủ thể tham gia trên thị trường. Nền
kinh tế thương mại thế giới hiện nay đang vận động trong bối cảnh của quá trình
toàn cầu hoá và khu vực hoá diễn ra rất sâu sắc, nhanh chóng. Khái niệm về ranh
giới giữa thị trường trong nước với thị trường nước ngoài đã bị thay đổi theo
hướng đan xen với nhiều hình thức quan hệ đa dạng, phức tạp. Các chiến lược
phát triển hướng vào xuất khẩu hay thay thế nhập khẩu không còn giữ nguyên ý
nghĩa cổ điển của nó, bởi vì thị trường của mỗi quốc gia đều phải "mở cửa"
thông qua việc cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Các cuộc chiến
tranh thương mại nhằm giành giật thị trường giữa hàng nội và hàng ngoại ngày
một trở nên quyết liệt hơn.
Do đó, để đảm bảo một sân chơi cạnh tranh theo đúng chuẩn mực và
thông lệ quốc tế đòi hỏi nước ta phải hoàn thiện thể chế thương mại theo hướng
phù hợp với những nguyên tắc và thông lệ thương mại quốc tế. Đây là vấn đề
đang đặt ra những thách thức không nhỏ đối với nước ta bởi nước ta là một quốc
gia đang chuyển đổi nền kinh tế, việc tổng kết thực tiễn phát triển cũng như dự
báo kinh tế quốc tế còn hạn chế dẫn đến những khó khăn có tính chất cơ sở
trong việc hoàn thiện thể chế thương mại sao cho vừa phải phù hợp với những
chuẩn mực và thông lệ thương mại quốc tế, vừa phải phù hợp với thực tiễn và
bối cảnh cụ thể của nước ta.

4
2. Vấn đề về nâng cao năng lực cạnh tranh
Ngày nay, cạnh tranh là một quy luật tất yếu và là động lực phát triển nền
kinh tế thị trường. Trong thương mại quốc tế, cạnh tranh là sức mạnh mà hầu
hết các nền kinh tế thị trường tự do dựa vào để đảm bảo rằng các doanh nghiệp
thoả mãn được các nhu cầu và mong muốn của người tiêu dùng. Khi có cạnh
tranh, không một chính phủ nào cần phải quy định các doanh nghiệp sản xuất
mặt hàng gì với số lượng, chất lượng và giá cả thế nào. Cạnh tranh trực tiếp quy
định những vấn đề đó với các doanh nghiệp. Theo nhà kinh tế học Alan V.
Deardorff, khái niệm “năng lực cạnh tranh” thường dùng để nói đến các đặc
tính cho phép một hãng cạnh tranh một cách có hiệu quả với các hãng khác nhờ
có chi phí thấp hoặc sự vượt trội về công nghệ trong so sánh quốc tế.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước, tính đến
thời điểm hiện tại, nền sản xuất hàng hoá của Việt Nam mới ở giai đoạn đầu,
trình độ phát triển chung còn thấp, sức cạnh tranh của nền kinh tế, của các
doanh nghiệp còn yếu, sản phẩm của các doanh nghiệp làm ra mẫu mã nghèo
nàn, bao bì, nhãn mác xấu, thiếu các kênh phân phối, tiếp thị chưa bài bản, chi
phí đầu vào cao, nguyên liệu cho sản xuất có đến 80% phải nhập khẩu vừa làm
giảm lợi nhuận vừa dễ xảy ra rủi ro do giao hàng chậm vì không chủ động
nguyên liệu, trong khi đó hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi tính cạnh tranh ngày
càng cao, ngày càng hốc liệt. Vì vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế nói chung, của doanh nghiệp nói riêng trong tiến trình hội nhập là yêu
cầu sống còn đối với nước ta nếu không muốn bị thua ngay trên "sân nhà" nói
riêng, trên thương trường quốc tế nói chung. Do đó, đây vừa là một vấn đề, vừa
là một nội dung quan trọng trong bối cảnh mở cửa toàn diện nền kinh tế và hội
nhập kinh tế quốc tế hiệu quả.
2.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế (gồm năng lực cạnh tranh
quốc gia, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của hàng
hoá, dịch vụ) là nhiệm vụ trọng tâm và cơ bản để phát triển nền kinh tế thị

trường hiện đại trong hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Bởi xây dựng một
nền kinh tế thị trường năng động thì cạnh tranh được coi là công cụ hữu hiệu để
thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao hiệu quả và chất lượng, tạo dựng nên
những doanh nghiệp thành đạt, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và
quốc tế. Nói cách khác một nền kinh tế thị trường hiện đại là một nền kinh tế có
sức cạnh tranh cao của các yếu tố cấu thành của nền kinh tế đó. Điều này có
nghĩa là để sức cạnh tranh của nền kinh tế ngày càng cao, chúng ta phải có một
cơ cấu kinh tế hiện đại và thích ứng với cơ cấu kinh tế thế giới hôm nay. Thực tế
cho thấy sức cạnh tranh của nền kinh tế của ta còn thấp, doanh nghiệp của ta còn
yếu, trong khi đó hội nhập thì chúng ta phải mở cửa thị trường để hàng hoá nước
5
ngoài vào và điều này sẽ gây khó khăn cho nền kinh tế và doanh nghiệp nước ta.
Do đó, nếu không có những giải pháp đồng bộ, nếu không xây dựng được một
nền kinh tế có sức cạnh tranh cao hơn thì sẽ kéo theo nạn thất nghiệp gia tăng,
xã hội sẽ phức tạp và chúng ta sẽ là người tụt hậu, chúng ta sẽ ở lại cùng với sự
đói nghèo, trong lúc những người chiến thắng bứt lên phía trước.
2.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Doanh nghiệp đóng vai trò chủ yếu tạo ra sức cạnh tranh của hàng hoá và
dịch vụ. Để đáp ứng đòi hỏi của thị trường và yêu cầu hội nhập với kinh tế khu
vực và thế giới, vấn đề đặt ra là cần phải tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp. Bởi thực trạng hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam nói
chung còn thể hiện ở những bất cập sau đòi hỏi phải được khắc phục ngay:
Thứ nhất, khả năng cạnh tranh yếu về mặt tài chính. Quy mô vốn và năng
lực tài chính (kể cả vốn của chủ sở hữu và tổng nguồn vốn) của nhiều doanh
nghiệp còn rất nhỏ bé, vừa kém hiệu quả, vừa thiếu tính bền vững.
Thứ hai, khả năng cạnh tranh yếu về quản lý. Đội ngũ chủ doanh nghiệp,
giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp còn nhiều hạn chế về kiến thức và kỹ
năng quản lý. Số lượng doanh nghiệp có chủ doanh nghiệp, giám đốc giỏi, trình
độ chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn chủ
doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo bài bản về

kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế - xã hội và kỹ năng quản trị
kinh doanh, đặc biệt là yếu về năng lực kinh doanh quốc tế.
Thứ ba, năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
cao dẫn đến khả năng cạnh tranh yếu của của hàng hoá, dịch vụ và các doanh
nghiệp nước ta. Vấn đề này đã được nhiều nhà chuyên môn phân tích khi so
sánh giữa sản phẩm trong nước với các nước như Trung Quốc, Thái Lan,
Malaysia, Philipines.
Thứ tư, nhận thức và sự chấp hành luật pháp còn hạn chế làm ảnh hưởng
đến khả năng cạnh tranh. Một số khá lớn doanh nghiệp nước ta còn chưa chấp
hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, đặc biệt là các quy định về thuế,
quản lý tài chính, quản lý nhân sự, chất lượng hàng hoá và sở hữu công nghiệp.
Tình trạng các doanh nghiệp bị các cơ quan chức năng phàn nàn, thậm chí “thổi
còi” vì vi phạm các chế độ về thuế, tài chính còn khá phổ biến. Một trong những
nguyên nhân của tình trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này cũng là do việc
nhận thức, hiểu biết của doanh nghiệp về luật pháp còn nhiều hạn chế.
Để vượt qua những hạn chế nêu trên, con đường phát triển duy nhất là nâng
cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, hàng hoá và dịch vụ của nước ta. Vì
nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, hàng hoá và dịch vụ chính là
6
nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí, hạ giá thành. Tuy nhiên vấn đề này
cũng còn phụ thuộc vào cả chính sách quốc gia.
3. Vấn đề xây dựng và quảng bá thương hiệu trong bối cảnh hội nhập
Trong thời đại mở cửa, hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, rõ ràng không
ai là không biết đến các giá trị của thương hiệu. Cụm từ "thương hiệu" được nói
đến đầu tiên khi lý giải về sự thành công của một sản phẩm hàng hoá, dịch vụ
hoặc một doanh nghiệp nào đó. Thậm chí, một ca sĩ tên tuổi được mời biểu diễn
liên tục nhiều nơi, một diễn viên được mời đóng nhiều phim người ta cũng cho
là do...."có thương hiệu".
Ngày nay, một quốc gia mạnh về kinh tế là quốc gia sở hữu những doanh
nghiệp mạnh và năng động. Một doanh nghiệp mạnh là doanh nghiệp sở hữu

những thương hiệu mạnh phục vụ cho mục tiêu quốc gia. Một thương hiệu tầm
cỡ quốc tế không chỉ đơn thuần là tài sản của bản thân doanh nghiệp mà chính
là niềm kiêu hãnh của cả một quốc gia, là niềm cảm hứng cho các thương hiệu
khác vươn lên mạnh mẽ.
Tầm quan trọng của thương hiệu hầu như không còn được bàn cãi nữa.
Nhưng trên thực tế, thực trạng xây dựng và quảng bá thương hiệu ở các doanh
nghiệp Việt Nam còn yếu và chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế và đang đặt ra những thách thức không nhỏ cho việc xây dựng và quản bá
thương hiệu Việt Nam. Do đó mà yêu cầu cấp thiết đang đặt ra cho Việt Nam là
làm gì để khẳng định và quảng bá thương hiệu trong bối cảnh hội nhập sâu vào
kinh tế quốc tế. Đặc biệt, khi thương hiệu đã trở thành tài sản của doanh nghiệp,
thì một yêu cầu bức xúc lại đặt ra là làm thế nào để bảo vệ thương hiệu của mình
trước nạn xâm phạm thương hiệu đang xảy ra ngày càng nhiều trên thị trường.
Thương hiệu thành công là phải tạo được cảm giác thân quen với người tiêu
dùng.
3.1. Xây dựng thương hiệu
Trong bối cảnh hội nhập và mở cửa nền kinh tế, không ai có thể phủ
nhận giá trị của thương hiệu trong kinh doanh và câu chuyện thương hiệu đã
trở thành một vấn đề thời sự trong kinh doanh, song nhiều doanh nghiệp và
các tập đoàn kinh tế Việt Nam chưa thực sự quan tâm đến việc đầu tư cho
thương hiệu của mình, đặc biệt là trong tiến trình hội nhập như hiện nay.Tuy
nhiên, việc đầu tư để xây dựng một thương hiệu tầm cỡ cũng đang là vấn đề
đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi tập đoàn kinh tế và mỗi doanh nghiệp của
nước ta.
3.2. Đăng ký thương hiệu hàng hoá
7
Hội nhập, thương hiệu hàng hoá phải trở thành tài sản quan trọng của
mỗi doanh nghiệp, phát triển thương hiệu là quá trình tạo lập uy tín đối với
người tiêu dùng và giúp cho doanh nghiệp thực hiện được kinh doanh lợi
nhuận. Như vậy, Thương hiệu sản phẩm đã trở thành tài sản vô hình có giá trị

rất lớn (trong đa số trường hợp còn lớn hơn tài sản hữu hình) và không thể
thiếu của các doanh nghiệp vì giá trị của tài sản phụ thuộc vào uy tín và quy
mô thương hiệu được sử dụng, nó sẽ là một công cụ đắc lực cho kinh doanh,
và sẽ là nguồn vốn rất có giá trị khi doanh nghiệp thực hiện việc chuyển
nhượng, bán li-xăng hoặc liên doanh. Vì thế, thương hiệu hàng hoá khi đã
được xây dựng, các doanh nghiệp cần phải đăng ký trong tiến trình hội nhập
vào thị trường thế giới.
3.3. Bảo hộ thương hiệu bằng luật pháp
Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và quyền lợi chính đáng của
nhà sản xuất, Nhà nước cần phải ban hành Luật nhãn hiệu hàng hoá phù hợp
với các chuẩn mực thương mại quốc tế. Đồng thời, Luật nhãn hiệu hàng hoá
phải có hiệu lực và hiệu quả trong việc ngăn chặn không cho phép bên thứ 3
sử dụng hàng hoá trùng sản phẩm cùng loại với nhãn hiệu đã được đăng ký,
mà còn ngăn chặn cả việc sử dụng nhãn hiệu hàng hoá tương tự cho các sản
phẩm tương tự, nếu việc sử dụng này gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về
nguồn gốc hàng hoá.
II. Một số vấn đề cơ bản của hội nhập khu vực và gia nhập WTO
1. Khu vực ASEAN
Trong bối cảnh hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đơn thuần
giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất cả lĩnh
vực liên quan đến chính sách kinh tế thương mại, nhằm mục đích mở cửa thị
trường cho hàng hoá và dịch vụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối
với trao đổi thương mại. Các tranh chấp thương mại quốc tế dưới nhiều hình
thức sẽ ngày càng phổ biến. Đối với ASEAN,việc thực hiện trên diện rộng các
cam kết cắt giảm thuế trong khuôn khổ ASEAN (AFTA) vào năm nay(2006),
Việt Nam sẽ đưa 96% số dòng của biểu thuế với khoảng trên 10.000 mặt hàng
về mức 0-5% đồng thời bắt đầu lộ trình cắt giảm thuế đối với các mặt hàng
thuộc diện “nhạy cảm”. Các sản phẩm của Việt Nam, đặc biệt là hàng tiêu
dùng, sẽ đứng trước sức ép cạnh tranh quyết liệt với hàng nhập khẩu từ các
nước ASEAN.

Bên cạnh sức ép cạnh tranh với hàng hoá của các nước trong khối
ASEAN thì việc xây cộng đồng ASEAN vững mạnh còn là một trong những
nhiệm vụ cơ bản của nước ta. Bởi nước ta là một thành viên quan trọng của
Hiệp hội Đông Nam Á. Ngoài hội nhập kinh tế thế giới, chúng ta phải góp phần
8
củng cố ASEAN thành cộng đồng vững mạnh, đây là nhiệm vụ quốc tế quan
trọng không chỉ riêng Việt Nam mà còn tất cả các thành viên trong khối. Bởi
một điều chắc chắn rằng, Đông Nam á cho đến nay vẫn là vùng đệm, vùng
tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế
mà nước ta ở vào vị trí quan trọng, được các nước lớn quan tâm. ASEAN trở
thành cộng đồng vững mạnh với vai trò ngày càng tăng của nước ta sẽ tạo ra lợi
thế quan trọng cho ASEAN, trong đó tất nhiên có Việt Nam, quan hệ bình đẳng
và thu hút được nhiều hơn nguồn lực từ các nước lớn. Một khi ASEAN bị phân
rã, các nước lớn có cơ hội dùng chính sách "chia để trị". Do vậy, nước ta cần
đóng vai trò tích cực hơn trong tiến trình củng cố cộng đồng ASEAN. Chúng ta
phải vượt lên những tính toán kinh tế vì ý nghĩa chính trị to lớn của ASEAN, vì
vị thế của ASEAN cũng như của nước ta trước những toan tính chiến lược của
các nước lớn.
2. Việc gia nhập WTO
2.1. Vài nét về WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thành lập ngày 01-01-1995 với tư
cách là thể chế pháp lý điều tiết các mối quan hệ kinh tế - thương mại quốc tế
mang tính toàn cầu. WTO ra đời trên cơ sở kế thừa tất cả các nguyên tắc, luật lệ
của tổ chức tiền thân đã tồn tại gần 50 năm trước đó là Hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại (GATT).
2.1.1. WTO có các chức năng cơ bản sau:
- Quản lý việc thực hiện các hiệp ước của WTO
- Diễn đàn đàm phán về thương mại
- Giải quyết các tranh chấp về thương mại
- Giám sát các chính sách thương mại của các quốc gia

- Trợ giúp kỹ thuật và huấn luyện cho các nước đang phát triển
- Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác
2.1.2. Những nguyên tắc, luật lệ, quy định cơ bản của WTO
WTO hoạt động dựa trên một số nguyên tắc làm nền tảng cho hệ thống
thương mại thế giới là:
- Thương mại không phân biệt đối xử (thông qua nguyên tắc tối huệ quốc và
nguyên tắc đối xử quốc gia);
- Thương mại ngày càng tự do hơn (bằng con đường đàm phán);
- Dễ dự đoán (tức có thể dự đoán trước được) nhờ cam kết, ràng buộc, ổn
định và minh bạch;
9
- Tạo ra (nhằm thúc đẩy) môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn;
- Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế (bằng cách dành ưu đãi hơn
cho các nước kém phát triển nhất).
(1). Thương mại không phân biệt đối xử
Nguyên tắc này thể hiện ở hai nguyên tắc: đối xử tối huệ quốc và đối xử
quốc gia.
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN):
"Tối huệ quốc" có nghĩa là "nước (được) ưu đãi nhất", "nước (được) ưu tiên
nhất".
Nội dung của nguyên tắc này thực chất là việc WTO quy định rằng, các
quốc gia không được phân biệt đối xử với các đối tác thương mại của mình.
Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này như sau: mỗi thành viên của WTO
phải đối xử với các thành viên khác của WTO một cách công bằng như những
đối tác "ưu tiên nhất". Nếu một nước dành cho một đối tác thương mại của
mình một hay một số ưu đãi nào đó thì nước này cũng phải đối xử tương tự như
vậy đối với tất cả các thành viên còn lại của WTO để tất cả các quốc gia thành
viên đều được "ưu tiên nhất". Và như vậy, kết quả là không phân biệt đối xử với
bất kỳ đối tác thương mại nào.
Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT):

"Đối xử quốc gia" nghĩa là đối xử bình đẳng giữa sản phẩm nước ngoài và
sản phẩm nội địa.
Nội dung của nguyên tắc này là hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá tương tự
sản xuất trong nước phải được đối xử công bằng, bình đẳng như nhau.
Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này như sau: bất kỳ một sản phẩm nhập
khẩu nào, sau khi đã qua biên giới, trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại
cửa khẩu, bắt đầu đi vào thị trường nội địa, sẽ được hưởng sự đối xử ngang bằng
(không kém ưu đãi hơn) với sản phẩm tương tự được sản xuất trong nước.
Có thể hình dung đơn giản về hai nguyên tắc nêu trên như sau: Nếu nguyên
tắc "tối huệ quốc" nhằm mục tiêu tạo sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa
các nhà xuất khẩu hàng hoá, cung cấp dịch vụ... của các nước A, B, C...khi xuất
khẩu vào một nước X nào đó thì nguyên tắc "đãi ngộ quốc gia" nhằm tới mục
tiêu tạo sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ của doanh
nghiệp nước A với hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp nước X trên thị trường
nước X, sau khi hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp nước A đã thâm nhập (qua
hải quan, đã trả thuế và các chi phí khác tại cửa khẩu) vào thị trường nước X.
10
(2). Thương mại ngày càng tự do hơn (từng bước và bằng con đường đàm
phán)
Để thực thi được mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư, mở cửa thị
trường, thúc đẩy trao đổi, giao lưu, buôn bán hàng hoá, việc tất nhiên là phải cắt
giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các hàng rào phi thuế quan (cấm, hạn chế, hạn
ngạch, giấy phép...). Trên thực tế, lịch sử của GATT và sau này là WTO đã cho
thấy đó chính là lịch sử của quá trình đàm phán cắt giảm thuế quan, rồi bao trùm
cả đàm phán dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan, rồi dần dần mở rộng sang đàm
phán cả những lĩnh vực mới như thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ...
Tuy nhiên, trong quá trình đàm phán, mở cửa thị trường, do trình độ phát
triển của mỗi nền kinh tế của mỗi nước khác nhau, "sức chịu đựng" của mỗi nền
kinh tế trước sức ép của hàng hoá nước ngoài tràn vào do mở cửa thị trường là
khác nhau, nói cách khác, đối với nhiều nước, khi mở cửa thị trường không chỉ

có thuận lợi mà cũng đưa lại những khó khăn, đòi hỏi phải điều chỉnh từng bước
nền sản xuất trong nước. Vì thế, các hiệp định của WTO đã được thông qua với
quy định cho phép các nước thành viên từng bước thay đổi chính sách thông qua
lộ trình tự do hoá từng bước. Sự nhượng bộ trong cắt giảm thuế quan, dỡ bỏ các
hàng rào phi thuế quan được thực hiện thông qua đàm phán, rồi trở thành các
cam kết để thực hiện.
(3). Dễ dự đoán nhờ cam kết, ràng buộc, ổn định và minh bạch
Đây là nguyên tắc quan trọng của WTO. Mục tiêu của nguyên tắc này là các
nước thành viên có nghĩa vụ đảm bảo tính ổn định và có thể dự báo trước được
về các cơ chế, chính sách, quy định thương mại của mình nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu tư, kinh doanh nước ngoài có thể hiểu, nắm bắt được
lộ trình thay đổi chính sách, nội dung các cam kết về thuế, phi thuế của nước
chủ nhà để từ đó doanh nghiệp có thể dễ dàng hoạch định kế hoạch kinh doanh,
đầu tư của mình mà không bị đột ngột thay đổi chính sách làm tổn hại tới kế
hoạch kinh doanh của họ. Nói cách khác, các doanh nghiệp nước ngoài tin chắc
rằng hàng rào thuế quan, phi thuế quan của một nước sẽ không bị tăng hay thay
đổi một cách tuỳ tiện. Đây là nỗ lực của hệ thống thương mại đa biên nhằm yêu
cầu các thành viên của WTO tạo ra một môi trường thương mại ổn định, minh
bạch và dễ dự đoán.
Nội dung của nguyên tắc này bao gồm các công việc như sau:
- Về các thoả thuận cắt giảm thuế quan:
Bản chất của thương mại thời WTO là các thành viên dành ưu đãi, nhân
nhượng thuế quan cho nhau. Song để chắc chắn là các mức thuế quan đã đàm
phán phải được cam kết và không thay đổi theo hướng tăng thuế suất, gây bất lợi
cho đối tác của mình, sau khi đàm phán, mức thuế suất đã thoả thuận sẽ được
11
ghi vào một bản danh mục thuế quan. Đây gọi là các mức thuế suất ràng buộc.
Nói cách khác, ràng buộc là việc đưa ra danh mục ấn định các mức thuế ở mức
tối đa nào đó và không được phép tăng hay thay đổi theo chiều hướng bất lợi
cho các doanh nghiệp nước ngoài. Một nước có thể sửa đổi, thay đổi mức thuế

đã cam kết, ràng buộc chỉ sau khi đã đàm phán với đối tác của mình và phải đền
bù thiệt hại do việc tăng thuế đó gây ra.
- Về các biện pháp phi thuế quan:
Biện pháp phi thuế quan là biện pháp sử dụng hạn ngạch hoặc hạn chế định
lượng khác như quản lý hạn ngạch. Các biện pháp này dễ làm nảy sinh tệ nhũng
nhiễu, tham nhũng, lạm dụng quyền hạn, bóp méo thương mại, gây khó khăn
cho doanh nghiệp, làm cho thương mại thiếu lành mạnh, thiếu minh bạch, cản
trở tự do thương mại. Do đó, WTO chủ trương các biện pháp này sẽ bị buộc
phải loại bỏ hoặc chấm dứt.
Để có thể thực hiện được mục tiêu này, các hiệp định của WTO yêu cầu
chính phủ các nước thành viên phải công bố thật rõ ràng, công khai ("minh
bạch") các cơ chế, chính sách, biện pháp quản lý thương mại của mình. Đồng
thời, WTO có cơ chế giám sát chính sách thương mại của các nước thành viên
thông qua Cơ chế rà soát chính sách thương mại.
(4). Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn
Trên thực tế, WTO tập trung vào thúc đẩy mục tiêu tự do hoá thương mại
song trong rất nhiều trường hợp, WTO cũng cho phép duy trì những quy định về
bảo hộ. Do vậy, WTO đưa ra nguyên tắc này nhằm hạn chế tác động tiêu cực
của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp...hoặc
các biện pháp bảo hộ khác.
Để thực hiện được nguyên tắc này, WTO quy định trường hợp nào là cạnh
tranh bình đẳng, trường hợp nào là không bình đẳng từ đó được phép hay không
được phép áp dụng các biện pháp như trả đũa, tự vệ, chống bán phá giá...
(5). Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế bằng cách dành ưu đãi
hơn cho các nước kém phát triển nhất
Các nước thành viên, trong đó có các nước đang phát triển, thừa nhận rằng
tự do hoá thương mại và hệ thống thương mại đa biên trong khuôn khổ của
WTO đóng góp vào sự phát triển của mỗi quốc gia. Song các thành viên cũng
thừa nhận rằng, các nước đang phát triển phải thi hành những nghĩa vụ của các
nước phát triển. Nói cách khác, "sân chơi" chỉ là một, "luật chơi" chỉ là một,

song trình độ "cầu thủ" thì không hề ngang nhau. Trong khi đó, hiện số thành
viên của WTO là các nước đang phát triển và các nước đang trong quá trình
chuyển đổi nền kinh tế chiếm hơn 3/ 4 số nước thành viên của WTO. Do đó,
12
WTO đã đưa ra nguyên tắc này nhằm khuyến khích phát triển và cải cách kinh
tế ở các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi bằng cách dành cho
những nước này những điều kiện đối xử đặc biệt và khác biệt để đảm bảo sự
tham gia sâu rộng hơn của các nước này vào hệ thống thương mại đa biên.
Để thực hiện nguyên tắc này, WTO dành cho các nước đang phát triển, các
nước có nền kinh tế đang chuyển đổi những linh hoạt và ưu đãi nhất định trong
việc thực hiện các hiệp định của WTO. Chẳng hạn, WTO cho phép các nước
này một số quyền và không phải thực hiện một số quyền cũng như một số nghĩa
vụ hoặc cho phép các nước này một thời gian linh động hơn trong việc thực hiện
các hiệp định của WTO, cụ thể là thời gian quá độ thực hiện dài hơn để các
nước này điều chỉnh chính sách của mình. Ngoài ra, WTO cũng quyết định các
nước kém phát triển được hưởng những hỗ trợ kỹ thuật ngày một nhiều hơn.
2.2. Gia nhập WTO, những vấn đề cần quan tâm
Gia nhập WTO trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế là một quá trình mà
trọng tâm là chủ động mở cửa kinh tế, tham gia phân công hợp tác quốc tế tạo
điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong nước và nước ngoài, mở rộng
không gian và môi trường để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp trong quan
hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập giúp cho việc mở rộng cơ hội kinh doanh, thâm
nhập thị trường thế giới, từ đó có điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ cấu kinh tế
hợp lý, phát triển kinh tế trong nước. Bởi vậy, gia nhập WTO là một tất yếu,
mang lại vận hội mới cho Việt Nam nói chung, nhưng đồng thời cũng là thử
thách cam go đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp hoạt động
trong các lĩnh vực, các ngành từ trước được hỗ trợ từ chính phủ hoặc chưa chuẩn
bị kỹ càng cho việc này.
Qua nỗ lực vận động gia nhập vào WTO để nuôi dưỡng đà phát triển kinh
tế. Gắn liền với ý nghĩa hội nhập toàn cầu là ý niệm một cộng đồng toàn cầu

được hình thành với một tiếng nói phản ảnh quan điểm và chủ trương chung về
những vấn đề kinh tế - chính trị - văn hoá, như “giá trị toàn cầu”, và một “trật tự
dân chủ toàn cầu”. Khi vào WTO, tức là Việt Nam sẽ tiến sâu vào đổi mới, mở
cửa kinh tế thì bên cạnh những cơ hội, việc gia nhập WTO cũng tạo ra một số
khó khăn, thách thức cần phải vượt qua. Đó là:
(1) Sức ép cạnh tranh
Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, loại bỏ trợ cấp, mở cửa thị
trường dịch vụ… sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên
cạnh tranh hơn. Đây sẽ là thách thức không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp,
nhất là những doanh nghiệp đã quen với "bầu vú bao cấp" của Nhà nước. Tuy
nhiên, các doanh nghiệp sẽ không có cách nào khác là chủ động và sẵn sàng
đối diện với thách thức này bởi đó là hệ quả tất yếu của sự phát triển, là chặng
13
đường mà mọi quốc gia đều phải đi qua trên con đường hướng tới hiệu quả và
phồn vinh. Dù không gia nhập WTO thì thách thức này sớm hay muộn cũng sẽ
đến.
(2) Thách thức của chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Một trong những hệ quả tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế là chuyển
dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực. Dưới sức ép của cạnh tranh, một ngành sản
xuất không hiệu quả sẽ phải mất đi để nhường chỗ cho một ngành khác có hiệu
quả hơn. Điều này có nghĩa là để sức cạnh tranh của nền kinh tế ngày càng
cao, chúng ta phải có một cơ cấu kinh tế hiện đại và thích ứng với cơ cấu kinh
tế thế giới ngày nay
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, trong
đó có cả những rủi ro về mặt xã hội ( ví như chuyển dịch lao động nông
nghiệp sang công nghiệp hoặc dịch vụ mà không có được sự chuyển bị tốt
trước về trình độ và kỹ năng cho người lao động..). Đây là thách thức hết sức
to lớn. Chúng ta chỉ có thể vượt qua được thách thức này nếu có chính sách
đúng đắn nhằm tăng cường hơn nữa tính năng động và khả năng thích ứng
nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, cũng cần củng cố và tăng cường

các giải pháp an sinh xã hội để khôi phục những khó khăn ngắn hạn.
(3) Thách thức của việc hoàn thiện thể chế và cải cách nền hành chính
quốc gia.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan
đến kinh tế - thương mại, Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm khi gia nhập
WTO. Trước hết, phải liên tục hoàn thiện các quy định về cạnh tranh để đảm
bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hội nhập. Sau đó,
phải liên tục hoàn thiện môi trường kinh doanh để thúc đẩy tính năng động và
khả năng thích ứng nhanh, yếu tố quyết định sự thành bại của chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và bố trí lại nguồn lực. Cuối cùng, những cam kết mở cửa thị
trường của ta là cam kết theo lộ trình nên tiến trình hoàn thiện khuôn khổ pháp
lý sẽ còn tiếp tục diễn ra trong một thời gian dài.
Một trong những nguyên tắc chủ đạo của WTO là minh bạch hoá. Đây
là thách thức to lớn đối với mọi nền hành chính quốc gia. Khi gia nhập WTO,
nền hành chính quốc gia chắc chắn sẽ phải có sự thay đổi theo hướng công
khai hơn và hiệu quả hơn. Đó phải là một nền hành chính vì quyền lợi chính
đáng của doanh nghiệp và doanh nhân, coi trọng doanh nghiệp và doanh nhân
hơn nữa, khắc phục "sức ỳ" của tư duy và khắc phục mọi biểu hiện trì trệ, vô
trách nhiệm. Nếu không tạo ra được một nền hành chính như vậy, sẽ không thể
tận dụng được các cơ hội do việc gia nhập WTO đem lại.
14
Hội nhập là tất yếu của mọi nền kinh tế. Chúng ta có khó khăn khi hội
nhập trong điều kiện kinh tế đang phát triển và đang trong quá trình chuyển
đổi. Tuy nhiên, các nền kinh tế phát triển hơn Việt Nam cũng đều phải trải qua
một quá trình cải cách thể chế, xây dựng pháp luật, điều chỉnh cơ cấu... để
thực thi các cam kết của WTO tương tự như chúng ta đang làm. Bởi vậy, việc
đổi mới phương thức quản lý, tăng cường hiệu quả của bộ máy hành chính và
nâng cao năng lực của các doanh nghiệp sẽ là những yêu cầu tất yếu để chúng
ta có thể tận dụng các thời cơ mà hội nhập quốc tế đem lại.
(4) Thách thức về nguồn nhân lực

Để quản lý một cách nhất quán toàn bộ tiến trình hội nhập, hoàn thiện
khuôn khổ pháp lý, tạo dựng môi trường cạnh tranh năng động và cải cách có
hiệu quả nền hành chính quốc gia, bên cạnh quyết tâm về mặt chủ trương, cần
phải có một đội ngũ cán bộ đủ mạnh xuyên suốt từ Trung ương tới địa
phương. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với nước ta do phần đông cán
bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành một nền kinh tế mở, có sự
tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự chuẩn bị từ bây giờ, thách
thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Ngoài ra,
để tận dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và tham gia có hiệu
quả vào các cuộc đàm phán trong tương lai của tổ chức này, chúng ta cũng cần
phải có một đội ngũ cán bộ thông thạo qui định và luật lệ của WTO, có kinh
nghiệm và kỹ năng đàm phán quốc tế.
(5) Những ảnh hưởng xã hội
Tự do hoá thương mại toàn cầu có tác động mạnh đến thu nhập của người
lao động và có thể làm trầm trọng thêm khoảng cách giàu nghèo. Khi vào WTO,
tiền lương của lao động lành nghề sẽ tăng cùng với nguy cơ mất việc làm và
mức độ cải thiện thấp của lao động không có kỹ năng.
Việc cắt giảm trợ cấp nông sản và dỡ bỏ hàng rào thuế quan ảnh hưởng
trực tiếp đến thu nhập của nông dân; mặt khác, do năng suất lao động và trình độ
kỹ thuật có nhiều cách biệt nên khoảng cách thu nhập của lao động trong sản
xuất công nghiệp và nông nghiệp có xu hướng gia tăng. Thực tế này khiến chênh
lệch giàu – nghèo giữa khu vực thành thị và nông thôn sẽ ngày càng lớn, nếu
không xử lý tốt, có thể dẫn tới những quan hệ thiếu bình đẳng trong tiếp cận các
dịch vụ xã hội và tầng lớp nghèo ở nông thôn có thể là người chịu nhiều thua
thiệt.
3. Khó khăn đối với doanh nghiệp khi Việt Nam gia nhập WTO
3.1. Nguy cơ bị mất thị phần, mất thị trường:
15
Việc gia nhập WTO không chỉ đem lại thuận lợi, cơ hội cho các doanh
nghiệp Việt Nam mà còn đưa lại những thách thức, khó khăn rất lớn đối với các

doanh nghiệp. Những cơ hội, những điều kiện có thể đem lại thuận lợi cho các
doanh nghiệp Việt Nam thì ngược lại cũng có thể đem lại những cơ hội, điều
kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài, từ đó tạo ra những khó khăn, thách thức
đối với các doanh nghiệp Việt Nam trên thương trường. Cụ thể là:
Thứ nhất, khi Việt Nam gia nhập WTO, doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội để
thúc đẩy bán hàng, tăng doanh số xuất khẩu vào thị trường các nước thành viên
WTO: nhờ tư cách thành viên của WTO, thị trường xuất khẩu được mở rộng,
không gian thương mại cũng được mở rộng. Ngược lại, khi Việt Nam gia nhập
WTO, đương nhiên các thành viên WTO cũng có thêm một thị trường mới và
các thành viên này cũng có cơ hội thúc đẩy bán hàng, xuất khẩu hàng hoá của họ
vào Việt Nam.
Thứ hai, khi gia nhập WTO, việc đầu tiên Việt Nam (cũng như bất kỳ quốc gia
hay vùng lãnh thổ nào muốn gia nhập WTO) phải làm chính là đàm phán với
các thành viên của WTO về cắt giảm thuế quan, loại bỏ các hàng rào phi thuế
quan nhằm tạo điều kiện cho hàng hoá của các thành viên WTO thâm nhập vào.
Để thực hiện các cam kết khi đàm phán gia nhập WTO, hàng rào thuế quan phải
hạ thấp xuống, đồng thời các biện pháp phi thuế như cấm nhập, hạn chế số
lượng nhập khẩu, quy định phải có giấy phép...cũng không được áp dụng nữa.
Lúc này, thị trường được "mở cửa", doanh nghiệp nước ngoài được tự do tham
gia buôn bán, cung cấp hàng hoá như doanh nghiệp trong nước mà không bị
phân biệt đối xử. Hàng hoá từ các nước khác sẽ vào Việt Nam dễ dàng. Trong
bối cảnh này, các doanh nghiệp trong nước sẽ lâm vào tình trạng bị cạnh tranh
bởi thị trường sẽ có thêm nhiều người cung cấp hàng hoá, dịch vụ.
Song điều đáng nói ở đây chính là những nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ
nước ngoài, họ thường có tiềm lực tài chính mạnh hơn, có hàng hoá chất lượng
tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn, phù hợp thị hiếu hơn, có công nghệ phân phối, tiếp thị
tốt hơn. Do đó, trong cuộc cạnh tranh để cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho người
tiêu dùng, doanh nghiệp nước ngoài có sức mạnh hơn sẽ dễ "thắng" được các
doanh nghiệp trong nước. Từ đó, nguy cơ bị mất thị phần, mất thị trường trong
nước, "thua" ngay trên "sân nhà" là nguy cơ có thật. Tình trạng này xảy ra sớm

hay muộn, xảy ra phổ biến hay không tuỳ thuộc vào năng lực cạnh tranh, chống
đỡ của doanh nghiệp trong nước.
Trong cuộc cạnh tranh giành thị phần, thị trường, dự đoán khu vực dịch vụ
sẽ quyết liệt hơn. Nguyên nhân là hiện nhiều lĩnh vực sản xuất mà các doanh
nghiệp Việt Nam có ưu thế như dệt may, da giày, cơ khí nhỏ...thì các nước công
nghiệp phát triển không tập trung sản xuất nữa, do đó, họ không đặt ra mục tiêu
chiếm lĩnh và cạnh tranh trên thị trường nội địa về nhóm sản phẩm này. Một số
16
sản phẩm trong lĩnh vực sản xuất như ô tô, đồ gia dụng, điện điện tử, điện lạnh
hiện cũng đã được sản xuất, lắp ráp ở trong nước rồi. Do vậy, đích ngắm trong
thời gian tới của các nhà đầu tư nước ngoài muốn chiếm lĩnh và cạnh tranh
giành giật thị trường nội địa chính là các lĩnh vực dịch vụ mà hiện nay nhà nước
còn nắm giữ, chưa mở cửa nhiều hoặc các lĩnh vực dịch vụ còn nhiều tính chất
độc quyền như ngân hàng, viễn thông...Đây cũng là những lĩnh vực mà thị
trường nội địa còn nhiều tiềm năng phát triển, đem lại lợi nhuận cao cho các
doanh nghiệp nước ngoài, đồng thời cũng là các lĩnh vực mà các doanh nghiệp
nước ngoài có ưu thế cạnh tranh.v.v.
3.2. Nguy cơ bị thu hẹp sản xuất, chuyển đổi sang lĩnh vực khác, thậm chí nhiều
doanh nghiệp sẽ bị phá sản do không cạnh tranh được với hàng hoá nhập khẩu:
Từ chỗ bị cạnh tranh bởi hàng ngoại nhập, các doanh nghiệp trong nước sẽ
buộc phải sắp xếp lại, tổ chức lại sản xuất, thay đổi nhân sự để làm sao hàng hoá
sản xuất ra có giá cả, chất lượng, mẫu mã tốt hơn, rẻ hơn trước để cạnh tranh
được với hàng hoá nhập khẩu.
Trong trường hợp tổ chức lại sản xuất rồi, thay đổi nhân sự rồi nhưng hàng
hoá sản xuất ra vẫn không cạnh tranh được, thị phần ngày càng giảm đi, hàng
hoá sản xuất ra không có thị trường tiêu thụ thì đương nhiên doanh nghiệp buộc
phải thu hẹp sản xuất, phải tính toán lại chiến lược sản xuất, kinh doanh, có thể
phải chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, thậm chí nếu hàng hoá, dịch vụ sản
xuất ra không tiêu thụ được, không trả được vốn vay ngân hàng thì doanh
nghiệp có thể bị thua lỗ, phá sản.

Nguy cơ này cũng rất rõ ràng bởi vì các doanh nghiệp trong nước thường
yếu kém hơn so với các doanh nghiệp nước ngoài hoặc có yếu tố nước ngoài
như doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp thuê chuyên gia nước ngoài quản
lý...về năng lực quản trị, trình độ tiếp thị. Nguy cơ này cũng xuất phát từ chỗ
bản thân hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp trong nước kém chất lượng hơn so
với các doanh nghiệp nước ngoài về chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã, về tên tuổi,
thương hiệu...
3.3. Nguy cơ bị các doanh nghiệp nước ngoài thôn tính, mua lại, chèn ép, "lấy"
mất nhân viên, mua chuộc lãnh đạo cao cấp qua trả lương cao, hứa hẹn thăng
tiến
- Trở thành thành viên của WTO cũng có nghĩa là Việt Nam được hưởng
mọi quy chế ưu đãi và quy tắc buôn bán, đầu tư ngang với các thành viên khác
của WTO, thị trường Việt Nam trở thành một bộ phận của thị trường toàn cầu.
Với những lợi thế như chi phí lao động rẻ, có nguyên vật liệu cho sản xuất hàng
hoá, thị trường đông dân (là thị trường tiêu thụ tiềm năng), Việt Nam trở thành
17
nơi hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư
vào để sản xuất hàng hoá, dịch vụ để xuất khẩu,để bán cho thị trường nội địa.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường do người nước ngoài
đến làm ăn, buôn bán ở Việt Nam, do vậy đa số họ phải thuê đất để đặt trụ sở,
nhà máy, phải thuê người địa phương làm công cho họ. Vì các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh hơn, nắm giữ các bí quyết
công nghệ tiên tiến hơn, có trình độ quản lý giỏi hơn nên họ có nhiều cơ hội để
thành công hơn trong việc sản xuất, cung ứng hàng hoá, dịch vụ so với các
doanh nghiệp trong nước. Dần dần khi họ đã chiếm được thị phần, để tiếp tục
mở rộng thị phần, họ sẽ tìm cách "mua" lại, thôn tính các doanh nghiệp trong
nước đang làm ăn thua lỗ, khó khăn (về thị trường, về đầu ra, thiếu vốn để đổi
mới công nghệ, để thuê quản lý giỏi), vừa đạt mục tiêu loại bớt đối thủ trên thị
trường, vừa tận dụng được mặt bằng, tận dụng nhà xưởng, tận dụng công nhân
đã có tay nghề của các doanh nghiệp Việt Nam.

- Để tiết kiệm tiền lương, tiết kiệm chi phí về ăn ở đối với công nhân, cán bộ
quản lý, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài sẽ tìm cách thuê người Việt Nam
hơn là đưa người nước ngoài sang Việt Nam. Các chuyên gia có tay nghề giỏi,
các cán bộ quản lý có tài kinh doanh, tổ chức làm việc ở các doanh nghiệp nhà
nước chính là mục tiêu "săn đầu người" của các doanh nghiệp có vốn nước
ngoài. Bằng cách trả lương cao, hứa hẹn sự thăng tiến, đãi ngộ (về đào tạo, về
phúc lợi tham quan du lịch, nghỉ ngơi...), các doanh nghiệp có vốn nước ngoài
sẽ bỏ tiền mua chuộc các cán bộ lãnh đạo cao cấp, trung cấp của các doanh
nghiệp trong nước chuyển sang làm việc ở các công ty có vốn nước ngoài, vừa
đỡ tốn tiền thuê các vị trí tương đương là người nước ngoài, vừa làm suy yếu
các doanh nghiệp trong nước.
18
CHƯƠNG II - BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
I. Bối cảnh kinh tế thế giới
1. Đặc điểm và chiều hướng phát triển của kinh tế thế giới
1.1. Kinh tế thế giới chuyển từ phát triển theo chiều rộng (gia tăng nguồn lực)
sang phát triển theo chiều sâu (nâng cao hiệu quả).
Những thập niên cuối của thế kỷ 20, các nhân tố phát triển theo chiều
rộng như các nguồn nguyên nhiên liệu, năng lượng, khoáng sản, ưu thế về
nguồn lao động giá rẻ... suy giảm rõ rệt. Cuộc khủng hoảng dầu lửa trong thập
niên 70, 80 đã thúc đẩy các quốc gia tìm kiếm các biện pháp phát triển chiều sâu
như nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên nhiên liệu, năng lượng; nghiên cứu phát
triển các loại vật liệu mới, các kỹ thuật công nghệ cao như máy tính, điện tử, vi
điện tử, tự động hoá, sinh học... Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ vào nửa
sau của thế kỷ 20 đã tạo ra một bước ngoặt trong sự phát triển của lực lượng sản
xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất của toàn xã hội, tác động
sâu sắc đến mọi mặt của đời sống kinh tế thế giới. Cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ ba đã dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của các ngành chủ yếu như điện tử,
năng lượng nguyên tử, công nghệ hoá dầu, công nghệ hàng không vũ trụ, công
nghệ sinh học, công nghệ thông tin... và hình thành nên những phương thức, mô

hình sản xuất mới với năng suất và hiệu quả cao hơn, thúc đẩy sức sản xuất xã
hội phát triển nhanh chóng. Dựa trên những thành tựu đó, cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ đã bùng nổ trên phạm vi ngày càng rộng hơn và tác động ngày
càng sâu sắc hơn đến sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Kết quả là kinh tế
thế giới chuyển dần từ nền kinh tế công nghiệp sang một loại hình kinh tế mới
dựa trên chất xám và kỹ thuật, công nghệ cao - kinh tế tri thức. Trong thế kỷ 20,
sản xuất công nghiệp thế giới tăng 35 lần trong khi thế kỷ 19 chỉ tăng 3 lần.
Những thành tựu khoa học - công nghệ đã và sẽ trực tiếp đi vào lực lượng sản
xuất trong khoảng thời gian rất ngắn, trở thành lực lượng sản xuất nòng cốt và
trực tiếp của xã hội, tạo nên động lực chính của sự phát triển của kinh tế thế giới
trong những thập niên đầu của thế kỷ 21.
Dưới tác động của cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế thế giới có
những bước chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ, trong đó tỷ trọng giá trị nông nghiệp
không ngừng suy giảm; tỷ trọng công nghiệp có xu hướng thu hẹp ở các nước
công nghiệp phát triển nhưng vẫn tăng lên ở các nước đang phát triển; đồng thời
tỷ trọng ngành dịch vụ không ngừng mở rộng. Năm 1900, nông nghiệp chiếm
1/3 GDP thế giới, đến nay chỉ còn khoảng 3%, trong khi công nghiệp chiếm
35% và dịch vụ chiếm 60%. Thậm chí, ở nhiều nước công nghiệp phát triển,
dịch vụ đã chiếm tới hơn 75% lực lượng lao động, đóng góp gần 70% vào GDP.
19
1.2. Gắn liền với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ mới, nền kinh tế tri thức
sẽ là một đặc trưng nổi bật của kinh tế thế giới trong những thập kỷ đầu thế kỷ
21
Giá trị của các yếu tố đầu vào truyền thống như nguyên nhiên liệu, đất
đai, lao động phổ thông hoặc ít đào tạo ngày càng giảm. Trong khi chất xám, tri
thức và thông tin có vai trò ngày càng tăng và mang tính quyết định đối với các
quá trình sản xuất, phân phối, tiêu thụ và đóng góp tỷ lệ ngày càng lớn vào tăng
trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Trong thời gian tới, tất cả các nước sẽ điều
chỉnh lại cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao vai trò chủ đạo và dẫn đầu của các
ngành kinh tế dựa trên các công nghệ mới và có hàm lượng chất xám cao để làm

động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
1.3. Quá trình kép toàn cầu hoá - tự do hoá kinh tế và hội nhập quốc tế phát
triển mạnh thành một trào lưu bao trùm, cuốn hút hầu hết các nước
Sau chiến tranh lạnh, thế giới đã hình thành một thị trường rộng lớn và
thống nhất theo cơ chế thị trường làm cho quan hệ kinh tế, văn hoá giữa các
nước phát triển nhanh chóng. Sự vận động của các công ty xuyên quốc gia thông
qua dịch chuyển các yếu tố sản xuất (vốn, công nghệ, lao động...) cũng như sự
mở rộng những quan hệ kinh tế quốc tế như thương mại, đầu tư, vay nợ... ra
phạm vi toàn cầu đang thúc đẩy hình thành nên thị trường thế giới ngày càng
thống nhất với những “luật chơi” chung. Quá trình tự do hoá thương mại và đầu
tư cũng phát triển mạnh, thúc đẩy xu thế toàn cầu hoá phát triển cả về chiều rộng
và chiều sâu. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới hiện nay thể
hiện qua những xu hướng chính:
(1) Xu hướng tăng cường hợp tác đa phương
Xu hướng tăng cường hợp tác đa phương thể hiện rõ nét qua việc ngày
càng có nhiều nước xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). WTO
được thành lập ngày 1/1/1995 với 124 thành viên là kết quả của vòng đàm phán
Uruguay kéo dài trong suốt 8 năm (1986-1994) nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển
của thương mại thế giới, là sự kế thừa của Hiệp định chung về Thuế quan và
Thương mại (GATT). Tính đến ngày 11/12/2005, tổ chức này đã kết nạp được
149 thành viên, điều chỉnh 95-98% giá trị thương mại thế giới.
Năm 2001, sự kiện Trung Quốc (quốc gia đông dân nhất thế giới, với dân
số gần 1,3 tỷ người chiếm 1/5 thị trường tiêu dùng của thế giới) trở thành thành
viên của WTO tác động không nhỏ đến kinh tế - thương mại thế giới. Từ khi
WTO khởi đầu vòng đàm phán mới (vòng Doha) đã có một số nước đang phát
triển gia nhập vào tổ chức này. Một vài nước đã rút ngắn quá trình đàm phán
thậm chí bỏ qua hầu hết các bước để nhanh chóng được kết nạp. Nhân tố đó cho
20
thấy WTO ngày càng có một vai trò hấp dẫn hơn đối với các nền kinh tế đang
phát triển trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế.

(2) Xu hướng tự do hoá và khu vực hoá
Các khu thương mại tự do song phương (FTAs) và thoả thuận thương mại
tự do khu vực (RTAs) gia tăng nhanh chóng. Các FTAs và RTAs có mức độ ưu
đãi và tự do thương mại cao hơn quy chế tối huệ quốc (MFN) kéo theo những
thay đổi lớn trong cục diện thương mại giữa các nước trong khu vực và trên thế
giới. Có một số khu vực thương mại tự do lớn được hình thành là Liên minh
Châu Âu (EU), khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), thị trường chung
Nam Mỹ (MERCOSUR)...
Tính đến giữa năm 2003 có khoảng 250 hiệp định thương mại tự do song
phương và khu vực (trong đó có 33 RTAs). Dự tính đến cuối năm 2005 các FTA
đang được dự tính hoặc đã đi vào đàm phán được ký kết và có hiệu lực sẽ lên tới
300. Khu vực Đông á có Khu vực thương mại tự do ASEAN/AFTA, ASEAN +
3 (ASEAN + Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản); ASEAN + ấn Độ, ASEAN
+ CER (Ô-xtrâylia, Niu Di-lân) đang hình thành từ nay đến năm 2010 với tổng
số dân trên 2 tỷ người. Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ và Mỹ La-tinh
(gồm 33 nước với số dân 911 triệu người, GDP của khu vực này trên 11 nghìn tỷ
USD) thực hiện năm 2005 biến khu vực này thành FTA lớn nhất thế giới. ấn Độ,
Pa-ki-xtan, Nê-pan, Xri-lan-ka. Maldives, Băng-la-đét và Bu-tan đã ký thoả
thuận thành lập Khu vực thương mại tự do Nam á (khu vực chiếm 1/4 dân số thế
giới, với cam kết giảm thuế từ 25 - 30% xuống 5% trong vòng 7 - 10 năm). Việc
EU mở rộng sang phía Đông cũng là một sự kiện quan trọng: từ tháng 4/2004,
EU có 25 nước thành viên với số dân 455 triệu người, GDP khoảng 9 nghìn tỷ
USD và sẽ là khối liên minh kinh tế lớn nhất thế giới.
Trong bối cảnh đó, các nước trên thế giới đều tiến hành hội nhập kinh tế
quốc tế, phát huy lợi thế so sánh của mình cũng như tranh thủ vốn, công nghệ,
thị trường và tri thức quản lý - kinh doanh tiên tiến phục vụ cho phát triển kinh
tế. Không nước nào có thể đứng ngoài quá trình hội nhập nếu không muốn tự
tách mình khỏi trào lưu phát triển chung và bị tụt hậu.
(3) Thương mại dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong thương mại thế giới
Tự do hoá thương mại tiếp tục được đẩy mạnh và thương mại quốc tế tiếp

tục là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thế giới. Trong những thập kỷ qua,
tốc độ tăng trưởng của thương mại thế giới luôn luôn cao gấp đôi, gấp ba lần tốc
độ tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế thế giới. Hai thập niên đầu thế kỷ 21 là
khoảng thời gian có tính chất “quyết định” đối với sự phát triển của thương mại
thế giới trong nhiều thập kỷ tới. Trong thập niên đầu tiên sẽ diễn ra Vòng đàm
phán Doha của WTO, và những thoả thuận đạt được trong đàm phán về hai lĩnh
21
vực nông nghiệp và dịch vụ nhiều khả năng sẽ đưa lại một thời kỳ tăng trưởng
cao hơn cho thương mại thế giới.
Những năm đầu thế kỷ 21, do khó khăn của các nền kinh tế lớn, đầu tư
nước ngoài có chiều hướng suy giảm, đồng thời luồng đầu tư cũng nhằm vào
những địa điểm đầu tư an toàn và có lợi thế so sánh trong nền kinh tế tri thức.
Tuy nhiên, khi kinh tế thế giới phát triển khả quan trong những năm tới, luồng
vốn đầu tư nước ngoài cũng có xu hướng gia tăng và chuyển dịch theo hướng
tăng tỷ trọng đầu tư trực tiếp do tồn tại những lượng vốn dư thừa khổng lồ. Đặc
điểm mới là các nguồn vốn sẽ chuyển hướng sang những địa bàn có cơ sở hạ
tầng thông tin - viễn thông hiện đại, có nguồn nhân công với tri thức và tay nghề
cao. Bên cạnh đó, do tác động của chủ nghĩa khủng bố quốc tế, tiêu chí “an
toàn” trở nên ngày càng quan trọng đối với các nhà đầu tư.
Các công ty đa quốc gia (TNC) ngày càng lớn mạnh và đóng vai trò động
lực với sự phát triển của kinh tế thế giới. Tốc độ gia tăng các công ty đa quốc
gia rất lớn, đến cuối thế kỷ 20 đã có hơn 60.000 công ty với khoảng 500.000 chi
nhánh trên toàn cầu và chiếm trên 30% tổng giá trị GDP toàn thế giới. Quy mô
kinh doanh, phạm vi và lĩnh vực hoạt động của các TNC không ngừng mở rộng.
Từ cuối thế kỷ 20, làn sóng mua bán, sáp nhập của các TNC đã hình thành nên
các công ty khổng lồ có mặt trên khắp các châu lục và chiếm thị phần quan
trọng trên thị trường thế giới. Thương mại giữa các công ty con của các TNC
với nhau chiếm khoảng 1/3 tổng giá trị thương mại thế giới; trên 4/5 đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài trên thế giới là của các TNC; và trên 9/10 thành quả nghiên
cứu và triển khai kỹ thuật và chuyển giao kỹ thuật trên thế giới nằm trong tay

các TNC. Trong những thập niên tới, các tập đoàn kinh tế khổng lồ có doanh số
lớn hơn cả GDP của các nước loại trung bình sẽ là chủ thể chính đẩy nhanh tốc
độ toàn cầu hoá luồng vốn đầu tư, thương mại quốc tế cũng như hoạt động
chuyển giao công nghệ.
(4) Sự tăng cường chính sách bảo hộ với các rào cản thương mại hiện đại
Các nước ngày càng có xu hướng ít sử dụng những biện pháp bảo hộ
mang tính lộ liễu như áp đặt lệnh cấm, hạn chế số lượng hoặc áp đặt thuế suất
nhập khẩu cao. Thay vào đó, các biện pháp bảo hộ được lồng vào những lý do
chính đáng như để bảo vệ những ngành sản xuất trong nước trước những hành
động thương mại không lành mạnh, bảo vệ sức khoẻ con người, kiểm soát chất
lượng, môi trường, quy định về an toàn thực phẩm, điều kiện lao động, kiểm
soát dịch bệnh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, ghi nhãn hàng hoá...
1.4. Trong nền kinh tế toàn cầu hoá, các nước ngày càng có xu hướng lựa chọn
chiến lược kinh tế phát triển bền vững
22
Trong những thập kỷ tới, quá trình toàn cầu hoá kinh tế phát triển mạnh
mẽ mang lại cho các quốc gia những cơ hội phát triển lớn lao nhưng đồng thời
cũng đi kèm với những thách thức không kém phần gay gắt, nhất là các thách
thức về môi trường - xã hội. Việc ký kết hàng loạt thoả thuận quốc tế về môi
trường, ví dụ như Nghị định thư Kyoto cụ thể hoá Công ước khung của Liên hợp
quốc về Biến đổi khí hậu, cùng với việc tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Toàn cầu
về Phát triển bền vững (Nam Phi, ngày 26/8-4/9/2002) cho thấy vấn đề phát
triển bền vững đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của cộng đồng quốc tế. Do
vậy, trong những thập kỷ tới mô thức phát triển kinh tế bền vững sẽ dần trở
thành lựa chọn phổ biến của các quốc gia, nhằm cân bằng giữa phát triển kinh tế
với bảo vệ môi trường tự nhiên và giải quyết các vấn đề xã hội
1.5. Kinh tế thế giới sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều thách thức gay gắt trong
hai thập niên tới, trước hết là nguy cơ của khủng hoảng kinh tế - tài chính và
chủ nghĩa khủng bố quốc tế
Nguy cơ khủng hoảng kinh tế - tài chính: Quá trình toàn cầu hoá kinh tế

đã dẫn đến nhất thể hoá thị trường tài chính thế giới với sự phụ thuộc lẫn nhau
ngày càng tăng giữa các nền kinh tế - tài chính quốc gia. Chính sự luân chuyển
tự do của các dòng vốn trên thị trường tài chính quốc tế là nguy cơ gây ra các
bất ổn về tài chính tiền tệ, và các cuộc khủng hoảng nếu xảy ra ở một khu vực
dù không lớn vẫn có thể làm điêu đứng thị trường tài chính và kinh tế toàn cầu.
Từ cuối thế kỷ 20, cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực ở châu á đã ảnh
hưởng lớn đến các khu vực khác và kéo lùi tốc độ tăng trưởng của toàn bộ kinh
tế thế giới.
Nguy cơ khủng bố quốc tế: Xu hướng gia tăng của chủ nghĩa khủng bố
quốc tế, xung đột vũ trang và tội phạm xuyên quốc gia cũng sẽ đặt ra nhiều rủi
ro đối với sự phát triển của kinh tế thế giới trong những thập niên đầu thế kỷ 21.
Nếu không có sự phối hợp hiệu quả hơn giữa các quốc gia để ngăn chặn những
nguy cơ này, lòng tin của người tiêu dùng và các nhà đầu tư sẽ bị ảnh hưởng rất
lớn, từ đó có thể dẫn đến những bất ổn, xáo trộn trong nền kinh tế thế giới.
Khủng bố quốc tế sẽ làm tăng chi phí sản xuất do các chính phủ, công ty đều
phải chi tiêu nhiều hơn cho an ninh, đồng thời dẫn đến sự chuyển dịch các luồng
vốn đầu tư nước ngoài đến những địa điểm an toàn hơn, mà hệ quả là các nước
đang và kém phát triển sẽ là những nước chịu thiệt hại nhiều nhất.
2. Kinh tế thế giới năm 2005 và triển vọng những năm tới
Năm 2005, bất chấp giá dầu lửa tăng cao cùng với thiên tai và dịch cúm
gia cầm hoành hành song nền kinh tế thế giới vẫn đạt mức tăng trưởng cao, ước
đạt 4,8%; Trung Quốc là quốc gia có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất (9,9%),
GDP của ấn Độ tăng 8,3%. Xét theo khu vực thì mức tăng trưởng cao nhất thuộc
23
về các thị trường mới nổi và các quốc gia đang phát triển (7,2%), tiếp theo là
các nước công nghiệp mới ở Châu á (4,6%), mức tăng trưởng GDP chung của
các nước phát triển là 2,7%. Dự đoán năm 2006-07, kinh tế thế giới tiếp tục tăng
trưởng, tốc độ tăng bình quân của các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật, khu vực
đồng Euro khoảng 2,7%. Khối lượng thương mại dự kiến tăng 7% mỗi năm. Tuy
nhiên, bên cạnh triển vọng sáng sủa đó vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro: giá năng lượng

còn tiếp tục tăng cao, sự gia tăng chính sách bảo hộ của các nước công nghiệp,
cúm gia cầm, sự mất cân đối của cán cân thanh toán quốc tế ảnh hưởng tới khả
năng điều chỉnh tỷ giá hối đoái và lãi suất.
Khối lượng buôn bán hàng hoá năm 2005 tăng 6,2% phản ánh sự dịch
chuyển về địa lý trong thương mại: xuất khẩu của các nước công nghiệp chiếm
tỷ lệ thấp, trong khi thị phần của Trung Quốc trong thương mại toàn cầu tiếp tục
tăng ổn định, ước chiếm khoảng 7% kim ngạch xuất khẩu toàn cầu năm 2005
(so với 4,3% năm 2001). Cùng với kỳ vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm
2006, cầu hàng điện tử hồi phục, thương mại toàn cầu được kỳ vọng sẽ tăng
khoảng 7% năm 2006 - 07.
2.1. Kinh tế Mỹ
Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2005 của Mỹ là 3,5%, giảm so với 4,2%
năm 2004. Chỉ số giá tiêu dùng ở mức 3,4% trong lúc giá thực phẩm và năng
lượng tăng 2,2%. Thất nghiệp giảm từ 5,5% năm 2004 xuống còn 5,1%. Thu
nhập thực tế giảm 0,4%.
Thâm hụt tài khoá và tiền tệ vẫn tiếp tục. Theo kế hoạch, mức tăng trưởng
GDP năm 2006 là 3,3% và 3,1% (2007), phản ánh mức cầu giảm từ từ do giá
dầu tăng dựa trên giả thiết chi tiêu chính phủ tăng chậm và lãi suất sẽ tăng ở nửa
đầu năm 2006. Vẫn tồn tại các rủi ro nếu giá bất động sản giảm đột ngột, giá dầu
tăng cao hơn hay nhu cầu của các nhà đầu tư về đô la Mỹ tăng nếu thâm hụt cán
cân thanh toán quốc tế tiếp tục gia tăng.
Hộp: Chính sách thương mại năm 2006 của Mỹ
“Chương trình nghị sự thương mại năm 2006” của chính quyền Mỹ tập trung
vào bốn vấn đề chính:
Thúc đẩy đàm phán thương mại toàn cầu, trong đó dành ưu tiên cho
kết thúc tiến trình đàm phán của Chương trình nghị sự Doha.
Mỹ dự kiến tập trung vào lĩnh vực: thuế quan, dịch vụ và nông nghiệp. Theo
đó, đề xuất hai giai đoạn, mỗi giai đoạn 5 năm:
Giai đoạn 1: Triển khai - Đề nghị cắt giảm thuế với các
nước phát triển từ 55-90%, cắt giảm từ từ với các nước đang

phát triển chủ yếu là một số thị trường mới nổi, 49 nước kém
24
phát triển không cần cắt giảm thuế theo vòng Doha
Giai đoạn 2: Đề ra lộ trình giảm thuế cho các mặt hàng
còn lại và xoá bỏ các biện pháp trợ cấp làm bóp méo thương
mại.
Xem xét lại Chương trình ưu đãi tổng quát (GSP) dành cho các nước
đang phát triển. Chương trình này sẽ hết hạn vào 31/12/2006, Tổng
thống Mỹ yêu cầu gia hạn lại sau 5 năm vào năm tài chính 2007.
Thúc đẩy việc ký kết các thoả thuận thương mại tự do khu vực và
song phương.
Tăng cường luật lệ thương mại và triển khai các thoả thuận đã đạt
được.
Nguồn: Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ.
2.2. Kinh tế Nhật Bản
Kinh tế Nhật hồi phục trong năm 2005 và tiếp tục tăng nhanh trong những
tháng gần đây. GDP thực tế tăng 2,7% (so với 2,3% năm 2004). Tái đầu tư tăng
4,3%. Cùng với các chính sách giảm thất nghiệp, tỷ lệ này giảm xuống còn 4,4%
so với 4,7% năm 2004, thu nhập thực tế tăng. Giá tiêu dùng giảm 0,3%.
Thâm hụt ngân sách được Cơ quan tình báo kinh tế (EIU) dự đoán sẽ
giảm từ 4,8% (2004) xuống 4,5% (2005). Trong năm tài khoá 2006/07, ngân
sách sẽ được bù đắp do việc cắt giảm chi tiêu và doanh thu tăng. Đây là kết quả
của chính sách khôi phục kinh tế. Trong khi đó, chính sách tiền tệ được thắt chặt
hơn. Ngân hàng trung ương sẽ sớm tăng lãi suất danh nghĩa để bảo vệ lãi suất
thực tế khỏi ảnh hưởng tiêu cực của sự tăng giá.
Cùng với sự phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế, sự gia tăng nhu cầu trong
và ngoài nước, tiêu dùng giảm đáng kể, Nhật Bản được kỳ vọng sẽ đạt mức tăng
trưởng 2,9% năm 2006. Năm 2007, do sự phục hồi bị suy giảm nên tốc độ tăng
trưởng giảm còn 2,4%, gần với mức tăng trưởng tiềm năng trong dài hạn là
khoảng 2%.

Hộp: Chính sách thương mại của Nhật Bản
Nhật Bản đang cố gắng duy trì và phát triển chế độ mậu dịch tự do. Từ đầu
những năm 80, Nhật Bản đã tiến hành các biện pháp kinh tế đối ngoại trong
một số thời kỳ, đặc biệt kể từ khi phê chuẩn chương trình hành động. Nhật
Bản đã xúc tiến mở cửa thị trường bằng việc cắt giảm và bãi bỏ thuế nhập
khẩu , chấm dứt và nới lỏng các biện pháp hạn chế số, cải thiện hệ thống cấp
25

×