Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA MỘT DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.47 KB, 39 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA MỘT DOANH
NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. Cạnh tranh và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân
1. Quan niêm về cạnh tranh
Bước vào thời đại kinh tế tri thức, từ văn hoá tới tư tưởng của toàn thế giới
tất sẽ thay đổi lớn và sâu sắc chưa từng thấy. Theo đó, lý luận về kinh tế cũng có
xu thế phát triển mới, đồng thời lý luận cạnh tranh cũng có bước phát triển mới.
Lý luận kinh tế truyền thống là cơ sở lý luận trong nền kinh tế công nghiệp,
do đó nó mang đặc điểm của thời đại kinh tế công nghiệp. Kinh tế công nghiệp lấy
sản xuất vật chất và năng lượng làm trọng tâm, các ngành phần lớn là những ngành
sử dụng nhiều tư bản, là nền kinh tế công nghiệp gia công có quy mô lớn và công
nghiệp nặng.
Theo quan điểm của nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh Alfred Masshall,
nền kinh tế thời đại này cân đối, ổn định, do đó mà có trật tự, có thể dự đoán được.
Trong nền kinh tế công nghiệp sản xuất có khuynh hướng lặp đi lặp lại, cạnh tranh
có nghĩa là phải làm cho sản phẩm có chất lượng cao, giá rẻ. Do đó, phải cải tiến
chất lượng, hạ giá thành, đi đến giới hạn cuối cùng là giá thành tăng lên hoặc lợi
nhuận giảm xuống.
Lý luận kinh tế truyền thống cho rằng loài người sống trong một thế giới
khan hiếm tài nguyên, tính chất khan hiếm tài nguyên biểu hiện ở chỗ thù lao giảm
dần. Quy luật thù lao giảm dần khiến mọi người có quan điểm bi quan đối với
mong đợi kinh tế tăng trưởng bền vững và liên tục. Trong nền kinh tế tri thức thì
thù lao tăng dần. Nhà kinh tế học người Mỹ W.B Arthur cho rằng thù lao tăng dần
phản ánh xu hướng sau: Dẫn đầu thì lại dẫn đầu hơn nữa, mất lợi thế thì sẽ mất lợi
thế hơn nữa.
Ông tổ của lý luận kinh tế phương Tây, Adam Smith cho rằng cạnh tranh có
thể làm giảm chi phí và giá cả sản phẩm, từ đó khiến cho toàn bộ xã hội được lợi
do năng suất của các doanh nghiệp tăng lên tạo ra. Hơn 200 năm sau thời Adam
Smith, quan điểm cho rằng cạnh tranh có thể nâng cao năng suất làm cho xã hội
được lợi ăn sâu vào toàn bộ lý luận kinh tế phương Tây. Cạnh tranh được coi là
động lực giảm giá sản phẩm, cải tiến chất lượng sản phẩm và sáng tạo ra sản phẩm


mới. Trong nền kinh tế tri thức, tầm quan trọng của cạnh tranh không thay đổi, hơn
nữa còn quan trọng hơn rất nhiều.
Có thể nói rằng, công nghiệp truyền thống thiên về thống nhất hoá, nền nếp
hoá và tổ chức hoá sản phẩm. Mỗi loại sản phẩm đều là một điểm của “không gian
sản phẩm đa hệ”. Trong tác phẩm “lý luận tổ chức ngành” của mình, Taylor dùng
khái niệm không gian sản phẩm để mô tả tính chất phong phú của sự khác nhau
của sản phẩm. Do đó, trong không gian đã định sẵn ấy, cạnh tranh có nghĩa là làm
cho hàng hoá lưu thông nhanh, bằng cách làm thay đổi những “hàm số sản xuất”
tức là hoặc tích cực tăng đầu vào trong điều kiện giá thành đã ấn định sẵn hoặc tận
sức giảm giá thành trong điều kiện đầu ra đã ấn định sẵn để tối đa hoá lợi nhuận.
Trong nền kinh tế tri thức, cạnh tranh không còn chỉ đơn thuần là thay đổi
“hàm số sản xuất” và mở rộng thị phần, mà là cạnh tranh mở rộng “không gian
sinh tồn”, là tư bản hoá giá trị thời gian của các cá nhân người tiêu dùng trong
không gian thị trường mới. Không gian này lấy tăng trưởng bền vững, chuyên môn
hoá ở trình độ cao và sáng tạo ra hệ thống sinh thái con làm đặc trưng. Doanh
nghiệp cạnh tranh không gian, cạnh tranh thị trường là cạnh tranh tư bản.
Lý luận về kinh tế tri thức được xây dựng trên cơ sở lý luận sinh vật học,
cho rằng nền kinh tế tri thức mãi mãi ở bên lề thời gian, phát triển không ngừng,
kết cấu kinh tế thường xuyên sắp xếp lại. Kinh tế tri thức lấy ngành nghề kỹ thuật
cao làm trụ cột. Do vậy, việc hiểu biết sản phẩm của mình thuộc hệ sinh thái nào là
việc hết sức quan trọng, thành công hay thất bại không chỉ do bản thân doanh
nghiệp quyết định mà còn do mạng lưới của nó có thành công hay không quyết
định. Muốn có lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp “phải
nắm bắt thời cơ và phương pháp xây dựng hệ thống sinh thái, có thể điều chỉnh
hướng bay trong quá trình phát triển và cải tiến. Hệ thống sinh thái mới đòi hỏi
người lao động có khả năng vượt lên trên tổ chức truyền thống và giới hạn văn hoá
để hình thành quan điểm cạnh tranh vượt qua giới hạn doanh nghiệp, ngành và
quốc gia”. (F. Moore)
2. Vai trò của cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh có vai trò vô cùng quan trọng, nó

được coi là động lực của sự phát triển không chỉ của mỗi cá nhân, mỗi doanh
nghiệp mà cả nền kinh tế nói chung.
2.1. Đối với doanh nghiệp
Đối với mỗi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường, cạnh tranh có những vai trò sau:
• Cạnh tranh được coi như là cái “sàng” để lựa chọn và đào thải những doanh
nghiệp. Vì vậy nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có vai trò cực kỳ to
lớn.
• Cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Cạnh tranh
tạo ra động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp tìm mọi
biện pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
• Cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải phát triển công tác marketing bắt đầu
từ việc nghiên cứu thị trường để xác định được nhu cầu thị trường từ đó ra các
quyết định sản xuất kinh doanh để đáp ứng các nhu cầu đó. Bên cạnh đó, doanh
nghiệp phải nâng cao các hoạt động dịch vụ cũng như tăng cường công tác quảng
cáo, khuyến mãi, bảo hành...
• Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải đưa ra các sản phẩm có chất lượng
cao hơn để đáp ứng được nhu cầu thường xuyên thay đổi của người tiêu dùng.
Muốn vậy, các doanh nghiệp phải áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật mới
vào quá trình sản xuất kinh doanh, tăng cường công tác quản lý, nâng cao trình độ
tay nghề của công nhân... từ đó làm cho doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn.
2.2. Đối với người tiêu dùng
Có cạnh tranh, hàng hoá sẽ có chất lượng ngày càng tốt hơn, mẫu mã ngày
càng đẹp, phong phú đa dạng hơn để đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng
trong xã hội. Vì vậy, đối với người tiêu dùng, cạnh tranh có các vai trò sau:
• Người tiêu dùng có thể thoải mái, dễ dàng trong việc lựa chọn các sản phẩm
phù hợp với túi tiền và sở thích của mình.
• Những lợi ích mà họ thu được từ hàng hoá ngày càng được nâng cao, thoả
mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu của họ nhờ các dịch vụ kèm theo được quan
tâm nhiều hơn. Đó chính là những lợi ích mà người tiêu dùng có được từ việc nâng

cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.
2.3. Đối với nền kinh tế
Cạnh tranh được coi như là “linh hồn” của nền kinh tế, vai trò của cạnh
tranh đối với nền kinh tế quốc dân thể hiện ở những mặt sau:
• Cạnh tranh là môi trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển của mọi thành
phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường, góp phần xoá bỏ những độc quyền, bất
hợp lý, bất bình đẳng trong kinh doanh.
• Cạnh tranh bảo đảm thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự phân
công lao động xã hội ngày càng xâu sắc.
• Cạnh tranh thúc đẩy sự đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của xã hội, kích thích nhu cầu phát triển, làm nảy sinh những nhu cầu mới, góp
phần nâng cao chất lượng đời sống xã hội và phát triển nền kinh tế.
• Cạnh tranh làm nền kinh tế quốc dân vững mạnh, tạo khả năng cho doanh
nghiệp vươn ra thị trường nước ngoài.
• Cạnh tranh giúp cho nền kinh tế có nhìn nhận đúng hơn về kinh tế thị
trường, rút ra được những bài học thực tiễn bổ sung vào lý luận kinh tế thị trường
của nước ta.
Bên cạnh những tác dụng tích cực, cạnh tranh cũng làm xuất hiện những
hiện tượng tiêu cực như làm hàng giả, buôn lậu trốn thuế… gây nên sự bất ổn trên
thị trường, làm thiệt hại đến lợi ích của nhà nước và của người tiêu dùng.
Phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của cạnh tranh
không chỉ là nhiệm vụ của nhà nước, doanh nghiệp mà là nhiệm vụ chung của toàn
bộ cá nhân.
II. Khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường
1. Khái niệm về cạnh tranh và khả năng của một doanh nghiệp
1.1. Khái niệm về cạnh tranh
Trong cơ chế quản lý kinh tế tập trung bao cấp - các hoạt động sản xuất
kinh doanh đều được chỉ đạo từ trung ương, từ trên xuống dưới. Quan hệ cung
cầu cũng như tất cả các quy luật của kinh tế thị trường không được tồn tại theo

đúng nghĩa của nó. Quan hệ giữa các đơn vị kinh tế hầu như không có mâu
thuẫn về lợi ích. Chính vì vậy mà cạnh tranh không có chỗ đứng trong nền kinh
tế.
Thời điểm đánh đấu công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta bắt đầu từ đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986). Từ đây cơ chế quản lý kinh
tế có bước đổi mới cơ bản, nền kinh tế đã chuyển sang nền kinh tế thị trường,
cạnh tranh xuất hiện. Đặc biệt từ khi nước ta tham gia hội nhập nền kinh tế thế
giới thì cạnh tranh được nhìn nhận theo hướng tích cực hơn. Môi trường cạnh
tranh được mở rộng trên cả thị trường nội địa và thị trường quốc tế.
Theo Mác: “Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa (TBCN) là sự ganh đua, sự đấu
tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật các điều kiện thuận lợi trong
sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Nghiên cứu sâu
về nền sản xuất hàng hoá TBCN và cạnh tranh TBCN, Mác đã phát hiện ra quy
luật cạnh tranh cơ bản là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa
các ngành.
Theo từ điển kinh doanh (xuất bản năm 1992) ở Anh: “Cạnh tranh trong
cơ chế thị trường được định nghĩa là sự ganh đua kình địch giữa các nhà kinh
doanh nhằm giành tài nguyên sản xuất cùng một loại về phía mình”.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh là một điều kiện và là yếu
tố kích thích kinh doanh, là môi trường động lực thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh
doanh phát triển, tăng năng suất lao động tạo sự phát triển của xã hội nói chung.
Như vậy cạnh tranh là quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hoá, là nội
dung cơ chế vận động của thị trường. Sản xuất hàng hoá càng phát triển, hàng hoá
bán ra càng nhiều, số lượng nhà cung ứng càng đông thì cạnh tranh càng gay gắt,
kết quả cạnh tranh sẽ tự loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả.
Như vậy, hiểu theo một nghĩa chung nhất, cạnh tranh là sự ganh đua giữa
các chủ thể kinh doanh trong việc giành giật thị trường và khách hàng.
1.2. Khái niệm về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng, năng lực mà doanh
nghiệp có thể tự duy trì vị trí của nó một cách lâu dài và có ý chí trên thị trường

cạnh tranh, đảm bảo việc thực hiện một tỷ lệ lợi nhuận ít nhất bằng tỷ lệ đòi hỏi cho
việc tài trợ những mục tiêu của doanh nghiệp, đồng thời thực hiện được những mục
tiêu mà doanh nghiệp đề ra.
Nếu một doanh nghiệp tham gia thị trường mà không có khả năng cạnh tranh
hay khả năng cạnh tranh yếu hơn các đối thủ của nó thì sẽ rất khó khăn để tồn tại
và phát triển được, quá trình duy trì sức mạnh của doanh nghiệp phải là quá trình
lâu dài và liên tục. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là cơ sở để đảm bảo khả
năng duy trì lâu dài sức mạnh cạnh tranh đó.
1.3. Các nhân tố tạo nên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được xác định dựa vào các ưu thế
cạnh tranh của nó. Ưu thế mạnh được hiểu là những đặc tính hoặc những thông số
của sản phẩm nhờ đó sản phẩm có được ưu việt, sự vượt trội hơn so với sản phẩm
của các đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Các nhân tố tạo nên khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp bao gồm:
• Uy tín: Đánh giá sự tin tưởng của khách hàng vào doanh nghiệp, tạo được uy
tín tốt đối với khách hàng là cơ sở tạo nên sự quan tâm của khách hàng đến sản
phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp.
• Mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu: ảnh hưởng đến một loại sản phẩm với nhãn
hiệu cụ thể của doanh nghiệp.
• Khả năng thích ứng: Là khả năng thích nghi với sự thay đổi của mô trường
kinh doanh của doanh nghiệp để đảm bảo sự tồn tại và phát triển.
• Sự linh hoạt, nhạy bén của những người quản lý doanh nghiệp: Sự nhạy bén
của những người quản lý doanh nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp
nắm bắt được các cơ hội sản xuất kinh doanh, cơ hội phát triển trên thị trường.
• Kinh nghiệm kinh doanh trên thương trường: Bao gồm những phương pháp
chiến thuật, chiến lược trong kinh doanh. Đây là một tài sản vô hình tạo nên lợi thế
cạnh tranh cho doanh nghiệp.
• Vị thế của doanh nghiệp trên thương trường: Được đánh giá trên cơ sở uy
tín, hình ảnh, thị phần… Những doanh nghiệp có vị thế cao trên thương trường rất
thuận lợi trong cạnh tranh. Những công ty này có khả năng đa dạng hoá sản phẩm,

phát triển thị trường để nâng cao khả năng cạnh tranh.
• Hệ thống đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ: Tiêu chuẩn chất
lượng mà doanh nghiệp áp dụng nhằm đảm bảo cho chất lượng sản phẩm của
mình. Qua việc áp dụng các tiêu chuẩn, hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm,
dịch vụ làm cho khách hàng tin tưởng khi sử dụng sản phẩm, dịch vụ.
• Lợi thế về vốn và chi phí: Đây là một nhân tố rất quan trọng khi sản phẩm
của các doanh nghiệp trên thị trường là tương đối đồng nhất thì việc giảm giá bán
là một biện pháp rất có hiệu quả để tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường
2.1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
2.1.1. Nguồn nhân lực
Nhân lực là yếu tố quyết định đến sản xuất kinh doanh, nó bao gồm một số
nội dung chủ yếu sau:
♦ Ban giám đốc doanh nghiệp
Là những cán bộ quản lý ở cấp cao nhất trong doanh nghiệp, những người
vạch ra chiến lược, trực tiếp điều hành, tổ chức thực hiện công việc kinh doanh của
doanh nghiệp. Đối với những công ty cổ phần, những tổng công ty lớn, ngoài ban
giám đốc còn có hội đồng quản trị là đại diện cho các chủ sở hữu doanh nghiệp
quyết định phương hướng kinh doanh của công ty.
Các thành viên của ban giám đốc có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu các thành viên có trình độ, kinh
nghiệm và khả năng đánh giá, năng động, có mối quan hệ tốt với bên ngoài thì họ
sẽ đem lại cho doanh nghiệp không chỉ những lợi ích trước mắt như: tăng doanh
thu, tăng lợi nhuận mà còn uy tín lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp. Đây mới là yếu
tố quan trọng tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
♦ Đội ngũ cán bộ quản lý ở cấp doanh nghiệp
Là những người quản lý chủ chốt có kinh nghiệm công tác, phong cách
quản lý, khả năng ra quyết định, khả năng xây dựng ê kíp quản lý và hiểu biết sâu
rộng lĩnh vực kinh doanh sẽ là một lợi thế quan trọng cho doanh nghiệp. Người

quản lý làm việc trực tiếp với nhân viên cấp dưới, với chuyên viên, vì vậy trình độ
hiểu biết của họ sẽ giúp họ nảy sinh những ý tưởng mới, sáng tạo phù hợp với sự
phát triển và trưởng thành của doanh nghiệp.
♦ Các cán bộ quản lý ở cấp phân xưởng, đốc công và công nhân
Trình độ tay nghề của công nhân và lòng hăng say nhiệt tình làm việc của
họ là yếu tố tác động rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi khi tay
nghề cao kết hợp với lòng hăng say nhiệt tình lao động thì nhất định năng suất lao
động sẽ tăng trong khi chất lượng sản phẩm được bảo đảm. Đây là tiền đề để doanh
nghiệp có thể tham gia và đứng vững trong cạnh tranh.
Muốn đảm bảo được điều này các doanh nghiệp phải tổ chức đào tạo và đào
tạo lại đội ngũ người lao động của mình, giáo dục cho họ lòng nhiệt tình hăng say
và tinh thần lao động tập thể.
2.1.2. Nguồn lực vật chất và tài chính
♦ Khả năng tài chính của doanh nghiệp
Quyết định đến việc thực hiện hay không thực hiện bất cứ một hoạt động
đầu tư, mua sắm hay phân phối của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có tiềm lực về tài
chính sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc đổi mới công nghệ, đầu tư trang
thiết bị, đảm bảo nâng cao chất lượng, hạ giá thành nhằm duy trì và nâng cao sức
mạnh cạnh tranh, củng cố vị trí của mình trên thị trường.
♦ Máy móc thiết bị và công nghệ
Tình trạng máy móc thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng một cách sâu sắc
đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó là yếu tố vật chất quan trọng bậc
nhất thể hiện năng lực sản xuất của mỗi doanh nghiệp và tác động trực tiếp đến
chất lượng sản phẩm, đến giá thành và giá bán sản phẩm.
Có thể khẳng định rằng một doanh nghiệp với một hệ thống máy móc thiết
bị và công nghệ tiên tiến cộng với khả năng quản lý tốt sẽ làm ra sản phẩm có chất
lượng cao, giá thành hạ từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh. Ngược lại không một
doanh nghiệp nào mà được coi là có khả năng cạnh tranh cao trong khi trong tay họ
là cả một hệ thống máy móc thiết bị cũ kỹ với công nghệ sản xuất lạc hậu.
Ngày nay việc trang bị máy móc thiết bị công nghệ có thể được thực hiện dễ

dàng, tuy nhiên doanh nghiệp cần phải biết sử dụng với quy mô hợp lý mới đem lại
hiệu quả cao.
♦ Hệ thống mạng lưới phân phối của doanh nghiệp
Mạng lưới phân phối của doanh nghiệp được tổ chức, quản lý và điều hành
một cách hợp lý thì nó sẽ là một phương tiện có hiệu quả để tiếp cận khách hàng.
Doanh nghiệp thu hút khách hàng bằng cách trinh phục (hình thức mua bán, thanh
toán, vận chuyển) hợp lý nhất.
2.2. Các nhân tố thuộc về môi trường vĩ mô
2.2.1. Các nhân tố về chính trị pháp luật
Các nhân tố chính trị pháp luật có ảnh hưởng mạnh mẽ tới khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp. Nó bao gồm hệ thống luật và các văn bản dưới luật, các
công cụ chính sách của nhà nước, tổ chức bộ máy điều hành của chính phủ và các
tổ chức chính trị xã hội.
Một thể chế chính trị ổn định, luật pháp rõ ràng, rộng mở sẽ là cơ sở cho
việc đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh có
hiệu quả. Ví dụ các luật thuế có ảnh hưởng rất lớn đến cạnh tranh, đảm bảo sự bình
đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau và trên mọi
lĩnh vực; thuế xuất nhập khẩu cũng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp sản xuất trong nước.
Các yếu tố cơ bản của môi trường thành phần này được lưu ý là:
- Quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển xã hội và nền kinh tế của Đảng
cầm quyền.
- Chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện các quan điểm, mục tiêu của
chính phủ và khả năng điều hành của chính phủ.
- Mức độ ổn định chính trị – xã hội
- Thái độ và phản ứng của các tổ chức xã hội, của các nhà phê bình xã hội.
- Thái độ phản ứng của dân chúng.
2.2.2. Các nhân tố về mặt kinh tế
Các nhân tố ảnh hưởng chủ yếu là:
 Tỷ giá hối đoái và giá trị của đồng tiền trong nước

Nhân tố này có tác động nhanh chóng và sâu sắc đối với từng quốc gia nói
chung và từng doanh nghiệp nói riêng nhất là trong điều kiện trong nền kinh tế mở.
Nếu đồng nội tệ lên, giá cả của doanh nghiệp trong nước giảm, khả năng cạnh
tranh ở nước ngoài kém, khi đó giá bán của hàng hoá tính bằng đồng ngoại tệ sẽ
cao hơn của các đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa, khi đồng nội tệ lên giá khuyến khích
nhập khẩu vì giá cả hàng nhập khẩu sẽ giảm và như vậy khả năng cạnh tranh của
các doanh nghiệp trong nước sẽ bị giảm ngay trên thị trường trong nước. Ngược lại
khi đồng nội tệ giảm giá, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tăng cả trên
thị trường trong nước và thị trường nước ngoài vì khi đó giá bán hàng hoá sẽ giảm
hơn so với các đối thủ cạnh tranh kinh doanh hàng hoá do nước khác sản xuất.
 Tốc độ tăng trưởng
Tốc độ tăng trưởng cao làm cho thu nhập của dân cư tăng, khả năng thanh
toán của họ tăng dẫn đến sức mua tăng. Đây là cơ hội tốt cho các nhà doanh
nghiệp, nếu nhà doanh nghiệp nào nắm bắt được điều này và có khả năng đáp ứng
được nhu cầu khách hàng (về mặt số lượng, giá bán, chất lượng, mẫu mã) thì chắc
chắn doanh nghiệp đó sẽ thành công và có khả năng cạnh tranh cao.
 Lãi suất cho vay của các ngân hàng
Nhân tố này cũng có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp bởi vì vốn vay trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp là không thể thiếu. Khi
lãi suất cho vay của ngân hàng cao dẫn đến chi phí của các doanh nghiệp tăng lên
do phải trả tiền vay lớn hơn, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp kém đi nhất là
khi các đối thủ cạnh tranh có tiềm lực mạnh về vốn.
2.2.3. Môi trường kinh tế và công nghệ
Nhóm các yếu tố này ngày càng quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến
môi trường cạnh tranh, tác động một cách quyết định đến hai yếu tố cơ bản nhất
tạo nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường đó là chất lượng và giá
bán. Khoa học công nghệ tác động đến chi phí cá biệt của các doanh nghiệp, qua
đó tạo nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm nói riêng và khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp nói chung. Hiện nay trên thế giới đã chuyển từ cạnh tranh về giá
sang cạnh tranh về chất lượng, cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ có hàm

lượng khoa học công nghệ cao.
Kỹ thuật và công nghệ mới sẽ giúp các cơ sở sản xuất trong nước tạo ra
được những thế hệ kỹ thuật và công nghệ tiếp theo nhằm trang bị và tái trang bị
toàn bộ cơ sở sản xuất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân, đây là tiền đề để các
doanh nghiệp ổn định và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
Các yếu tố quan trọng của môi trường này bao gồm:
• Tiềm năng của nền kinh tế: Là một yếu tố tổng quát phản ánh nguồn lực có
thể huy động và chất lượng của nó. Bao gồm: tài nguyên con người, vị trí địa lý, dự
trữ quốc gia…
• Hoạt động ngoại thương, xu hướng đóng mở của nền kinh tế: Tác động
mạnh mẽ đến các cơ hội phát triển của doanh nghiệp, các điều kiện của cạnh tranh,
khả năng sử dụng ưu thế quốc gia và thế giới về công nghệ, nguồn vốn, hàng hoá,
mở rộng quy mô hoạt động.
• Hệ thống thuế, mức độ hoàn thiện và thực thi: Liên quan đến sự công bằng
trong cạnh tranh, thể hiện ưu thế phát triển trong nền kinh tế và cần được xem xét
khi đánh giá cơ hội kinh doanh.
• Trình độ trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ của ngành, của nền kinh tế ảnh
hưởng đến khả năng sản xuất sản phẩm với các cấp chất lượng, năng suất lao động,
khả năng cạnh tranh.
• Khả năng nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nền kinh tế:
Phản ánh tiềm năng phát triển và đổi mới công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý…
liên quan đến đổi mới sản phẩm, chu kỳ sống của sản phẩm, khả năng cạnh tranh
có tính tiên phong.
2.2.4. Môi trường cạnh tranh
Cạnh tranh được xác định là động lực thúc đẩy sự phát triển của nề kinh tế
thị trường với nguyên tắc ai hoàn thiện hơn, ai thoả mãn tốt hơn nhu cầu, hiệu quả
tốt hơn thì người đó sẽ thắng, tồn tại và phát triển. Duy trì cạnh tranh bình đẳng và
đúng pháp luật là nhiệm vụ của chính phủ. Trong điều kiện đó vừa mở ra các cơ
hội để doanh nghiệp kiến tạo hoạt động của mình vừa yêu cầu các doanh nghiệp
phải luôn vươn lên phía trước “vượt qua đối thủ”. Điều kiện để cạnh tranh và các

thành phần tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh để “vượt lên phía trước”
tạo ra môi trường cạnh tranh trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp cần xác định cho
mình một chiến lược cạnh tranh hoàn hảo. Chiến lược cạnh tranh cần phản ánh
được các yếu tố ảnh hưởng của môi trường cạnh tranh bao quanh doanh nghiệp.
Các nhân tố của môi trường cạnh tranh bao gồm:
o Điều kiện chung về cạnh tranh trên thị trường
Các quan điểm khuyến khích hay hạn chế cạnh tranh, vai trò và khả năng
của chính phủ trong việc điều khiển cạnh tranh, các quy định về cạnh tranh và ảnh
hưởng của nó trong thực tiễn sản xuất kinh doanh… có liên quan đến quá trình
đánh giá cơ hội kinh doanh và lựa chọn giải pháp cạnh tranh.
o Số lượng đối thủ
Số lượng đối thủ cạnh tranh bao gồm:
+ Các đối thủ cạnh tranh sơ cấp: Cùng tiêu thụ một loại sản phẩm đồng nhất
+ Các đối thủ cạnh tranh thứ cấp: sản xuất và tiêu thụ những sản phẩm có
khả năng thay thế.
Đây là cơ sở để xác định mức độ khốc liệt của cạnh tranh trên thị trường
thông qua đánh giá trạng thái cạnh tranh của thị trường mà doanh nghiệp tham gia.
Có 4 trạng thái cạnh tranh cơ bản của thị trường đó là:
- Trạng thái thị trường cạnh tranh thuần tuý
Có rất nhiều đối thủ có quy mô nhỏ và có sản phẩm đồng nhất. Doanh
nghiệp định giá theo giá thị trường và không có khả năng tự đặt giá.
- Thị trường cạnh tranh hỗn tạp
Có một số đối thủ có quy mô lớn hơn so với quy mô của thị trường đưa ra
bán sản phẩm đồng nhất cơ bản. Giá được xác định theo giá thị trường, đôi khi có
thể có khả năng điều chỉnh giá của doanh nghiệp.
- Thị trường cạnh tranh độc quyền
Có một số ít đối thủ có quy mô lớn đưa ra bán các sản phẩm khác nhau.
Doanh nghiệp có khả năng tự điều chỉnh giá nhưng không hoàn toàn tuỳ ý mình
bởi tuy cố gắng kiểm soát đưộc một thị trường nhỏ song có khả năng thay thế.
- Thị trường độc quyền

Chỉ có một doanh nghiệp đưa ra bán sản phẩm trên thị trường, không có đối
thủ cạnh tranh, hoàn toàn có quyền đặt giá.
o Điểm mạnh, điểm yếu của các đối thủ cạnh tranh
Liên quan đến sức mạnh cụ thể của từng đối thủ trên thị trường: Quy mô, thị
phần, tiềm lực tài chính, kỹ thuật công nghệ, tổ chức quản lý, lợi thế cạnh tranh…
qua đó xác định được vị thế của đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
o Chiến lược sản xuất kinh doanh của các đôi thủ
Liên quan đến mục tiêu, giải pháp cách thức cạnh tranh của từng doanh
nghiệp trên thị trường, mỗi doanh nghiệp có thể lựa chọn chiến lược kinh doanh
được xây dựng theo vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
2.2.5. Các nhân tố tự nhiên
Các nhân tố tự nhiên bao gồm tài nguyên thiên nhiên của đất nước, vị trí địa
lý, phân bố địa lý của các tổ chức kinh doanh. Các nhân tố này tạo ra những điều
kiện thuận lợi hoặc khó khăn ban đầu cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Nếu tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí địa lý thuận lợi sẽ giúp cho các doanh
nghiệp tiết kiệm được các chi phí (nguyên vật liệu, chi phí vận chuyển…) do đó
tăng khả năng cạnh tranh. Hơn nữa vị trí địa lý thuận lợi tạo điều kiện cho doanh
nghiệp khuyếch trương sản phẩm, mở rộng thị trường. Ngược lại những nhân tố tự
nhiên không thuận lợi sẽ tạo ra khó khăn ban đầu cho doanh nghiệp và khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp tất sẽ bị thuyên giảm.
2.3. Các nhân tố thuộc môi trường ngành
Môi trường ngành (môi trường tác nghiệp) là môi trường phức tạp nhất và
cũng ảnh hưởng nhiều nhất đến cạnh tranh. Sự thay đổi có thể diễn ra thường
xuyên và khó sự báo chính xác được, khác với môi trường vĩ mô, môi trường

×