Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.53 KB, 9 trang )

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại tín dụng
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tín dụng
* Khái niệm tín dụng
Tín dụng là quan hệ kinh tế giữa người đi vay và người cho vay (quan hệ vay
mượn), là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một giá trị hay hiện vật theo những
điều kiện mà hai bên thỏa thuận, hết thời hạn thì người đi vay phải trả cho người
cho vay số tài sản kèm theo một số lợi tức.
Theo từ điển thuật ngữ tài chính thì: “Tín dụng là một phạm trù kinh tế tồn tại
trong các phương thức sản xuất hàng hóa khác nhau và được biểu hiện như sự vay
mượn trong thời hạn nào đó”. Khái niệm vay mượn bao gồm sự hoàn trả. Chính sự
hoàn trả là đặc trung thuộc bản chất của tín dụng, là dấu ấn phân biệt phạm trù tín
dụng với các phạm trù cấp phát tài chính khác[19].
Tín dụng là một phạm trù kinh tế, thể hiện quan hệ chuyển nhượng quyền sử
dụng tư bản giữa người cho vay và người đi vay trên ba nguyên tắc: có hoàn trả, có
thời hạn và có đền bù.
Đối tượng của tín dụng là vốn vay, là tư bản “lưu động” ở dạng thể lý (hàng
hóa, vật tư) hay dạng tài chính (tiền giao dịch, tiền tín dụng) được sử dụng với mục
đích tạo lãi. Chủ thể tham gia tín dụng bao gồm các cá nhân và tổ chức hợp pháp
đóng vai trò đi vay hoặc bên cho vay.
Tóm lại, tín dụng không chỉ là một hình thức vận động của tiền tệ (vốn vay),
bên cạnh đó còn là một loại quan hệ xã hội, trước hết dựa vào lòng tin. Khi một tổ
chức tín dụng cấp một khoản tín dụng cho khách hàng, trước hết là họ tin tưởng
khách hàng có khả năng trả nợ món nợ đó. Tín dụng từ xa xưa dựa vào lòng tin là
chủ yếu, ngày nay nó được pháp luật bảo trợ. Tín dụng biểu hiện các mối liên hệ
kinh tế gắn liền với các quá trình phân phối lại vốn tiền tệ theo nguyên tắc hoàn
trả. Cơ sở vật chất tín dụng là tiền tệ và hàng hóa.
* Đặc điểm của tín dụng
- Chủ thể thay đổi quyền sử dụng mà không thay đổi quyền sở hữu vốn tín dụng.
- Thời gian tín dụng được xác định do thỏa thuận người cho vay và người đi vay
vốn.


- Người sở hữu vốn tín dụng được nhận một phần thu nhập dưới hình thức lợi tức.
2.1.2. Phân loại tín dụng
Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tùy vào góc độ xem xét, tuy vậy
cách phân loại dựa theo thời gian, mục đích, tính chất và nguồn gốc cung cấp tín
dụng là những cách phân loại tín dụng phổ biến nhất đặc biệt là trong tín dụng
nông thôn.
+ Phân loại theo thời gian tín dụng: Có 3 loại:
- Tín dụng ngắn hạn: Là tín dụng có thời gian sử dụng <1 năm
- Tín dụng trung hạn: Là tín dụng có thời gian sử dụng từ 1 đến 5 năm
- Tín dụng dài hạn: Là tín dụng có thời gian sử dụng >5 năm
+ Phân loại tín dụng theo biểu hiện vốn vay:
- Tín dụng bằng tiền
- Tín dụng bằng hiện vật
+ Phân loại tín dụng theo phương diện tổ chức pháp luật:
- Tín dụng chính thức: Là các tổ chức tài chính, tín dụng có đăng ký hoạt động
công khai theo pháp luật, chịu sự giám sát, quản lý của các cấp chính quyền nhà
nước. Tín dụng chính thức giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tín dụng quốc gia.
- Tín dụng không chính thức: Là các tổ chức tín dụng năm ngoài các đối tượng
chính thức nói trên, hoạt động của nó không chịu sự quản lý và kiểm soát của các
cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động tín dụng nhưng vẫn có nguyên tắc nhất
định giữa những người đi vay và người cho vay để tránh rủi ro.
+ Các giai đoạn của một nghiệp vụ tín dụng:
- Giai đoạn cấp tín dụng: Là giai đoạn mà bên cho vay chuyển giá trị tín dụng cho
bên đi vay.
- Giai đoạn ưu đãi: Là giai đoạn bên đi vay được sử dụng toàn bộ giá trị vốn vay
như tài sản của mình.
- Giai đoạn hoàn trả: Là giai đoạn vốn gốc và tiền mặt được hoàn trả cho bên cho
vay.
2.2. Vai trò và chức năng của tín dụng
2.2.1. Bản chất và vai trò của tín dụng

+ Bản chất của tín dụng
Tín dụng phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa chủ thể sở hữu và các chủ thể sử
dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế theo nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn cả
gốc vốn lẫn lợi tức.
- Bản chất tín dụng biểu hiện ở quá trình vận động của tín dụng trong nền kinh tế
thị trường, thông qua các giai đoạn sau:
+ Giai đoạn cho vay: vốn tiền tệ được chuyển từ người cho vay sang người đi vay.
Khi đó giá trị của vốn tín dụng được chuyển sang cho người đi vay.
+ Ở giai đoạn thực hiện vốn tín dụng trong quá trình sản xuất, người đi vay được
quyền sử dụng giá trị của vốn tín dụng vốn vay được sử dụng trực tiếp để mua
hàng hóa, thỏa mãn nhu cầu sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng của người đi vay.
Song người đi vay không có quyền sở hữu giá trị vốn vay mà chỉ mà chỉ được sử
dụng tạm thời trong một thời gian nhất định được thỏa thuận giữa người đi vay và
người cho vay.
+ Ở giai đoạn hoàn trả tín dụng: Kết thúc một vòng tuần hoàn tín dụng.
+ Vai trò của tín dụng
- Tăng cường tính linh hoạt của nền kinh tế
- Tiết kiệm chi phí lưu thông và tăng tốc độ chu chuyển vốn
- Với tư cách là công cụ tập trung vốn và tích lũy, tín dụng góp phần giảm hệ số
tiền nhàn rỗi, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, góp phần tăng vòng quay của vốn,
tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông và góp phần khắc phục lạm phát tiền tệ.
- Tín dụng góp phần cung cấp khối lượng vốn cho các doanh nghiệp, từ đó tăng
quy mô sản xuất kinh doanh, đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và
công nghệ mới, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, tạo khả năng
và khuyến khích đầu tư vào các công trình lớn, các ngành, các lĩnh vực, có ý nghĩa
quan trọng đối với quốc tế dân sinh, thức đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
- Tín dụng góp phần thức đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ giao lưu tiền tệ giữa
nước ta và các nước khác trên thế giới và trong khu vực.
- Tín dụng góp phần vào việc hình thành, điều chỉnh và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng xã hội chủ nghĩa.

- Tín dụng tạm thời hỗ trợ vốn tiêu dùng cho cư dân cải thiện đời sống.
2.2.2. Chức năng của tín dụng
- Tập trung và phân phối lại các nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế
thông qua hai quá trình huy động và cho vay nhằm sử dụng vốn có hiệu quả để
giúp cho sự tăng trưởng kinh tế-xã hội[12].
- Tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông xã hội: Khi sử dụng tín dụng người ta có
thể vay tiền mặt bằng các phương tiện tín dụng. Từ đó làm giảm lượng tiền mặt
trong lưu thông nên tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt.
- Phản ánh và kiểm soát hoạt động kinh tế: Chức năng này phát triển của hai chức
năng trên, cụ thể là: Thông qua kế hoạch huy động và cho vay của ngân hàng, sẽ
phản ánh được mức độ phát triển của nền kinh tế về các mặt, đồng thời qua nghiệp
vụ cho vay, ngân hàng có điều kiện nhìn tổng quát vào cấu trúc tài chính của từng
đơn vị cho vay. Từ đó phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm chế độ quản lý
kinh tế của nhà nước.
2.3. Khái niệm về tổ chức, chương trình tín dụng
- Tổ chức tín dụng: Là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật các các
tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền
tệ, là dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín
dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán[22].
- Chương trình tín dụng: Trong nền kinh tế mở, ngoài tín dụng thanh toán và đầu tư
ở tầm vi mô còn có chương trình tín dụng vĩ mô giữa các Chính phủ, các chương
trình tín dụng vi mô của các tổ chức phi chính phủ. Trong nội bộ của từng quốc
gia, tùy theo mục tiêu chiến lược cụ thể mà các chương trình tín dụng riêng biệt
đặc thù trong từng lĩnh vực trong một thời hạn nhất định. Đối với các tổ chức phi
chính phủ có hoạt động tài chính vi mô thì cần phân biệt thành hai loại: các dự án
chỉ có hoạt động tài chính vi mô và các dự án có hoạt động tài chính vi mô lồng
ghép với các hoạt động khác[22].
Nhiều tổ chức phi chính phủ chỉ sử dụng tài chính vi mô như là một phương
tiện để đạt được mục đích, chứ không phải bản thân nó là mục đích. Một số tổ chức
đã sử dụng tài chính vi mô để thực thi các chương trình giáo dục sức khỏe và kế

hoạch hóa gia đình. Hoạt động tài chính vi mô kết hợp với các hoạt động khác có
thể khai thác tình hình kinh tế theo phạm vi hay cung cấp kiến thức, kỹ năng trong
sản xuất hộ gia đình và cải thiện phúc lợi.
2.4. Tín dụng nông nghiệp, nông thôn ở một số nước và ở Việt Nam
2.4.1. Tín dụng nông nghiệp, nông thôn ở một số nước
- Tín dụng nông nghiệp, nông thôn ở Nhật Bản:
Chính phủ Nhật Bản đã khuyến khích phát triển nông nghiệp bằng cách thành
lập ngân hàng nông- công nghiệp địa phương. Vào những năm 1960, Chính phủ
Nhật Bản đã có chương trình cho vay để tăng đầu tư cho nông nghiệp, cho vay để
mua sắm tài sản, mở rộng đất trang trại, xây dựng cơ sở hạ tầng. Nguồn vốn là từ
chính phủ và tư nhân thông qua HTXNN. Lãi suất cho vay phát triển nông nghiệp
là lãi suất thấp, thời gian vay dài hạn. HTXNN ở Nhật Bản đóng vai trò quan trọng
trong việc phát triển nông nghiệp ở Nhật Bản, sự hình thành của HTXNN là huy
động tiết kiệm và vốn dư thừa từ nông nghiệp và nông dân cho vay các thành phần
kinh tế kinh doanh ngoài nông nghiệp[21].
- Tín dụng nông nghiệp, nông thôn ở Philippin:
Hệ thống tín dụng cung cấp vốn tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn ở
Philipin bao gồm: các Ngân hàng nông thôn, Ngân hàng tiết kiệm, các ngân hàng
thương mại và các ngân hàng của Chính phủ. Ngân hàng nông thôn là tổ chức tín
dụng chính thống lớn nhất, chuyên cung cấp tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn.
Chính phủ Philipin đã có những chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông
nghiệp, nông thôn.
Từ năm 1975, Chính phủ đã có chỉ tiêu bắt buộc các ngân hàng thương mại
phải dành tối thiểu 25% cho vay ngành nông nghiệp. Từ năm 1986 trở lại đây,
Chính phủ Philipin đã ban hành chính sách tín dụng mới và được thực hiện dưới sự
bảo trợ của hội đồng chính sách tín dụng nông nghiệp, nội dung chính sách này
bao gồm: Chấp nhận cơ chế thị trường việc tạo nguồn tài chính, thực hiện lãi suất
thị trường, giảm trợ cấp ưu tiên trong Ngân hàng nông nghiệp, chấm dứt hoạt động

×