Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN NAM HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169 KB, 27 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN
DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI CHI
NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG
THÔN NAM HÀ NỘI
I. ĐỊNH HƯỚNG VỀ MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG
ĐỐI VỚI CÁC DNVVN TẠI CHI NHÁNH NHNo NAM HÀ NỘI.
DNVVN trên địa bàn thành phố Hà Nội có vai trò rất quan trọng
trong việc phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Hiện nay khu
vực kinh tế DNVVN của Thành phố thu hút hơn 800 ngàn lao động, hàng
năm nộp ngân sách nhà nước gần 100 tỷ đồng. Đầu tư cho khối kinh tế này
phát triển cũng chính là phát huy nội lực, làm giàu từ mỗi cá thể, tiểu chủ.
DNVVN trên địa bàn Thành phố đang thay đổi theo hướng tích cực, những
khó khăn do cơ chế, chính sách chỉ là tạm thời khi các luật định đang từng
bước hoàn thiện và gần gũi với thực tế hơn, vai trò quan trọng của DNVVN
ngày càng được khẳng định, xã hội đang thay đổi cách nhìn với họ theo
hướng quan tâm hơn, tạo điều kiện hơn. Chính phủ đã có những biện pháp
cụ thể nhằm cải thiện môi trường hoạt động kinh doanh như: Cho ra đời
luật doanh nghiệp mới, khuyến khích thành lập quỹ bảo lãnh DNVVN vay
vốn... Tuy nhiên, DNVVN hiện nay đang gặp không ít khó khăn trong sản
xuất, kinh doanh như: do sức mua của thị trường giảm sút nên hàng hoá
tiêu thụ chậm; kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, tốc độ tăng trưởng giảm. Nhưng
khó khăn nổi cộm nhất đối với họ hiện nay vẫn là thiếu vốn .
Công tác tín dụng Ngân hàng là một “kênh”rất quan trọng để cung
cấp vốn cho các doanh nghiệp. Thời gian qua chi nhánh NHNo Nam Hà
Nội đã có những tích cực trong vấn đề này, song phần vốn cung cấp cho
DNVVN thực sự chưa tương xứng với tiền năng, với tầm vóc và vai trò của
chi nhánh đối với nhu cầu. Năm 2002 tỷ lệ cho vay đối với các DNVVN
mới chỉ ở mứcthấp so với tổng dư nợ. Có thể nói rằng đây là một hạn chế
lớn trong công tác tín dụng tại chi nhánh trong thời gian qua. Để khắc phục
những mặt còn tồn tại, căn cứ vào chiến lược hoạt động kinh doanh của
NHNo Việt nam và mục tiêu phát triển kinh tế của Thành phố. Định hướng


công tác tín dụng của chi nhánh ngân hàng trong thời gian tới là:
* Về công tác huy động vốn:
Tuyên truyền rộng rãi thường xuyên tới mọi đối tượng khách hàng về
các hình thức huy động vốn và lãi suất. Tổ chức phục vụ khách hàng nhanh
chóng, thuận lợi để thu hút được nguồn vốn từ các tổ chức kinh tế và dân
cư. Mở thêm các phong giao dịch, cá phòng huy động vốn. Thực hiện
chương trình Marketing ngân hàng một cách hiệu quả hơn.Tổng nguồn vốn
huy động năm 2003 tăng 30% so với năm trước .
* Công tác tín dụng:
Thực hiện cho vay bình đẳng đối với mọi đối tượng khách hàng,
không phân biệt thành phần kinh tế. Mở rộng thị trường đầu tư, bên cạnh
việc tiếp tục phát huy đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước thuộc các lĩnh
vực kinh tế trọng điểm, chi nhánh còn chú trọng vào việc mở rộng và nâng
cao hiệu quả cho vay đối với thành phần kinh tế khác, đặc biệt là khu vực
kinh tế của các DNVVN vì thị trường tín dụng này còn nhiều nhu cầu về
vốn thực hiện những dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh có hiệu
quả nhưng chưa được đáp ứng. Xác định mục tiêu phấn đấu dư nợ bình
quân 1 cán bộ và mục tiêu dư nợ, tăng trưởng dư nợ, thu nợ quá hạn, thu
lãi.
Với mục tiêu đặt ra của chi nhánh là dư nợ cho vay đạt : 600 tỷ đồng
tăng 25% so với cuối năm 2002. Trong công tác cho vay cán bộ tín dụng
phải chủ động tìm khách hàng, lựa chọn những phương án kinh doanh có
hiệu quả, mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế, nhưng đảm bảo
an toàn vốn, phát huy được hiệu quả kinh tế xã hội.
Đa dạng hoá sản phẩm: Chính sách sản phẩm cũng đóng vai trò quan trọng
trong việc mở rộng hoạt động tín dụng, nếu ngân hàng có được những sản
phẩm đa dạng có chất lượng và phù hợp với nhu cầu của khách hàng thì
không những huy động được nhiều hơn mà cho vay cũng sẽ tăng. Tuy
nhiên trong thời gian tới chi nhánh sẽ tập trung vào:
Để thực hiện được những mục tiêu đã đề ra phụ thuộc hàng loạt vào

các vấn đề như: Cơ chế chính sách và pháp luật của nhà nước, nghệ thuật
quản lý và điều hành của bản thân ngân hàng, trình độ chuyên môn nghiệp
vụ của cán bộ tín dụng và tình hình kinh tế xã hội của địa phương cũng như
lĩnh vực mà ngân hàng đang hoạt động, đó là chưa kể đến những biến động
do điều kiện thiên nhiên đem lại. Vì vậy, để có thể mở rộng và nâng cao
chất lượng tín dụng ngân hàng nhằm sử dụng nó một cách hữu hiệu nhất
phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, đòi hỏi cần phải giải quyết
một cách đồng thời các vấn đề về quản lý kinh doanh tác nghiệp và những
vấn đề về quản lý kinh tế vĩ mô.
II. GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
1. Sử dụng linh hoạt các phương thức cho vay đối với DNVVN:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) đa dạng về qui mô, ngành nghề
sản xuất kinh doanh vì vậy nhu cầu về khối lượng vốn vay, thời gian vay,
phương thức trả vốn và lãi... là không giống nhau. Chính vì vậy mà ngân
hàng với phương châm “lấy hiệu quả kinh doanh của khách hàng làm mục
tiêu hoạt động”, phải đưa ra được loại hình tín dụng phù hợp với từng yêu
cầu của khách hàng. Ngoài cách cho vay truyền thống thông qua việc thế
chấp, cầm cố tài sản chi nhánh nên tiến hành các hình thức cho vay mới
như:
* Chiết khấu các chứng từ có giá:
Các doanh nghiệp sở hữu các giấy tờ có giá như thương phiếu, tín
phiếu trái phiếu chưa đến hạn thanh toán nhưng doanh nghiệp có nhu cầu
chi tiêu đột xuất thì có thể đem những chứng từ có giá này đến ngân hàng
xin chiết khấu. Chiết khấu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn trong đó khách
hàng chuyển nhượng quyền sở hữu những chứng từ có giá chưa đến hạn
thanh toán cho ngân hàng thương mại để nhận lấy một khoản tiền bằng
mệnh giá trừ đi lợi tức và phí hoa hồng (nếu có).
Phương pháp này hiện nay chi nhánh chưa áp dụng, mà chủ yếu vẫn dừng
lại ở hình thức cầm cố giấy tờ có giá để được vay vốn Ngân hàng với số
tiền tối đa là 80% giá trị tài sản cầm cố. Việc chiết khấu trái phiếu, kỳ

phiếu, thương phiếu tạo điều kiện cho Ngân hàng chuyển dần từ hình thức
cho vay ứng trước ( nhiều rủi ro ) sang cho vay chiết khấu ít rủi ro hơn.
Đồng thời Ngân hàng nhà nước có thể tái chiết khấu các trái phiếu này khi
cần đưa thêm tiền vào lưu thông.
* Hình thức hùn vốn đầu tư liên doanh, liên kết với khách hàng.
Để mở rộng tín dụng, ngân hàng không nhất thiết chỉ cho khách hàng
vay vốn của mình mà có thể lựa chọn trong số khách hàng của mình xem
doanh nghiệp nào làm ăn có hiệu quả, có triển vọng tồn tại và phát triển lâu
dài thì ngân hàng có thể thoả thuận ký hợp đồng liên doanh, liên kết với
những doanh nghiệp đó để cùng sản xuất kinh doanh. Như vậy Ngân hàng
không những mở rộng được tín dụng của mình mà còn có điều kiện xâm
nhập thị trường từ đó tìm ra được những mặt mạnh mặt yếu của khách
hàng, đồng thời vừa trực tiếp giám sát, quản lý vốn cho vay vừa có thu
nhập cao do trực tiếp là người đầu tư vốn. Hơn nữa do có sự tư vấn, cộng
tác của chuyên gia Ngân hàng chắc chắn doanh nghiệp sẽ làm ăn có hiệu
quả hơn, hạn chế được rủi ro cho khách hàng và ngân hàng.
*
Cho vay có đảm bảo bằng các khoản sẽ thu:
Các doanh nghiệp bán hàng nhưng chưa thu được tiền do người mua mua
chịu dẫn đến làm cho doanh nghiệp bị thiếu vốn lưu động. Ngân hàng có thể giúp
doanh nghiệp thiếu vốn tạm thời bằng cách cho vay theo tỷ lệ nào đó trên khoản sẽ
thu. Tỷ lệ này cao hay thấp phụ thuộc vào chất lượng các khoản nợ đó. Việc cho
vay này có thể thông báo hoặc không thông báo cho khách hàng thiếu nợ của
doanh nghiệp tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của hai bên.
* Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tin dụng:
Ngân hàng cho vay chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay
trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút
tiền mặt.
2. Thực hiện các biện pháp thẩm định kỹ trước khi cho vay và tăng
cường kiểm tra trong và sau khi cho vay:

Trước khi phát ra một khoản tiền vay, Ngân hàng cần phải biết rõ mọi chi
tiết có liên quan đến khách hàng của mình nhằm đảm bảo cho món vay của mình
được sử dụng một cách có hiệu quả và có khả năng được hoàn trả đúng hạn cả gốc
và lãi. Tức là Ngân hàng phải tiến hành các biện pháp phân tích và đánh giá khách
hàng của mình. Đây là một việc làm cực kỳ quan trọng bởi vì khi đã giao tiền cho
người vay thì Ngân hàng chỉ còn quyền sở hữu còn quyền sử dụng khoản tiền đó
hoàn toàn phụ thuộc vào khách hàng. Việc phân tích đánh giá khách hàng ít nhất
cần đảm bảo các nội dung: Tính khả thi của phương án hoặc dự án kinh doanh, tình
hình tài chính và khả năng thanh toán của khách hàng, tìm hiểu về trình độ, uy tín
và đạo đức của người đứng đầu doanh nghiệp cũng như uy tín của doanh nghiệp
trên thị trường. Cụ thể, trong khâu phân tích đánh giá khách hàng trước khi cho
vay, Ngân hàng cần chú ý tới các nội dung sau đây:
* Sàng lọc, điều tra và giám sát:
Sàng lọc là việc Ngân hàng lựa chọn những khách hàng vay tín dụng có
triển vọng tốt ra khỏi những khách hàng có xu hướng xấu nhờ đó mà các món vay
đảm bảo thu hồi được vốn và sẽ đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Để thực hiện
việc sàng lọc một cách có hiệu quả, Ngân hàng cần phải tập hợp đầy đủ các thông
tin đáng tin cậy về khách hàng định có quan hệ tín dụng với ngân hàng. Ngân hàng
cần khai thác triệt để các mối quan hệ rộng rãi của mình với các tổ chức và cá nhân
trong xã hội để tập hợp thông tin, cụ thể là từ phía các khách hàng khác của ngân
hàng đồng thời cũng là khách hàng hoặc bạn hàng của đơn vị xin vay vốn; từ cơ
quan lãnh đạo chính quyền địa phương nơi khách hàng sinh sống hoặc hoạt động
sản xuất kinh doanh; từ các trung tâm thông tin về rủi ro tín dụng; từ các ngân hàng
bạn... Nhưng quan trọng nhất vẫn là các thông tin điều tra tại chỗ để lập nên hồ sơ
của người vay, bao gồm các chi tiết hết sức cụ thể như: Tài liệu chứng minh tư
cách pháp nhân hoặc thể nhân của người xin vay ( Quyết định thành lập, điều lệ
doanh nghiệp, nếu khách hàng là một pháp nhân; giấy chứng minh nhân dân, sổ
đăng ký hộ khẩu, nếu khách hàng là một thể nhân ), bảng cân đối tài khoản hiện tại
và những năm trước đó, tình hình sản xuất kinh doanh trong nhiều năm liên tục,
tình hình cung cấp nguyên vật liệu cũng như tình hình tiêu thụ sản phẩm của người

vay đó, trên cơ sở có so sánh và liên hệ với những nhà sản xuất và kinh doanh cùng
loại sản phẩm đó.
Về lâu dài Ngân hàng cần có các chính sách khách hàng thích hợp để tạo lập
và duy trì mối quan hệ lâu dài và bền vững với các khách hàng của mình. Đối với
các khách hàng đã có quan hệ lâu dài, ngân hàng sẽ dễ dàng thu thập được các
thông tin cần thiết với độ tin cậy cao, đồng thời tạo điều kiện cho việc giám sát
khách hàng được tốt hơn. Ngân hàng cần phân tích cho khách hàng thấy rằng mối
quan hệ lâu dài sẽ đem lại những thuận lợi đáng kể cho không chỉ ngân hàng mà cả
khách hàng bởi vì đối với một khách hàng quen thuộc thì việc giải quyết cho vay
sẽ dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn, và mức lãi suấtcho vay sẽ có nhiều ưu đãi do
Ngân hàng đã hiểu về khách hàng và có tín nhiệm không mất nhiều thời gian và
chi phí cho việc thu thập thông tin và đánh giá khách hàng. Đây cũng là một trong
những nội dung quan trọng trong chiến lược khách hàng của các Ngân hàng
thương mại, giúp các Ngân hàng trong cạnh tranh với các Ngân hàng thương mại
khác không bị mất khách hàng truyền thống. Về phía Ngân hàng các khách hàng
có quan hệ lâu dài sẽ giúp Ngân hàng có thể đối phó với những rủi ro bất ngờ mà
bản thân họ cũng không thể lường trước được vì khi đó khách hàng muốn gìn giữ
những quan hệ lâu dài với ngân hàng để được hưởng những ưu đãi trong quá trình
vay vốn.
Nói tóm lại, việc duy trì quan hệ khách hàng lâu dài cũng là một
trong những biện pháp nhằm giảm bớt rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng
vì qua đó, ngân hàng giảm bớt được chi phí tập hợp thông tin về khách
hàng, có cơ sở sàng lọc khách hàng một cách chính xác nhất, bên cạnh đó
Ngân hàng còn có thể triển khai các nghiệp vụ có lợi cho cả hai bên, ngăn
ngừa được sự lựa chọn đối nghịch và sự rủi ro đạo đức từ phía khách hàng.
Sau khi đã điều tra đầy đủ các thông tin chứng minh tư cách pháp
nhân của khách hàng, ngân hàng cần tiến hành thẩm định một cách kỹ
lưỡng phương án sản xuất kinh doanh do khách hàng lập, phải đặt ra và trả
lời các câu hỏi: Khách hàng đến vay tiền sử dụng vào mục đích gì và khoản
tiền đó sẽ được sử dụng như thế nào, làm thế nào để tiền cho vay ra tạo ra

được tỷ suất lợi nhuận cao hơn lãi suất cho vay của Ngân hàng. Nhiệm vụ
của ngân hàng là đánh giá xem kế hoạch sử dụng vốn của người vay có khả
năng thực hiện được hay không. Nếu như Ngân hàng đánh giá đúng thì sẽ
hạn chế được rất nhiều nguy cơ rủi ro có khả năng xảy ra đối với nguồn
vốn của mình.
Tình hình tài chính của khách hàng có ảnh hưởng trực tiếp, mang tính
quyết định đến việc thu hồi các khoản nợ của Ngân hàng. Những khách
hàng có tình hình tài chính vững chắc là khách hàng có khả năng đáp ứng
các khoản nợ phải trả bằng các biện pháp tài chính bình thường, tức là có
thể tự cân đối về tài chính. Trong trường hợp không tự cân đối được về mặt
tài chính, khách hàng buộc phải sử dụng biện pháp kéo dài thời gian trả nợ
người cung cấp hoặc tăng thêm khối lượng tín dụng ngân hàng, khi đó rất
dễ dẫn đến tình trạng nợ nần dây dưa ảnh hưởng không tốt tới khả năng thu
hồi vốn của ngân hàng.
Khi đánh giá tình hình tài chính của các khách hàng thuộc các
DNVVN, để có thể đảm bảo chính xác, người ta thường phân khách hàng
DNVVN ra làm hai loại: Các khách hàng là pháp nhân và các khách hàng
là thể nhân kinh tế. Việc phân loại này sẽ thuận lợi cho ngân hàng trong
khâu đánh giá khách hàng. Thực tế mỗi loại khách hàng đều có một đặc
điểm riêng về sản xuất, kinh doanh và quản lí tài chính.
Đối với các khách hàng là các doanh nghiệp thực hiện nghiêm chỉnh
pháp lệnh kế toán thống kê thì ngân hàng có thể căn cứ vào rất nhiều chỉ
tiêu kinh tế và tài chính để đánh giá tình hình tài chính và khả năng thanh
toán của họ.
Sau khi đã hoàn thành đầy đủ các bước phân tích tín dụng đối với một khách
hàng, nếu xét thấy phương án sản xuất kinh doanh đưa ra là hợp lý, mang tính khả
thi và hiệu quả kinh tế cao đồng thời khả năng tài chính của khách hàng lành mạnh
và ổn định, có khả năng hoàn trả tốt nợ gốc và lãi vay, ngân hàng sẽ tiến hành xác
định số lượng, thời hạn và lãi suất cho khoản tín dụng đó. Để đảm bảo cho khoản
tiền vay được sử dụng một cách có hiệu quả kinh tế cao nhất, ngân hàng cần căn cứ

vào nội dung và đối tượng xin vay của khách hàng để xác định các chỉ tiêu trên.
Về tính toán và xác định thời hạn cho vay là rất quan trọng nó ảnh hưởng
trực tiếp đến nguồn thu lợi nhuận của ngân hàng. Ngân hàng phải tính toán sao cho
thời hạn cho vay phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho bên
vay trả nợ đúng hạn, nếu thời hạn cho vay ngân hàng xác định quá dài sẽ dễ xảy ra
hiện tượng khách hàng thu được tiền bán hàng rồi nhưng chưa đến hạn phải trả nợ
ngân hàng sẽ sử dụng tiền vào hoạt động kinh doanh khác mà nếu không được tính
toán cẩn thận rất dễ xảy ra rủi ro đối với phần vốn này. Ngược lại nếu thời hạn quá
ngắn thì doanh nghiệp có thể không có nguồn trả nợ khi đến hạn làm cho hiệu quả
kinh doanh không đạt mức đề ra.
Về mặt lãi suất, Ngân hàng phải áp dụng mức lãi suất hợp lý, kết hợp hài
hoà giữa lợi ích của ngân hàng và lợi ích cuả khách hàng tức là lãi suất phải đảm
bảo cho ngân hàng bù đắp đủ chi phí và có lãi nhưng phải thấp hơn tỷ suất lợi
nhuận bình quân mà doanh nghiệp thu được và phải đảm bảo không vượt lãi suất
trần của ngân hàng nhà nước qui định.
Lãi suất là một vấn đề không chỉ có ngân hàng quan tâm mà các chủ thể kinh
tế cũng luôn để ý tới, nó là điểm hội tụ của rất nhiều mối quan hệ, liên quan trực
tiếp đến lợi ích vật chất của các bên. Nếu lãi suất được sử dụng đúng đắn, uyển
chuyển, linh hoạt phù hợp với những điều kiện tình hình kinh tế từng thời kỳ thì sẽ
có tác dụng trực tiếp và sẽ rất quan trọng trong việc kiềm chế và đẩy lùi lạm phát
cũng như có tác dụng kích thích đâù tư phát triển sản xuất của các doanh nghiệp,
tạo việc làm và tăng trưởng kinh tế. Mặt khác nếu sử dụng lãi suất một cách cố
định cứng nhắc thì sẽ có thể trở thành nhân tố kìm hãm sản suất. Hiện nay, cũng
như các ngân hàng thương mại khác trên địa bàn, chi nhánh cũng xác định cho
mình một mức lãi suất huy động và cho vay theo những qui định của ngân hàng
nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay lãi suất mà chi nhánh áp dụng đối với thành phần
kinh tế quốc doanh vay vốn thường xuyên và với số lượng lớn sẽ được lãi suất ưu
đãi hơn, lãi suất áp dụng đối với DNVVN thường cao hơn. Để đảm bảo sự bình
đẳng trong thời gian tới chi nhánh cần áp dụng lãi suất không phân biệt thành phần
kinh tế, điều này không phải một sớm, một chiều mà thay đổi được ngay. Nhưng

trong thời gian trước mắt để khắc phục tình trạng trên, khuyến khích hoạt động vay
vốn từ phía khách hàng là các DNVVN thì không nên áp dụng một mức lãi suất
đối với tất cả các khoản vay mà cần phải có sự linh hoạt giữa các đối tượng khách
hàng, có thể giảm lãi suất cho vay đối với những khách hàng đã quen biết, có quan
hệ tín dụng thường xuyên và làm ăn có hiệu quả để giữ khách hàng, đưa họ trở
thành khách hàng truyền thống của chi nhánh. Ngoài ra chi nhánh cần đa dạng hoá
các loại hình lãi suất tuỳ thuộc vào thời gian vay để trên cơ sở đó khách hàng có
nhiều cơ hội lựa chọn loại hình lãi suất nào phù hợp với tình hình sản xuất kinh
doanh của mình, từ đó đem lại hiệu quả kinh doanh cao đảm bảo trả được nợ cho
ngân hàng. Chi nhánh cũng cần có chính sách ưu đãi về lãi suất đối với các ngành
kinh tế có lợi nhuận thấp nhưng có ý nghĩa lớn đôí với nền kinh tế, ưu tiên những
đơn vị có vòng quay vốn nhanh, trả đúng hạn cả gốc và lãi.
Việc quyết định cho vay nên thông qua hội đồng tín dụng, một tập thể bao
gồm cán bộ lãnh đạo có trách nhiệm đủ thẩm quyền và một số chuyên gia thuộc
các lĩnh vực liên quan để hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất. Về vấn đề này những
Ngân hàng quốc tế tầm cỡ còn sử dụng tư vấn của chuyên gia nhiều lĩnh vực như
pháp chế, kỹ thuật, chuyên ngành nông, công nghiệp, môi trường điện toán, điện
tử...
Khi cho người vay rút vốn phải tôn trọng nguyên tắc rút tiền theo tiến độ dự
án và hạn chế thanh toán bằng tiền mặt, chủ yếu thực hiện thanh toán bằng chuyển
khoản qua ngân hàng. Điều này được thực hiện chặt chẽ là cơ hội giảm bớt rủi ro,
ngăn ngừa hiện tượng gian lận như hợp đồng mua bán giả dối, chuyển tiền vòng vo
gây thất thoát vốn.
Thực hiện kiểm tra chặt chẽ thường xuyên và định kỳ giám sát bên vay sử
dụng tiền vay đúng mục đích đề phòng những bất trắc có thể xảy ra. Qua kiểm tra

×