Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

BỘ TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT, HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ, XÂY DỰNG CẤP XÃ ĐẠT CHUẨN TIẾP CẬN PHÁP LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.28 KB, 46 trang )

BỘ TƯ PHÁP
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VỤ PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BỘ TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN NGHIỆP VỤ
CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT, HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ,
XÂY DỰNG CẤP XÃ ĐẠT CHUẨN TIẾP CẬN PHÁP LUẬT
(Ban hành kèm theo Công văn số 2932/BTP-PBGDPL
ngày 05/8/2019 của Bộ Tư pháp)
I. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
1. Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với bộ, ngành, cơ quan Trung ương biên
soạn Đề cương giới thiệu các Luật, Pháp lệnh mới được Quốc hội thông qua
làm tài liệu chuẩn để địa phương tuyên truyền cho cán bộ và nhân dân; biên
soạn các tài liệu PBGDPL, hòa giải ở cơ sở, xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận
pháp luật có nội dung phù hợp, thiết thực với cơ sở và hướng dẫn nghiệp vụ
PBGDPL cho BCVPL địa phương
Thực hiện đầy đủ trách nhiệm được giao theo Luật Phổ biến, giáo dục pháp
luật năm 2012, để tăng cường tuyên truyền, phổ biến Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết
mới được Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành, sau khi kết thúc mỗi
kỳ họp Quốc hội, Bộ Tư pháp đều có văn bản hướng dẫn, đôn đốc các bộ, ngành
địa phương tổ chức quán triệt, tuyên truyền, phổ biến nội dung cơ bản của Luật,
Pháp lệnh; đồng thời kịp thời phối hợp với các cơ quan chủ trì soạn thảo tổ chức
biên soạn tài liệu giới thiệu nội dung cơ bản các Luật, Pháp lệnh mới và đăng tải
đầy đủ trên Trang thông tin PBGDPL thuộc Cổng thông tin Bộ Tư pháp dưới
dạng bản word để các đối tượng thụ hưởng dễ dàng sử dụng.
Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp, các bộ, ngành, địa phương đã tổ chức biên soạn
tài liệu PBGDPL dưới nhiều hình thức gồm đặc san tuyên truyền pháp luật; sách
chuyên khảo, các câu hỏi đáp pháp luật, tình huống pháp luật, tiểu phẩm, câu
chuyện pháp luật, tờ gấp pháp luật... và chủ động cung cấp các bài giảng điện tử
giới thiệu nội dung cơ bản của Luật, Pháp lệnh mới ban hành và đăng tải trên
Trang thông tin PBGDPL cho đội ngũ làm công tác PBGDPL trên cả nước.


Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng chậm ban hành Đề cương giới thiệu một số
Luật, Pháp lệnh làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện nhiệm vụ PBGDPL tại địa
phương. Vì vậy, trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tăng cường phối hợp, hướng
dẫn, đề nghị các bộ, ngành, cơ quan chủ trì soạn thảo Luật, Pháp lệnh thực hiện
kịp thời việc biên soạn, phát hành Đề cương, chú trọng triển khai thi hành Luật,
Pháp lệnh; phối hợp cung cấp thông tin, kiến nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân
về nhu cầu PBGDPL để có hướng dẫn, định hướng biên soạn, cung cấp tài liệu
phù hợp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
2. Đề nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu cơ chế hỗ trợ báo cáo viên pháp luật
(BCVPL), tuyên truyền viên pháp luật (TTVPL); có chính sách động viên,
khuyến khích và thu hút đội ngũ cán bộ làm công tác PBGDPL; sửa đổi, bổ


sung Thông tư số 10/2016/TT-BTP theo hướng không đưa việc công nhận,
miễn nhiệm BCVPL, công nhận, cho thôi TTVPL phải thực hiện theo thủ tục
hành chính; hỗ trợ, tổ chức tập huấn, biên soạn tài liệu hướng dẫn nghiệp
vụ, PBGDPL cho BCVPL địa phương; ban hành Bộ tài liệu hướng dẫn kỹ
năng nghiệp vụ PBGDPL cho BCVPL, TTVPL; hướng dẫn chế độ thù lao
của BCVPL trong trường hợp không trong danh sách được công nhận
nhưng tham gia giảng bài, PBGDPL trực tiếp; địa phương có được áp dụng
chi hỗ trợ hàng tháng cho BCVPL theo mức 100.000 hoặc 200.000đ/tháng.
- Về cơ chế, chính sách hỗ trợ báo cáo viên, cán bộ, công chức làm
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
Những năm qua, chế độ, chính sách đối với cán bộ làm công tác PBGDPL
đã được từng bước quan tâm. Bên cạnh công chức làm công tác PBGDPL được
hưởng lương từ ngân sách nhà nước, các cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật kiêm nhiệm (báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật…)
cũng được Nhà nước tạo điều kiện về cơ chế, chính sách, tập huấn, bồi dưỡng
kiến thức pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ PBGDPL, cung cấp thông tin, tài liệu
pháp luật, có thù lao kinh phí trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Luật Phổ biến,

giáo dục pháp luật năm 2012, Thông tư số 10/2016/TT-BTP ngày 22/7/2016 của
Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định về báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên
pháp luật (Thông tư số 10/2016/TT-BTP) đã quy định về các biện pháp bảo đảm
hoạt động của đội ngũ này.
Thông tư liên tịch số 14/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 27/01/2014 giữa Bộ
Tư pháp và Bộ Tài chính ban hành quy định về việc lập dự toán, quản lý, sử dụng
kinh phí bảo đảm cho công tác PBGDPL (Thông tư liên tịch số 14/2014/TTLTBTC-BTP) đã có hướng dẫn cụ thể nội dung chi, mức chi thù lao phục vụ hoạt
động của báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật (khoản 8, 10 Điều
4; điểm b, khoản 1 Điều 5 và mục 2, Phụ lục Thông tư liên tịch). Về mức thù lao
cho báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật, hiện được dẫn chiếu áp
dụng theo quy định tại Thông tư số 36/2018/TT-BTC ngày 30/3/2018, cụ thể
Thông tư đã quy định “Tuỳ theo đối tượng, trình độ học viên, căn cứ yêu cầu chất
lượng khóa bồi dưỡng, Thủ trưởng cơ quan, đơn vị được giao chủ trì tổ chức các
khoá bồi dưỡng CBCC quyết định mức chi thù lao cho giảng viên, trợ giảng (nếu
có), báo cáo viên trong nước (bao gồm cả thù lao soạn giáo án bài giảng) trên cơ
sở thỏa thuận theo hình thức hợp đồng công việc phù hợp với chất lượng, trình
độ của giảng viên, báo cáo viên trong phạm vi dự toán được giao. Mức chi thù
lao tối đa: 2.000.000 đồng/người/buổi (một buổi giảng được tính bằng 4 tiết học)”.
Ngày 21/5/2018, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 27NQ/TW về chính sách cải cách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức,
lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp, trong đó nêu rõ: Bãi bỏ
các chế độ hỗ trợ ngoài lương đối với cán bộ, công chức có nguồn gốc từ ngân
sách nhà nước như: Tiền bồi dưỡng họp; Tiền bồi dưỡng xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật, đề án, hội thảo…(khoản 4 mục III). Theo chủ trương đó, trong
thời điểm hiện nay, việc có cơ chế hỗ trợ mức kinh phí cụ thể định kỳ cho báo cáo
viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật là không khả thi. Vì vậy, trong các
2


hoạt động chỉ đạo, điều hành, Bộ Tư pháp thường xuyên đề nghị các địa phương
tích cực, chủ động tham mưu, đề xuất, tranh thủ tối đa sự lãnh đạo, chỉ đạo của

cấp ủy, chính quyền, đoàn thể để có các giải pháp thiết thực hỗ trợ các điều kiện
đảm bảo cho hoạt động của báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật trong thời
gian tới.
- Về thực hiện thủ tục hành chính trong công nhận, miễn nhiệm
BCVPL, công nhận, cho thôi TTVPL
Thông tư số 10/2016/TT-BTP ngày 22/7/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
quy định về báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật đã bám sát quy định tại
Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về đơn giản hóa thủ tục hành chính. Trình
tự công nhận, miễn nhiệm BCVPL, công nhận, cho thôi TTVPL cơ bản được thực
hiện theo đúng quy định và được công bố là thủ tục hành chính trong lĩnh vực
PBGDPL theo Quyết định số 40/QĐ-BTP ngày 08/01/2018. Qua rà soát, đánh
giá, Bộ Tư pháp nhận thấy trong bối cảnh Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm
2012, các văn bản hướng dẫn thi hành chưa được sửa đổi, bổ sung; tại Thông tư
số 10/2016/TT-BTP, các thủ tục hành chính liên quan đến BCVPL, TTVPL vẫn
bảo đảm đầy đủ yếu tố cấu thành theo quy định tại Nghị định số 63/2010/NĐ-CP
ngày 08/6/2010 của Chính phủ về kiểm soát thủ tục hành chính, Nghị định số
92/2017/NĐ-CP ngày 07/8/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của
các Nghị định liên quan đến kiểm sát thủ tục hành chính.
Trong thời gian tới, trên cơ sở kết quả tổng kết Luật PBGDPL và các văn
bản hướng dẫn thi hành, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục nghiên cứu, xem xét đề xuất hoàn
thiện các quy định để phù hợp với thực tế, bảo đảm thuận lợi trong quản lý và
phát huy hiệu quả đội ngũ này.
- Về hỗ trợ, tổ chức các lớp tập huấn; ban hành Bộ tài liệu hướng dẫn kỹ
năng nghiệp vụ công tác PBGDPL cho BCVPL, TTVPL
Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 quy định cụ thể trách nhiệm
PBGDPL của các cơ quan, tổ chức, trong đó, Ủy ban nhân dân các cấp có trách
nhiệm “tập huấn, bồi dưỡng, quản lý đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên
truyền viên pháp luật; thực hiện chuẩn hóa đội ngũ giáo viên dạy môn giáo dục
công dân, giáo viên, giảng viên dạy pháp luật theo quy định của pháp luật”. Tuy
nhiên, để tạo điều kiện cho địa phương, hàng năm, Bộ Tư pháp đều có tổ chức các

lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng PBGDPL cho công chức
thực hiện công tác PBGDPL tại các Sở Tư pháp, báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh
góp phần nâng cao năng lực cho đội ngũ này.
Ngày 28/12/2018, Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định 3147/QĐ-BTP ban
hành Chương trình khung bồi dưỡng nghiệp vụ đối với báo cáo viên pháp luật,
tuyên truyền viên pháp luật. Chương trình làm cơ sở để Bộ, ngành, đoàn thể địa
phương tham khảo, áp dụng trong quá trình tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ đối với
báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật. Hiện nay, Bộ Tư pháp đã và
đang phối hợp với Dự án EUJULE xây dựng Bộ tài liệu, dự kiến hoàn thành trong
năm 2019.
Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục nghiên cứu, đổi mới, nâng cao
3


chất lượng, hiệu quả công tác tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, chú trọng
bồi dưỡng kỹ năng PBGDPL; tăng cường trao đổi kinh nghiệm, hướng dẫn, tháo
gỡ các khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn triển khai công tác PBGDPL; đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin, thực hiện các bài giảng điện tử, triển khai hiệu quả
Đề án ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác PBGDPL góp phần đáp ứng
yêu cầu của công tác này trong tình hình mới.
- Về việc tính thù lao cho BCVPL trong trường hợp không trong danh
sách nhưng tham gia giảng bài, PBGDPL trực tiếp; Theo khoản 10, Điều 4
Thông tư liên tịch số 14/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 27/01/2014 của liên Bộ Tài
chính - Bộ Tư pháp quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán
kinh phí ngân sách Nhà nước bảo đảm cho công tác PBGDPL và chuẩn tiếp cận
pháp luật của người dân tại cơ sở quy định “Chi thù lao cho báo cáo viên pháp
luật, tuyên tuyền viên pháp luật, người được mời tham gia phổ biến, giáo dục
pháp luật…”. Trường hợp không phải là báo cáo viên pháp luật nhưng vẫn được
mời tham gia giảng bài, phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp thì người đó được
hưởng chế độ thù lao theo quy định tại mục c.2 Phụ lục Thông tư liên tịch số

14/2014/TTLT-BTC-BTP “Thù lao cho người được mời tham gia công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật .. tùy theo trình độ, áp dụng mức chi thù lao báo cáo
viên pháp luật Trung ương, cấp tỉnh, báo cáo viên cấp huyện, tuyên truyền viên,
cộng tác viên thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật”. Mức chi cụ thể được dẫn
chiếu áp dụng theo quy định tại Thông tư số 36/2018/TT-BTC ngày 30/3/2018
của Bộ Tài chính hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí
dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
- Địa phương có được chi hỗ trợ hàng tháng cho BCVPL theo định mức
100.000 đồng hoặc 200.000đ/tháng?
- Những năm qua, chế độ, chính sách đối với cán bộ làm công tác PBGDPL
đã từng bước được quan tâm. Bên cạnh công chức làm công tác PBGDPL được
hưởng lương từ ngân sách nhà nước, đội ngũ thực hiện công tác PBGDPL kiêm
nhiệm (báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật…) cũng được hỗ trợ
về kinh phí trong quá trình thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Luật Phổ biến,
giáo dục pháp luật năm 2012, Thông tư số 10/2016/TT-BTP, Thông tư liên tịch số
14/2014/TTLT-BTC-BTP.Theo đó, mức chi, nội dung chi tại Thông tư liên tịch số
14/2014/TTLT-BTC-BTP để chi cho hoạt động cụ thể về PBGDPL, không quy
định về chi thường xuyên, định kỳ.
3. Đề xuất Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định chế độ
phụ cấp trách nhiệm thành viên Hội đồng ở các cấp
- Hội đồng phối hợp PBGDPL và các thành viên hoạt động với tính chất
kiêm nhiệm, tư vấn về công tác PBGDPL. Chế độ phụ cấp cho thành viên của
Hội đồng, hiện nay theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước năm 2015, Thông
tư liên tịch số 14/2014/TTLT-BTC-BTP và các văn bản pháp luật hướng dẫn về
chế độ, định mức chi tiêu tài chính hiện hành không quy định chế độ phụ cấp cho
đội ngũ này.
Để phục vụ cho hoạt động của Hội đồng, tại khoản 1 Điều 4 Thông tư liên
4



tịch số 14/2014/TTLT-BTC-BTP quy định chi hoạt động của Hội đồng phối hợp
phổ biến, giáo dục pháp luật các cấp bao gồm: Chi tổ chức các cuộc hội thảo, tọa
đàm nghiệp vụ, các phiên họp định kỳ, đột xuất, phiên họp tư vấn của Hội đồng;
Chi văn phòng phẩm và biên soạn tài liệu phục vụ các hoạt động của Hội đồng;
Chi các hoạt động chỉ đạo, kiểm tra; Chi sơ kết, tổng kết, thi đua, khen thưởng.
-Về các kiến nghị chi hỗ trợ hàng tháng cho BCVPL theo định mức và chi
phụ cấp cho thành viên Hội đồng PHPBGDPL, ngày 21/5/2018 Ban Chấp hành
Trung ương ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về chính sách cải cách tiền lương
đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong
doanh nghiệp, trong đó nêu rõ: Bãi bỏ các chế độ hỗ trợ ngoài lương đối với cán
bộ, công chức có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước như: Tiền bồi dưỡng họp;
Tiền bồi dưỡng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đề án, hội thảo…(khoản 4
mục III). Vì vậy, việc dự kiến chi hỗ trợ hàng tháng cho BCVPL theo định mức
và chi phụ cấp cho thành viên Hội đồng PHPBGDPL là không phù hợp với tinh
thần của Nghị quyết số 27-NQ/TW nêu trên.
4. Tổ chức và hoạt động của Hội đồng PHPBGDPL còn gặp một số khó
khăn (triệu tập phiên họp không đầy đủ các thành viên; địa phương có rất
nhiều Ban chỉ đạo, Hội đồng nên việc tham gia, thực hiện trách nhiệm của
các ngành còn hạn chế; triển khai các nhiệm vụ của Hội đồng không có
nhiều thuận lợi khi các thành viên chủ yếu là cấp phó…)
Trong thời gian qua, Hội đồng PHPBGDPL đã có nhiều đóng góp cho công
tác PBGDPL. Thực hiện chức năng tư vấn về PBGDPL, Hội đồng PHPBGDPL
đã phát huy vai trò là một thiết chế phối hợp, huy động sự tham gia của cả hệ
thống chính trị vào công tác này.
Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động của Hội đồng có lúc, có nơi còn chưa
hiệu quả, các thành viên chưa thực hiện tròn nhiệm vụ, trách nhiệm của mình
trong tư vấn các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác PBGDPL; các phiên họp
thiếu nhiều thành viên, tình trạng cử thư ký đi thay diễn ra thường xuyên; các ý
kiến góp ý, nhiệm vụ tư vấn của Hội đồng còn chưa đáp ứng được yêu cầu…
Với vai trò là cơ quan thường trực Hội đồng phối hợp PBGDPL ở Trung

ương cũng như là cơ quan quản lý nhà nước về công tác PBGDPL, Bộ Tư pháp
cũng đã và đang áp dụng nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của Hội đồng như thực hiện đa dạng các hình thức lấy ý kiến (bằng văn bản,
qua email); chuẩn bị kỹ các nội dung của phiên họp hội đồng; thực hiện phối hợp
chặt chẽ với các bộ, ngành có thành viên tham gia để đảm bảo các cuộc họp, cũng
như việc lấy ý kiến bằng văn bản, phát huy vai trò của thành viên Hội đồng trong
tham mưu, tư vấn về PBGDPL đạt hiệu quả; cơ quan thường trực Hội đồng chủ
động trong việc tham mưu, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
Hội đồng; phối hợp chặt chẽ với bộ phận tham mưu cho thành viên Hội đồng đề
ra các giải pháp thực hiện Kế hoạch hoạt động của Hội đồng, tháo gỡ các khó
khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện; các thành viên bên
cạnh thực hiện trách nhiệm, nhiệm vụ tư vấn về PBGDPL của Hội đồng còn thực
hiện trách nhiệm tư vấn cho Bộ, ngành mình thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ
PBGDPL...
5


Để hoạt động Hội đồng bảo đảm chất lượng, hiệu quả, Bộ Tư pháp đề nghị
các cơ quan, tổ chức, địa phương cần có thêm một số giải pháp như sau:
- Xác định và đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan,
đơn vị trong công tác PBGDPL; trách nhiệm của từng thành viên Hội đồng;
- Tăng cường vai trò của Ban Thư ký Hội đồng; đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin trong việc tổ chức họp, trao đổi thông tin nhằm tiết kiệm thời gian
đồng thời tăng hiệu quả hoạt động của Hội đồng.
5. Việc ban hành, triển khai nhiều Chương trình, đề án PBGDPL còn
chậm, hầu hết đều không vào thời kỳ xây dựng và trình dự toán kinh phí của
các địa phương nên đã gây khó khăn cho địa phương trong việc kịp thời
tham mưu, xây dựng kế hoạch thực hiện; việc ban hành, thực hiện Kế hoạch
PBGDPL hàng năm, kế hoạch các Chương trình, đề án của một số cơ quan,
đơn vị chưa cụ thể; chỉ đạo, đôn đốc, theo dõi thực hiện Kế hoạch chưa

thường xuyên; Kế hoạch thực hiện một số Chương trình, đề án đã ban hành
nhưng khó triển khai vì thiếu nguồn lực
Việc ban hành các Chương trình, đề án về PBGDPL xuất phát từ mục đích
triển khai công tác PBGDPL trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với yêu cầu từng
giai đoạn và ưu tiên cho các đối tượng đặc thù; đồng thời, là cơ sở để Bộ, ngành,
địa phương ưu tiên bố trí nguồn lực triển khai thực hiện.
Tuy nhiên, trong thời gian tới, trên cơ sở đánh giá từ thực tiễn, Bộ Tư pháp
sẽ tiếp tục tham mưu cho Chính phủ lựa chọn những nhiệm vụ quan trọng, cấp
bách, tập trung vào những vấn đề nóng đang được xã hội quan tâm hoặc gắn liền
với nhu cầu cuộc sống hàng ngày của người dân, đồng thời đẩy nhanh tiến độ để
đảm bảo thuận lợi cho Bộ, ngành, địa phương trong triển khai, thực hiện. Trường
hợp, khi Đề án được ban hành quá thời điểm dự toán năm, các bộ, ngành, địa
phương cần khẩn trương xây dựng kế hoạch, lập dự toán đề nghị cơ quan có thẩm
quyền cấp kinh phí bổ sung.
Để nâng cao hiệu quả triển khai thực hiện các Chương trình, đề án trong
thời gian tới, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:
- Phát huy vai trò, đề cao trách nhiệm của Sở Tư pháp, tổ chức pháp chế
Bộ, ngành, đoàn thể trong xây dựng, thẩm định, trình ban hành các Chương trình,
Đề án, Kế hoạch về PBGDPL hằng năm; bảo đảm có trọng tâm, trọng điểm, ưu
tiên đầu tư nguồn lực cho những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, tập trung vào
tháo gỡ những điểm nghẽn lớn, những vướng mắc, bất cập đã được phát hiện.
- bộ Tư pháp sẽ phối hợp chặt chẽ với Bộ, ngành, đoàn thể, địa phương
đánh giá, tổng kết việc thực hiện Chương trình, Đề án về PBGDPL để tiếp tục đề
xuất kéo dài hoặc nhân rộng, lan tỏa các kết quả, bài học từ Chương trình, Đề án,
Kế hoạch có hiệu quả, tác động tích cực; đề xuất kết thúc các Đề án không hiệu
quả hoặc không thể triển khai được do thiếu nguồn lực; kiên quyết không đề xuất
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các Chương trình, Đề án thiếu tính
khả thi, không cân đối được nguồn lực thực hiện.

6



- Bộ, ngành, đoàn thể, địa phương khi xây dựng, triển khai thực hiện
Chương trình, Đề án, Kế hoạch về PBGDPL cần bám sát điều kiện thực tiễn; tính
toán kỹ các nguồn lực và điều kiện bảo đảm để xác định mục tiêu, nhiệm vụ và
giải pháp cho phù hợp. Bên cạnh đó, triển khai thực hiện Đề án cần ưu tiên lồng
ghép, kết hợp với các nhiệm vụ chính trị, chuyên môn; gắn với thực hiện các
chương trình, đề án phát triển kinh tế - xã hội và các dự án hợp tác quốc tế…để
tận dụng, khai thác, sử dụng hiệu quả tối đa nguồn lực; tiếp tục khuyến khích, huy
động các nguồn lực xã hội tham gia thực hiện công tác PBGDPL theo chủ trương
xã hội hóa; kịp thời phát hiện vướng mắc, bất cập trong thực hiện để có giải pháp
tháo gỡ, xử lý.
6. Đề nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu chỉ đạo giải pháp, hướng dẫn để phát
huy hiệu quả của ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác PBGDPL; việc
triển khai Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường ứng dụng công
nghệ thông tin trong công tác PBGDPL đối với địa phương gặp khó khăn do
yêu cầu đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với cơ sở dữ liệu của Trung ương,
cần hướng dẫn sớm và cụ thể cho cấp tỉnh.
Hiện nay, nội dung tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật đã được Bộ Tư pháp chú trọng hướng dẫn trong Kế
hoạch hoạt động PBGDPL, hòa giải ở cơ sở, xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận
pháp luật hàng năm. Đây cũng là nhiệm vụ được Bộ Tư pháp tham mưu tập trung
triển khai trong Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2017-2021 (đã
được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành kèm theo Quyết định số 705/QĐ-TTg
ngày 25/5/2017). Trên cơ sở Chương trình, vừa qua, Bộ Tư pháp đã tham mưu
Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 471/QĐ-TTg ngày 26/4/2019 phê duyệt
Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật giai đoạn 2019-2021”.
Để triển khai Đề án đảm bảo tính thống nhất, hiệu quả, Bộ Tư pháp đã ban
hành Quyết định số 1347/QĐ-BTP ngày 14/6/2019 ban hành Kế hoạch thực hiện

Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác PBGDPL giai
đoạn 2019-2021 và năm 2019” và Công văn số 2500/CV-BTP ngày 08/7/2019 về
việc triển khai Quyết định số 471/QĐ-TTg ngày 26/4/2019, trong đó có nội dung
hướng dẫn thực hiện Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2019-2021” năm 2019. Trên cơ sở
ý kiến của địa phương, Bộ đang tiếp tục xây dựng văn bản hướng dẫn chi tiết, bảo
đảm tính khả thi trong triển khai thực hiện.
6. Kinh phí công tác PBGDPL, các chương trình, Đề án chưa đảm bảo, đề
nghị hỗ trợ kinh phí trung ương cho địa phương thực hiện công tác PBGDPL,
nhất là đối với các tỉnh chưa tự cân đối được ngân sách; nâng định mức chi, sửa
đổi, bổ sung một số nội dung chi không còn phù hợp của Thông tư liên tịch số
14/2014/TTLT-BTC-BTP. Luật PBGDPL quy định trách nhiệm của Hội đồng
nhân dân các cấp trong việc “phân bổ dự toán ngân sách địa phương cho công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật” (điểm a khoản 1 Điều 27) nhưng không có căn
cứ để xác định kinh phí cấp cho công tác PBGDPL tối thiểu ở cấp tỉnh, cấp
7


huyện, cấp xã là bao nhiêu, do vậy nhiều địa phương rất khó trong việc bố trí
kinh phí cho công tác này.
- Kinh phí công tác PBGDPL, các chương trình, Đề án chưa đảm bảo, đề
nghị hỗ trợ kinh phí trung ương cho địa phương thực hiện công tác PBGDPL,
nhất là đối với các tỉnh chưa tự cân đối được ngân sách:
Kinh phí chi cho công tác PBGDPL cũng như các Chương trình, Đề án
PBGDPL của nhiều địa phương trong thời gian qua còn rất hạn hẹp. Theo Luật Phổ
biến, giáo dục pháp luật năm 2012, Thông tư liên tịch số 14/2014/TTLT-BTCBTP ngày 27/01/2014 của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp quy định lập dự toán,
quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công
tác phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) đã quy định rõ cơ chế tài chính cho
công tác PBGDPL, nhất là đối với các tỉnh chưa tự cân đối được ngân sách.
Tuy nhiên, theo Khoản 4 Điều 9 Luật Ngân sách nhà nước năm 2015,

nguyên tắc phân cấp quản lý nguồn thu, nhiệm vụ chi và quan hệ giữa các cấp ngân
sách đã được xác định: “Nhiệm vụ chi thuộc ngân sách cấp nào do ngân sách cấp đó
bảo đảm”. Theo đó, kinh phí phổ biến, giáo dục pháp luật của các cơ quan, tổ
chức, cấp nào thụ hưởng ngân sách của cấp đó. Vì vậy, Bộ Tư pháp đề nghị các
địa phương, trong quá trình tham mưu lập dự toán ngân sách bố trí cho công tác
PBGDPL của năm sau (tháng 6, 7 của năm trước liền kề) cần chủ động phối hợp với
các sở, ban, ngành, địa phương để tổng hợp, nghiên cứu, đề xuất nhu cầu kinh phí
thực hiện công tác này; gửi Sở Tài chính tổng hợp báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh
trình Bộ Tài chính phân bổ ngân sách hàng năm. Đồng thời, chủ động báo cáo cơ
quan có thẩm quyền bố trí trong phạm vi ngân sách của địa phương. Ngoài ra, các
địa phương trong quá trình thực hiện có giải pháp lồng ghép các hoạt động để khai
thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lực; tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong
PBGDPL; cụ thể hóa các cơ chế, giải pháp để thực hiện chủ trương xã hội hoá
nhằm tạo cho công tác công tác PBGDPL có bước phát triển mới.
Về phía Bộ Tư pháp, ngày 23/7/2019, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã có Công văn
số 2739 /BTP-KHTC gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc,
trong đó đề nghị quan tâm bố trí kinh phí thỏa đáng cho công tác PBGDPL. Trên cơ
sở đó, Sở Tư pháp chủ động nắm bắt chỉ đạo của Chủ tịch Ủy ban nhân dân và phối
hợp chặt chẽ với Sở, ngành liên quan triển khai thực hiện.Trong thời gian tới, Bộ Tư
pháp sẽ tiếp tục nghiên cứu, tiếp tục phối hợp với Bộ Tài chính đề xuất, điều chỉnh
các quy định về kinh phí phổ biến, giáo dục pháp luật đảm bảo tính khả thi, phù hợp,
đồng bộ và hiệu quả.
- Về sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 14/2014/TTLT-BTC-BTP:
Về sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 14/2014/TTLT-BTC-BTP: Năm
2018, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp đã phối hợp chỉ đạo, hướng dẫn các bộ, ngành,
địa phương rà soát, đánh giá thực trạng việc triển khai Thông tư liên tịch số
14/2014/TTLT-BTC-BTP hiện nay (Công văn số 1035/BTP-PBGDPL ngày
29/3/2018), qua đó đề xuất các nội dung cần sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu
cầu công tác này. Tuy nhiên, kết quả tổng hợp ý kiến cho thấy, các bộ, ngành, địa

8


phương cơ bản vẫn đánh giá việc triển khai Thông tư liên tịch khá ổn định, đảm
bảo tương quan thống nhất chung về nội dung chi, mức chi với các văn bản tài
chính hiện hành về các lĩnh vực công việc có tính chất tương tự, là cơ sở pháp lý
quan trọng để đáp ứng việc quản lý, sử dụng, quyết toán kinh phí cho công tác
PBGDPL. Đối với một số nội dung chi, mức chi không còn phù hợp do các văn
bản được dẫn chiếu trong Thông tư liên tịch đã sửa đổi, bổ sung, thay thế, đề nghị
các bộ, ngành, địa phương căn cứ khoản 2 Điều 7 Thông tư liên tịch số
14/2014/TTLT-BTC-BTP để áp dụng văn bản mới được sửa đổi, bổ sung, thay thế
trong việc lập dự toán, thanh quyết toán kinh phí, bảo đảm nội dung và mức chi
theo quy định hiện hành.
Ngày 21/5/2019, Bộ Tài chính đã có Công văn số 5822/BTC-HCSN trình
Thủ tướng Chính phủ báo cáo về kết quả rà soát, đánh giá việc thực hiện các quy
định pháp luật hiện hành về bảo đảm kinh phí phục vụ công tác PBGDPL. Theo
đó, Bộ Tài chính nêu rõ, trong bối cảnh Đảng, Chính phủ đang chỉ đạo quyết liệt
triển khai chủ trương cải cách chính sách tiền lương theo tinh thần Nghị quyết số
27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Tài chính thống nhất với
đề xuất của Bộ Tư pháp tiếp tục thực hiện Thông tư liên tịch số 14/2014/TTLTBTC-BTP đến khi áp dụng chính sách tiền lương mới. Ngày 12/6/2019, Văn
phòng Chính phủ đã có Công văn số 5134/VPCP-KTTH truyền đạt ý kiến chỉ đạo
của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đồng ý với các đề xuất của Bộ Tài chính,
trong đó có đề xuất nêu trên.
Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục phối hợp với Bộ Tài chính nắm
bắt kịp thời ý kiến của các bộ, ngành, địa phương để từng bước có sự điều chỉnh,
khắc phục vướng mắc, đảm bảo tính khả thi, cần thiết và phù hợp với thực tế.
- Về xác định và cấp kinh phí tối thiểu cho công tác PBGDPL ở các cấp
Tại điểm a, khoản 1 Điều 27 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012,
Hội đồng nhân dân các cấp có trách nhiệm “Quyết định các biện pháp nhằm nâng
cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; phân bổ dự toán ngân sách

địa phương cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật”.
Như vậy, theo quy định trong Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012
và Luật Ngân sách nhà nước năm 2015, Hội đồng nhân dân phân bổ dự toán ngân
sách địa phương cho công tác PBGDPL trên cơ sở Sở Tư pháp tham mưu đề xuất
nội dung chi, mức kinh phí cho công tác PBGDPL, phối hợp với Sở Tài chính, Sở
Tài chính trình dự toán tới Uỷ ban nhân dân. Ủy ban nhân dân gửi Tờ trình đề
nghị HĐND ban hành Nghị quyết phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách
địa phương, trong đó có kinh phí của PBGDPL. Mức kinh phí cụ thể được phân
bổ phụ thuộc vào tình hình ngân sách, điều kiện của địa phương và Kế hoạch
triển khai nhiệm vụ PBGDPL trong năm. Vì vậy, không thể quy định và hướng
dẫn mức kinh phí cụ thể cấp cho công tác PBGDPL tối thiểu ở cấp tỉnh, cấp huyện,
cấp xã.
7. Đề nghị Bộ Tư pháp tiếp tục nghiên cứu, tổng kết và tham mưu hoàn
thiện thể chế, chính sách cũng như tăng cường các biện pháp chỉ đạo, hướng
9


dẫn để triển khai thực hiện thật tốt chính sách xã hội hóa công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật trong thực tế.
Xã hội hóa công tác PBGDPL là chủ trương nhất quán và yêu cầu tất yếu
nhằm huy động sự tham gia, hỗ trợ của xã hội trong công tác PBGDPL và đã được
quy định tại Điều 4 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012, Nghị định số
28/2013/NĐ-CP ngày 04/4/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và
biện pháp thi hành Luật PBGDPL đã quy định cụ thể về cách thức thực hiện chủ
trương này. Thông tư số 03/2018/TT-BTP ngày 10/3/2018 về Bộ Tiêu chí đánh giá
hiệu quả công tác phổ biến giáo dục pháp luật cũng đã quy định việc triển khai
các hoạt động vận động, thu hút, huy động được các nguồn lực xã hội tham gia
phổ biến, giáo dục pháp luật theo chủ trương xã hội hóa là một trong những tiêu
chí để đánh giá hiệu quả công tác phổ biến giáo dục pháp luật (điểm c, khoản 3,
Điều 7).

Trước hết, chúng ta cần hiểu xã hội hóa không chỉ là sự huy động nguồn
vật lực, tài chính mà quan trọng hơn là nguồn nhân lực có kiến thức pháp luật,
có khả năng hỗ trợ công tác PBGDPL cho cơ quan, đơn vị mình. Trên cơ sở đó,
thời gian qua, nhiều Bộ, ngành, đoàn thể, địa phương đã tích cực, chủ động triển
khai thực hiện chính sách về xã hội hóa, huy động các nguồn lực xã hội tham gia
công tác PBGDPL, bao gồm cả nguồn nhân lực và kinh phí, cơ sở vật chất bảo
đảm cho các hoạt động PBGDPL.
Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện xã hội hóa trên thực tế còn gặp nhiều
khó khăn vì PBGDPL là hoạt động không phát sinh lợi nhuận, hiệu quả phụ thuộc
vào điều kiện kinh tế - xã hội cũng như sự chủ động, sáng tạo và linh hoạt của
từng Bộ, ngành, địa phương. Tới đây, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục thực hiện các giải
pháp sau:
- Nghiên cứu, tổng kết và tham mưu hoàn thiện thể chế, chính sách để tạo
cơ chế thuận lợi khuyến khích thực hiện chủ trương xã hội hóa cũng như tăng
cường các biện pháp chỉ đạo, hướng dẫn để triển khai thực hiện hiệu quả hơn
chính sách này trong thực tế;
- Tổ chức các hội nghị, hội thảo chuyên đề về xã hội hóa công tác PBGDPL
để có sự chia sẻ các mô hình, cách làm hay, ý tưởng, giải pháp về vấn đề này của
các Bộ, ngành, địa phương;
- Có các chương trình, kế hoạch phối hợp cụ thể trong việc thu hút đội ngũ
luật sư, luật gia tham gia vào công tác PBGDPL;
- Tổ chức hiệu quả các hoạt động PBGDPL, từ kết quả đó sẽ thu hút được
sự tham gia, hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân.
9. Đề nghị Bộ Tư pháp hướng dẫn cụ thể, tập huấn Thông tư số
03/2018/TT-BTP ngày 10/3/2018 quy định Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả công
tác PBGDPL; một số nội dung của Thông tư còn khó triển khai như cách
tính điểm, quy định tại Điều 5, Điều 8, cần bỏ bớt chỉ tiêu…
- Về việc triển khai, thực hiện Thông tư:
10



Để tổ chức thực hiện Thông tư, Bộ Tư pháp đã tiến hành xây dựng tài liệu
giới thiệu, hướng dẫn nội dung cơ bản về việc đánh giá hiệu quả công tác
PBGPDL và đăng tải trên Trang thông tin PBGDPL (Cổng thông tin điện tử Bộ
Tư pháp); giới thiệu nội dung Thông tư tại Hội nghị tập huấn nghiệp vụ công tác
PBGDPL, hòa giải ở cơ sở, xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật tổ chức
tại 03 miền Bắc, Trung, Nam1; cử Lãnh đạo Vụ tham gia làm báo cáo viên giới
thiệu về nội dung Thông tư tại Hội nghị một số tỉnh, thành phố; kịp thời hướng
dẫn, giải đáp các kiến nghị, thắc mắc của địa phương liên quan đến việc triển khai
thực hiện Bộ tiêu chí; xây dựng nội dung hướng dẫn thực hiện Thông tư tổng hợp
trong Công văn số 1201/BTP-PBGDPL ngày 09/04/2019 về việc hướng dẫn thực
hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL); hòa giải ở cơ sở; xây dựng
xã, phường, thị trấn (cấp xã) đạt chuẩn tiếp cận pháp luật năm 2019. Bộ Tư pháp
sẽ hoàn thiện tài liệu hướng dẫn Thông tư số 03 và ban hành bộ công cụ đánh giá
mẫu và đăng tải trên Trang thông tin điện tử về PBGDPL của Bộ Tư pháp để
hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện một cách thống nhất.
- Về hướng dẫn, giải đáp một số nội dung cụ thể:
i) Về kỳ đánh giá
Theo quy định tại Thông tư, thời điểm đánh giá là 02 năm 1 lần. Việc quy
định này nhằm đảm bảo đối tượng được đánh giá có thể cập nhật và thống kê đầy đủ
tổng khối lượng công việc phải thực hiện trong kỳ; tổng khối lượng công việc đã
hoàn thành trong kỳ, đồng thời có thể phản ánh trung thực, chính xác, khách quan,
toàn diện tình hình tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác PBGDPL; bảo đảm rõ ràng,
đầy đủ và thống nhất thông tin thu nhận được từ hoạt động đánh giá, chấm điểm.
ii) Về đối tượng áp dụng
Theo quy định, Thông tư này áp dụng để đánh giá đối với: i) Bộ, cơ quan ngang
bộ; ii) Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh).
Quy định này bảo đảm tính khả thi có trọng tâm, trọng điểm, vừa làm, vừa
tổng kết rút kinh nghiệm, tập trung vào hai nhóm chủ thể quản lý trực tiếp và cao

nhất theo ngành, lĩnh vực và theo lãnh thổ.
Bên cạnh đó, để khuyến khích sự chủ động, thể hiện vai trò trách nhiệm
của từng bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh đối với công tác
PBGDPL trong lĩnh vực, ngành hoặc địa phương thuộc phạm vi quản lý, Thông
tư còn quy định: “Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao và
điều kiện thực tiễn, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh tổ
chức triển khai thực hiện Thông tư này; chỉ đạo, hướng dẫn việc áp dụng nội
dung Bộ Tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL đối với cơ quan, đơn vị
thuộc phạm vi quản lý phù hợp với quy định tại Thông tư này” (khoản 1, Điều
14). Như vậy, trong quá trình triển khai, tùy tình hình và nhu cầu kiểm tra, đánh
giá hoạt động PBGDPL thuộc phạm vi quản lý, các bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh có thể nghiên cứu áp dụng để đánh giá các cơ quan, đơn vị,
sở, ngành thuộc phạm vi quản lý.
1

Thừa Thiên Huế, Điện Biên,Cần Thơ.

11


Riêng đối với UBND cấp xã, việc đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL gắn
với đánh giá mức độ cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật hằng năm theo Quyết
định số 619/QĐ-TTg ngày 08/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng xã,
phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật và Thông tư số 07/2017/TT-BTP
ngày 27/7/2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định về điểm số các chỉ tiêu tiếp
cận pháp luật, hướng dẫn hoạt động của Hội đồng đánh giá tiếp cận pháp luật và
một số nội dung về xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật.
iii) Về cách tính điểm quy định tại khoản 1 Điều 5 Thông tư
Về cách tính điểm quy định tại khoản 1 Điều 5 Thông tư, tránh cách hiểu số
điểm tối đa tương ứng với số lần ban hành văn bản. Căn cứ để chấm điểm đối với

tiêu chí này dựa trên việc việc có hay không ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng
dẫn nghiệp vụ, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong lĩnh vực, địa bàn được
giao quản lý (cụ thể là 04 loại văn bản được nêu tại các điểm a,b,c,d khoản 1).
Như vậy, tiêu chí này sẽ đạt điểm tối đa (4 điểm) nếu địa phương ban hành
đầy đủ 04 loại văn bản. Trường hợp ban hành nhiều văn bản mà không thuộc
nhóm các loại văn bản nêu tại khoản 1 Điều này thì đương nhiên không được tính
điểm, nếu thuộc một trong 04 loại văn bản thì điểm chấm tối đa cũng không được
vượt quá 01 điểm/ văn bản.
iiii) Về cách tính điểm quy định tại khoản 2 Điều 5 Thông tư
Khoản 2 Điều 5 Thông tư quy định tiêu chí về tổ chức thực hiện các
chương trình, kế hoạch, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật (không chỉ là thực hiện chương trình, đề án về PBGDPL).
Trường hợp việc thực hiện các chương trình, kế hoạch, văn bản chỉ đạo, hướng
dẫn nghiệp vụ về PBGDPL đạt kết quả hoàn thành khác nhau, thì tỷ lệ phần trăm
để tính điểm tiêu chí được hiểu là kết quả trung bình cộng tỷ lệ hoàn thành việc tổ
chức thực hiện các loại văn bản nêu tại khoản 1 Điều 5.
iv) Về hướng dẫn chấm điểm đối với quy định tại khoản
3 Điều 5 Thông tư
Theo khoản 3 Điều 5, việc chấm điểm tiêu chí thời điểm ban hành văn bản
chỉ áp dụng đối với các chương trình, kế hoạch, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn
nghiệp vụ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong lĩnh vực, địa bàn được giao
quản lý. Trường hợp thời điểm ban hành các loại văn bản có sự khác nhau, thì số
điểm cuối cùng là trung bình cộng của các điểm số tương ứng với thời điểm ban
hành từng loại văn bản mà Thông tư quy định.
Ví dụ: Trong năm 2019, địa phương ban hành các loại văn bản hướng dẫn,
chỉ đạo nghiệp vụ công tác PBGDPL cụ thể như sau:
- 03 Kế hoạch ban hành trong thời hạn theo quy định (tại điểm a, Khoản 3):
06 điểm;
- 02 Chương trình ban hành trong thời hạn theo quy định (tại điểm b Khoản
3): 02 điểm;


12


- 01 văn bản hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ ban hành sau 30 ngày (theo quy
định tại điểm c, Khoản 3): 0 điểm.
Điểm số cuối cùng của tiêu chí này là trung bình cộng của cả 03 mức điểm
đạt được là (6+2+0)/6 = 1,33 điểm.
vi) Về hướng dẫn thêm hình thức đánh giá mức độ tự học, hiểu, biết pháp
luật quy định tại Điều 8 Thông tư số 03/2018/TT-BTP
Đối với việc đánh giá hiệu quả tác động của công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật đối với xã hội theo quy định tại Điều 8 của Thông tư số 03/2018/TT-BTP, hình
thức đánh giá được thực hiện thông qua phiếu khảo sát, bộ công cụ đánh giá.
Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục hướng dẫn thực hiện quy định tại Điều 8 và xây dựng
phiếu khảo sát, bộ công cụ đánh giá mẫu để tạo điều kiện thuận lợi cho Bộ, ngành,
địa phương trong việc triển khai thực hiện Thông tư. Tài liệu hướng dẫn được đăng
tải trên Trang Thông tin PBGDPL, Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp.
- Về quy định quá nhiều tiêu chí trong khi nguồn kinh phí và con người
ngày càng giảm, do đó rất khó thực hiện; nghiên cứu, bỏ bớt chỉ tiêu để địa
phương dễ thực hiện
Bộ tiêu chí được quy định trong Thông tư chủ yếu cụ thể hóa các quy định
về trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, các cấp, các ngành phải thực hiện đối với
công tác PBGDPL được quy định trong Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm
2012. Qua nghiên cứu, xây dựng cho thấy các tiêu chí quy định tại Thông tư hiện
nay về cơ bản bảo đảm bao quát toàn diện các lĩnh vực công tác về PBGDPL tại
các bộ, ngành, địa phương cũng như hiệu quả của công tác này đối với đời sống
xã hội. Việc thực hiện đánh giá, chấm điểm theo nội dung Thông tư kết hợp giữa
tự đánh giá với đánh giá của Bộ Tư pháp; bảo đảm tính khả thi, có trọng tâm,
trọng điểm; lượng hóa tối đa đối với các chỉ tiêu, tiêu chí có thể lượng hóa; đơn
giản về quy trình, thủ tục và cơ chế tổ chức thực hiện; không tạo thêm thủ tục,

gánh nặng cho các bộ, ngành, địa phương.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, áp dụng Thông tư quy định Bộ Tiêu chí,
Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục tổng hợp những khó khăn, vướng mắc của các bộ, ngành, địa
phương, từ đó có những nghiên cứu, đánh giá để đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù
hợp. Đối với đề xuất nghiên cứu bỏ bớt tiêu chí quy định trong Thông tư để địa
phương dễ thực hiện sẽ được Bộ Tư pháp nghiên cứu sau khi rà soát, tổng hợp các
báo cáo, kiến nghị của địa phương và tổng kết kỳ đánh giá 2019-2020.
9. Một số nội dung khác:
- Đề nghị Bộ Tư pháp và Trung ương Hội cựu chiến binh Việt Nam
quan tâm, phối hợp tổ chức tập huấn nghiệp vụ công tác soạn thảo văn bản
quy phạm pháp luật, PBGDPL và trợ giúp pháp lý, trong đó có đối tượng
cán bộ Hội cựu chiến binh địa phương giúp hội viên có điều kiện cập nhật
thông tin, học tập kinh nghiệm; xem xét, quy định hoặc hướng dẫn cụ thể
kinh phí để ngành Tư pháp và Hội cựu chiến binh địa phương thuận lợi
trong công tác phối hợp thực hiện PBGDPL.
13


Để tổng kết, đánh giá khách quan, toàn diện kết quả sau 10 năm thực hiện
Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-BTP-TWHCCBVN ngày 09/6/2008 hướng
dẫn phối hợp xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, tuyên truyền, PBGDPL, trợ
giúp pháp lý đối với Cựu chiến binh bảo đảm thiết thực, có chất lượng, sau khi
thống nhất với Trung ương Hội CCB Việt Nam, Bộ Tư pháp đã phối hợp Trung
ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam ban hành và hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện Kế
hoạch số 633/KH-BTP ngày 27/02/2019 tổng kết Thông tư liên tịch trên phạm vi
toàn quốc để nghiên cứu, tiếp tục đổi mới, đa dạng hóa, đẩy mạnh các hình thức
PBGDPL đã và đang phát huy hiệu quả, nghiên cứu các hình thức PBGDPL mới
bảo đảm phong phú, hấp dẫn và phù hợp hơn với đối tượng là CCB.
Hai Bộ, ngành đã đề xuất một số giải pháp tập trung triển khai các hoạt động
PBGDPL cho Cựu chiến binh trong thời gian tới như: Tiếp tục lựa chọn nội dung,

đổi mới, đa dạng hóa các hình thức PBGDPL phù hợp hơn với đối tượng, địa bàn;
tiếp tục lồng PBGDPL với các nhiệm vụ chính trị của ngành đảm bảo hiệu quả và
tiết kiệm thời gian, chi phí, nhân lực; định kỳ tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp
luật, kỹ năng, nghiệp vụ PBGDPL cho hội viên các cấp Hội CCB; hàng năm, với
các Hội nghị tập huấn do Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp tổ chức, đề nghị bổ sung số
lượng hội viên hội CCB các cấp tham gia nhằm cập nhật, bồi dưỡng kiến thức cho
đội ngũ này, tạo thuận lợi trong công tác phối hợp thực hiện PBGDPL .
- Đề nghị Bộ Tư pháp quan tâm triển khai công tác PBGDPL theo hướng
bảo đảm trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, ngành Tư pháp là cơ quan
quản lý nhà nước, giữ vai trò đầu mối, không phải là cơ quan trực tiếp thực
hiện các hoạt động PBGDPL cụ thể, dẫn đến quá tải cho ngành Tư pháp.
Khoản 1 Điều 3 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 đã quy định:
PBGDPL là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó Nhà nước giữ
vai trò nòng cốt. Trong thời gian qua, công tác PBGDPL đã có những bước
chuyển mới, kết quả đó là nhờ có sự chung tay, vào cuộc của cả hệ thống chính
trị. Tuy nhiên, sự tham gia đó chưa được thường xuyên, cấp ủy, chính quyền, một
số Bộ, ngành, địa phương chưa thực sự quan tâm đến công tác này. Đúng như địa
phương phản ánh, hiện nay vẫn còn tồn tại thực trạng ở nhiều nơi coi công tác
PBGDPL là trách nhiệm riêng của ngành Tư pháp.
Để khắc phục tình trạng trên, với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về
công tác PBGDPL, trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đã tập trung hướng dẫn, chỉ
đạo, thường xuyên quán triệt đến các bộ, ngành, địa phương nâng cao nhận thức
về trách nhiệm thực hiện PBGDPL đối với ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản
lý; nâng cao, phát huy vai trò của các thành viên Hội đồng phối hợp PBGDPL
trong tư vấn định hướng, triển khai công tác này; định kỳ tổ chức tập huấn, hướng
dẫn các Sở Tư pháp trong việc xác định và tăng cường công tác quản lý nhà nước
trong công tác PBGDPL.
Năm 2019, là năm tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày
09/12/2003 của Ban Bí thư về “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ,

nhân dân” (sau đây gọi là Chỉ thị số 32-CT/TW) trên toàn quốc. Sau Hội nghị
tổng kết, trên cơ ở đánh giá, đề xuất của Bộ, ngành, đoàn thể, địa phương, Bộ Tư
14


pháp, Ban chỉ đạo tổng kết Chỉ thị số 32-CT/TW báo cáo, xin chủ trương Ban Bí
Thư ban hành văn bản thay thế Chỉ thị số 32-CT/TW để đáp ứng yêu cầu, bối
cảnh công tác PBGDPL trong thời kỳ mới. Trong văn bản đó sẽ đề xuất nội dung,
nhiệm vụ, giải pháp về nâng cao trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị đối
với công tác PBGDPL.
- Hàng năm, Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch công tác PBGDPL, Kế
hoạch hoạt động của Hội đồng PHPBGDPL, các văn bản hướng dẫn chỉ đạo
thực hiện muộn (thường tháng 2, 3 hàng năm), nhất là đối với các Chương
trình, Đề án do Bộ Tư pháp chủ trì; các Chương trình, Đề án, Kế hoạch
PBGDPL đề ra nhiều nhiệm vụ, gây khó khăn cho địa phương trong việc xây
dựng, thực hiện Kế hoạch. Cá biệt có Chương trình, Kế hoạch ban hành nhưng
gần như sau đó không có văn bản hướng dẫn, chỉ đạo, đôn đốc, dẫn tới gần như
Chương trình, Kế hoạch đó bị bỏ quên (ví dụ: Chương trình phối hợp công tác
số 1249a/CTPH-UBDT-BTP; Chương trình phối hợp số 14/2013/CTPH-BTPHLPNVN…), sau đó 10, 15 năm, Trung ương đề nghị sơ kết, tổng kết, báo
cáo… dẫn tới khó khăn cho địa phương.
Về tiến độ một số văn bản hướng dẫn: trên cơ sở đánh giá, tổng kết của
các Bộ, ngành, địa phương trên cả nước, Bộ Tư pháp đã ban hành Kế hoạch công
tác PBGDPL, HGCS, xây dựng cấp xã đạt chuẩn TCPL (thường vào tháng 12 của
năm trước)2, tuy nhiên thực tế, một số văn bản hướng dẫn như Kế hoạch công tác
của Hội đồng phối hợp PBGDPL, Kế hoạch triển khai một số Đề án do Bộ Tư
pháp chủ trì vẫn còn chậm. Khắc phục tình trạng này, trong thời gian tới, Bộ Tư
pháp sẽ tích cực triển khai sớm việc ban hành các Kế hoạch, tạo thuận lợi cho địa
phương trong quá trình triển khai thực hiện. Ngoài ra, Bộ Tư pháp cũng đề nghị
địa phương chủ động nắm bắt thông tin, có Kế hoạch triển khai sớm phù hợp với
tình hình thực tiễn.

Về biên soạn, cấp phát tài liệu kịp thời: Tiếp thu ý kiến, Bộ Tư pháp sẽ
tích cực hoàn thành xây dựng tài liệu (nếu có) theo tiến độ Kế hoạch đề ra, bảo
đảm nguồn tài liệu kịp thời cho địa phương tham khảo, triển khai.
Về một số Chương trình, Kế hoạch không có văn bản hướng dẫn: việc tổ
chức tổng kết theo thời gian dài như địa phương phản ánh: Hàng năm, trong Kế
hoạch hướng dẫn công tác PBGDPL, Bộ Tư pháp đều có nội dung đề nghị các
Bộ, ngành, địa phương trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ tổ chức thực hiện các văn
bản đã được ban hành (như Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-BTPTWHCCBVN, Chương trình phối hợp số 14/2013/CTPH-BTP-HLHPNVN ngày
10/01/2013 (nay là Chương trình phối hợp số 60/2018/CTPH-BTP-HLHPNVN)
…). Do nội dung tại các văn bản này cũng đã quy định cụ thể nhiệm vụ, trách
nhiệm thực hiện rõ ràng nên đề nghị địa phương trên cơ sở điều kiện thực tiễn chủ
động tổ chức thực hiện và thường xuyên theo dõi, nắm bắt, đánh giá, tổng kết.
Tuy nhiên, trên cơ sở ý kiến phản ánh của địa phương, trong thời gian tới, Bộ Tư
pháp cũng sẽ tích cực, khẩn trương thực hiện việc hướng dẫn, đôn đốc, nhắc nhở,
triển khai thực hiện các văn bản đã ban hành.
2

Kế hoạch số 3121/QĐ-BTP ngày 28/12/2018 ban hành Kế hoạch công tác năm 2019; Kế hoạch số 2708/QĐ-BTP
ngày 29/12/2017

15


Đối với hoạt động đánh giá, tổng kết: Đây là một nội dung quan trọng đã
được quy định trong văn bản và thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước của các bộ,
ngành, địa phương. Về phía cơ quan chủ trì, theo định kỳ (5 năm tổng kết, 2-3
năm sơ kết), Bộ Tư pháp đã tổ chức tổng kết, sơ kết việc thực hiện các Chương
trình, Đề án để có giải pháp khắc phục tồn tại, hạn chế, đề ra phương hướng,
nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu tình hình mới như: tổng kết 6 năm thực hiện Chỉ thị số
32-CT/TW ngày 09-12-2003; tổng kết 05 năm thực hiện Thông tư liên tịch số

02/2008/TTLT-BTP-TWHCCBVN năm 2014; tổng kết 05 năm thực hiện Chương
trình phối hợp số 14/2013/CTPH-BTP-HLHPNVN ngày 10/01/2013 năm 2018;
sơ kết 03 năm thực hiện Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 và tổng kết
thực hiện Quyết định số 409/QĐ-TTg… Việc tổng kết theo thời gian dài 10-15 năm
được đặt ra khi bối cảnh thực tiễn đã có nhiều thay đổi và cần thiết phải có sự sửa
đổi, bổ sung kịp thời. Do đó, đề nghị địa phương chủ động có hoạt động sơ kết, tổng
kết đối với các hoạt động triển khai theo các văn bản quy định, đồng thời lưu trữ tài
liệu, số liệu hàng năm, tại các hội nghị sơ kết, tổng kết để phục vụ các hoạt động tổng
kết văn bản tiếp theo.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác PBGDPL từ tỉnh xuống cơ sở còn thiếu
về số lượng, đặc biệt là hiện nay đang trong giai đoạn tinh giản biên chế
trong khi đó Trung ương ban hành ngày càng nhiều Chương trình, Đề án,
Kế hoạch về PBGDPL, do đó không đáp ứng được yêu cầu ngày càng tăng
của công việc, gây áp lực cho tư pháp địa phương.
Công tác sắp xếp, kiện toàn biên chế của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và
công chức Tư pháp – Hộ tịch cấp xã thuộc thẩm quyền của UBND các địa
phương. Nắm bắt được thực tế nhiều địa phương thiếu cán bộ làm công tác
PBGDPL, nhất là các cán bộ có chuyên môn sâu về công tác PBGDPL, trong các
đợt công tác về địa phương, Bộ Tư pháp cũng đã đề xuất lãnh đạo Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh quan tâm hơn đến vấn đề này. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng chỉ
đạo Sở Tư pháp địa phương thường xuyên tổ chức bồi dưỡng, tập huấn cho đội
ngũ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật để nâng cao trình độ, kiến thức
pháp luật, kỹ năng, nghiệp vụ PBGDPL; phát huy vai trò của báo cáo viên, tuyên
truyền viên pháp luật, người được mời tham gia PBGDPL ở cơ sở...; đặc biệt có
các giải pháp cụ thể thực hiện xã hội hóa công tác này...để đảm bảo các nguồn lực
cần thiết thực hiện công tác PBGDPL trong bối cảnh nhân lực và các nguồn lực
khác đều khó khăn.
Từ nhiệm vụ chính trị đặt ra trong từng giai đoạn, từng năm cũng như yêu
cầu đặt ra từ thực tiễn triển khai công tác PBGDPL, việc ban hành các Chương
trình, Đề án về PBGDPL nhằm tạo cơ sở cho việc thực hiện công tác phổ biến

giáo dục pháp luật có trọng tâm, trọng điểm. Đồng thời, là cơ sở để các Bộ,
ngành, địa phương bố trí nguồn lực triển khai thực hiện. Trên cơ sở đó, các địa
phương căn cứ vào nhu cầu, điều kiện và nhiệm vụ chính trị của mình để lựa
chọn, tổ chức triển khai những Đề án PBGDPL với cách thức phù hợp hoặc lồng
ghép với triển khai nhiệm vụ chính trị, những chương trình, Đề án khác đang
được triển khai, thực hiện trên địa bàn. Đồng thời, đề nghị Sở Tư pháp, Phòng Tư
pháp cần phát huy vai trò chủ trì, tham mưu giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp
16


hướng dẫn, chỉ đạo, điều phối các hoạt động và kinh phí thực hiện Chương trình,
các đề án về PBGDPL tại địa phương theo Quyết định số 705/QĐ-TTg ngày
25/5/2017 và Thông tư liên tịch số 14/2014/TTLT-BTC-BTP.
- Kiến nghị Bộ Tư pháp tổ chức các cuộc thi, hội thi, hội nghị tập huấn,
bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ PBGDPL cho TTVPL cấp xã,
góp phần trang bị kiến thức pháp luật, nghiệp vụ và giao lưu, học hỏi kinh
nghiệm. Qua đó, thể hiện được sự quan tâm của Trung ương đối với TTVPL,
góp phần tạo thêm động lực, niềm tin, động viên đội ngũ này tham gia công
tác PBGDPL ở cơ sở.
Tổ chức các cuộc thi, hội thi, hội nghị tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật
và nghiệp vụ PBGDPL được Bộ Tư pháp xác định là những hình thức PBGDPL
được quy định tại Điều 11 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012. Bộ Tư
pháp đã và đang tổ chức một số cuộc thi, hội thi đặc biệt là cuộc thi viết “Tìm hiểu
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, hội thi “Hòa giải viên giỏi”,
cuộc thi “Tìm hiểu pháp luật trực tuyến” được định kỳ tổ chức trên Trang thông tin
điện tử phổ biến, giáo dục pháp luật, Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp... Hình thức
này cũng được các bộ, ngành, địa phương tổ chức thực hiện với các quy mô, lĩnh
vực, đối tượng khác nhau; góp phần thiết thực giúp nâng cao nhận thức, ý thức chấp
hành pháp luật cho nhân dân, trong đó có đội ngũ tuyên truyền viên pháp luật.
Việc nâng cao chất lượng đội ngũ tuyên truyền viên pháp luật, trước hết

thuộc trách nhiệm của địa phương, cấp chính quyền nơi quản lý đội ngũ này. Vì
vậy, các địa phương cần chủ động lựa chọn hình thức, giải pháp, trong đó có hội
thi, hội nghị tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ PBGDPL cho
tuyên truyền viên pháp luật. Về phía Bộ Tư pháp, trong trách nhiệm của mình sẽ
có tiếp tục có hướng dẫn, chỉ đạo các tỉnh, thành phố trong việc củng cố, kiện
toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ TTVPL, đồng thời, sẽ nghiên cứu, lựa chọn
tổ chức các cuộc thi, hội thi, hội nghị tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và
nghiệp vụ PBGDPL cho TTVPL cấp xã thiết thực, hiệu quả.
II. CÔNG TÁC HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
1. Đề nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu, quy định cụ thể trách nhiệm, cơ
chế phối hợp của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQ) và các tổ chức thành
viên của Mặt trận với cơ quan Tư pháp; phối hợp với Ủy ban Trung ương
MTTQ Việt Nam có biện pháp tăng cường sự phối hợp giữa Ủy ban MTTQ
và cơ quan tư pháp cùng cấp trong công tác hòa giải ở cơ sở. Tiếp tục ban
hành Chương trình phối hợp mới giữa Bộ Tư pháp và Ban Thường trực Ủy
ban Trung ương MTTQ Việt Nam về tăng cường công tác hòa giải cơ sở theo
hướng hoạt động hòa giải ở cơ sở là hoạt động tự nguyện, tự quản của người
dân, của cộng đồng.
Trách nhiệm của MTTQ và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công
tác hòa giải ở cơ sở được quy định tại Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 và Khoản
4 Điều 17 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015.
Điều 30 Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 quy định trách nhiệm của Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên của Mặt trận.
17


“1. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp tham gia quản lý nhà nước
về hòa giải ở cơ sở; vận động tổ chức, cá nhân chấp hành pháp luật, giám sát
việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở; phối hợp kiểm tra, sơ kết, tổng kết
và khen thưởng về hòa giải ở cơ sở.

Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam các cấp tham gia tổ chức thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở.
2. Các tổ chức thành viên của Mặt trận trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ
của mình có trách nhiệm thực hiện hoạt động hòa giải ở cơ sở theo quy định của
pháp luật”.
Điều 17 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 quy định trách nhiệm
của Mặt trận Tổ quốc trong tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện quyền
làm chủ, thực hiện chính sách, pháp luật
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện
quyền làm chủ, thực hiện chính sách, pháp luật với các nội dung sau đây:
1. Tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
2. Phối hợp với chính quyền cấp xã tổ chức vận động Nhân dân thực hiện
dân chủ ở cơ sở, hương ước, quy ước ở khu dân cư;
3. Chỉ đạo hoạt động của Ban thanh tra nhân dân được thành lập ở cấp xã
và Ban giám sát đầu tư của cộng đồng;
4. Tham gia hoạt động hòa giải ở cơ sở”.
Để chi tiết, cụ thể hơn vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc trong công
tác hòa giải ở cơ sở, Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam đã ký ban hành Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT/CP-UBTƯMTTQVN
ngày 18/11/2014 hướng dẫn thực hiện một số quy định của pháp luật về hòa giải
ở cơ sở. Nghị quyết quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và cơ quan tư pháp các cấp trong công tác hòa giải ở cơ sở. Vì vậy, việc
ban hành Chương trình phối hợp mới giữa Bộ Tư pháp và Ban Thường trực Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về tăng cường công tác hòa giải cơ
sở là chưa cần thiết.
2. Đề nghị Bộ Tư pháp:
2.1. Tiếp tục tăng cường bồi dưỡng cho đội ngũ tham mưu quản lý nhà
nước về hòa giải ở cơ sở; bồi dưỡng, cập nhật kiến thức pháp luật mới cho các
hòa giải viên; Nghiên cứu xây dựng Đề án phát triển chuẩn hóa đội ngũ hòa

giải viên trên phạm vi cả nước sớm trình Thủ tướng Chính phủ ban hành để
địa phương có cơ sở triển khai tốt công tác hòa giải ở cơ sở; sớm triển khai
thực hiện Đề án nâng cao năng lực đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở giai đoạn
2019-2022, Chương trình bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng hòa giải ở
cơ sở cho hòa giải viên.
Một trong những nhiệm vụ được nêu tại Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 là
Bộ Tư pháp có trách nhiệm: “Biên soạn, phát hành tài liệu, tổ chức bồi dưỡng,
18


hướng dẫn nghiệp vụ, kỹ năng thực hiện công tác quản lý nhà nước về hòa giải ở
cơ sở cho cấp tỉnh” (Điểm c Khoản 2 Điều 28).
Thực hiện nhiệm vụ này, Bộ Tư pháp đã ban hành Chương trình khung bồi
dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho hòa giải viên (Quyết
định số 4077/QĐ-BTP ngày 31/12/2014); ban hành Bộ tài liệu nguồn bồi dưỡng
kiến thức pháp luật, kỹ năng hòa giải ở cơ sở cho hòa giải viên (Quyết định số
1753/QĐ-BTP ngày 22/8/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp), các tài liệu này đã
được đăng tải công khai trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có trách nhiệm “… tổ chức bồi dưỡng,
hướng dẫn nghiệp vụ và kỹ năng hòa giải ở cơ sở cho hòa giải viên theo hướng
dẫn của Bộ Tư pháp” (Khoản 1 Điều 29 Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013).
Thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi
hành, trong Kế hoạch công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; hòa giải ở cơ sở và
chuẩn tiếp cận pháp luật hàng năm của Bộ Tư pháp đều xác định một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của công tác hòa giải ở cơ sở là nâng cao năng lực cho đội
ngũ người làm công tác quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở.
Hàng năm, Bộ Tư pháp đều tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức
pháp luật, kỹ năng hòa giải ở cơ sở cho đội ngũ báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh,
công chức của Phòng PBGDPL phụ trách công tác hòa giải ở cơ sở tại 03 khu vực
miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Khi nhận được giấy mời dự Hội nghị tập

huấn, bồi dưỡng của Bộ Tư pháp, đề nghị Sở Tư pháp cử đúng thành phần tham
dự Hội nghị để bảo đảm chất lượng, hiệu quả của Hội nghị tập huấn.
Bên cạnh đó để tiếp tục nâng cao chất lượng công tác hòa giải ở cơ sở, Bộ
Tư pháp đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số
428/QĐ-TTg ngày 18/4/2019 phê duyệt Đề án “Nâng cao năng lực đội ngũ hòa
giải viên ở cơ sở giai đoạn 2019-2022”, Đề án được ban hành, triển khai sẽ nâng
cao năng lực thực sự cho hòa giải viên ở cơ sở. Theo Đề án, Chính phủ giao nhiệm
vụ cho của Bộ Tư pháp là: Tổ chức tập huấn cho đội ngũ tập huấn viên cấp tỉnh
bằng hình thức phù hợp để đội ngũ này hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội
ngũ tập huấn viên cấp huyện. Đề án cũng xác định Bộ Tư pháp làm điểm tại 24
đơn vị cấp xã thuộc 08 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tại những địa
phương làm điểm, Bộ Tư pháp trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức một số lớp
tập huấn, bồi dưỡng kiến thức cho hòa giải viên ở cơ sở.
Để triển khai Đề án kịp thời Đề án, Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số
1331/QĐ-BTP ngày 12/6/2019 ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án trong năm
2019 và Công văn số 2209/BTP-PBGDPL ngày 17/6/2019 hướng dẫn thực hiện
Đề án. Trên cơ sở nội dung Đề án và Kế hoạch này, đề nghị các địa phương ban
hành văn bản triển khai thực hiện Đề án tại địa phương bảo đảm thiết thực, hiệu quả.
2.2. Đề nghị Bộ Tư pháp tiếp tục bổ sung, chỉnh lý Bộ tài liệu hướng dẫn
nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở khi có văn bản pháp luật mới ban hành; thường
xuyên biên soạn, cấp phát tài liệu nghiệp vụ hòa giải.

19


Thực hiện trách nhiệm của Bộ Tư pháp quy định tại Điểm C Khoản 2 Điều
28 Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013, để cung cấp tài liệu bồi dưỡng kiến thức và
nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho địa phương làm tài liệu tập huấn và cho hòa giải
viên nghiên cứu, nâng cao trình độ, nghiệp vụ, ngày 22/8/2016, Bộ Tư pháp đã
ban hành Quyết định số 1753/QĐ-BTP ban hành Bộ tài liệu bồi dưỡng kiến thức

pháp luật, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho hòa giải viên (Bộ tài liệu).
Đến nay, nhiều văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành, một số nội
dung trong Bộ tài liệu đã không còn phù hợp với tình hình thực tiễn. Vì vậy, một
trong những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để nâng cao năng lực đội ngũ hòa giải
viên ở cơ sở là xây dựng Bộ tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho đội
ngũ hòa giải viên ở cơ sở và đội ngũ tập huấn viên, được quy định tại Đề án
“Nâng cao năng lực đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở giai đoạn 2019-2022” ban hành
kèm theo Quyết định số 428/QĐ-TTg ngày 18/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ.
Trong thời gian tới, để triển khai Đề án, Bộ Tư pháp sẽ sớm tổ chức biên
soạn, phát hành, đưa vào sử dụng Bộ tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải ở cơ
sở cho đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở.
2.3. Đề nghị Bộ Tư pháp ban hành khung chương trình đào tạo, bồi
dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho đội ngũ hòa giải
viên để các cơ quan Tư pháp các cấp tham mưu cho Ủy ban nhân dân cùng
cấp tổ chức triển khai các hoạt động bồi dưỡng kiến thức pháp luật, tập
huấn nghiệp vụ hòa giải cho đội ngũ này.
Nhằm chuẩn hóa chương trình, tài liệu làm cơ sở cho các cơ quan có thẩm
quyền vận dụng tổ chức hoạt động bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ hòa
giải ở cơ sở cho hòa giải viên; bảo đảm cho hòa giải viên tham gia Chương trình
bồi dưỡng được trang bị kiến thức pháp luật, kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải phù
hợp, thiết thực, ngày 31/12/2014, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký Quyết định số
4077/QĐ-BTP ban hành Chương trình khung bồi dưỡng kiến thức pháp luật,
nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho hòa giải viên; tài liệu này đã được đăng tải trên
Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp.
Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có
trách nhiệm bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho hòa
giải viên theo Chương trình khung và Bộ Tài liệu do Bộ Tư pháp ban hành.
3. Đề nghị Bộ Tư pháp:
- Tổ chức Hội nghị tổng kết, đánh giá thực trạng hoạt động của đội ngũ
hòa giải viên trong phạm vi cả nước, đánh giá hiệu quả của việc thực hiện

Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013;
- Nghiên cứu, xem xét quy định giá trị pháp lý của biên bản hòa giải
thành để thực sự giảm số vụ việc tranh chấp phải chuyển đến cơ quan chức
năng, Tòa án giải quyết; ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về giá trị pháp
lý của biên bản hòa giải thành.
Để đánh giá kết quả 05 năm thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013, ngày
29/01/2019, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Kế hoạch số 370/KH-BTP tổng
20


kết 5 năm thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013, trong đó đánh giá toàn diện
tình hình, kết quả thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013, ưu điểm, tồn tại, hạn
chế, khó khăn, nguyên nhân; bài học kinh nghiệm trong triển khai thi hành Luật,
từ đó đề xuất, kiến nghị các giải pháp, nhiệm vụ cho công tác hòa giải ở cơ sở
giai đoạn tiếp theo.
Về giá trị pháp lý của biên bản hòa giải thành: Hoạt động hòa giải ở cơ sở đề
cao nguyên tắc quyền tự định đoạt, đề cao uy tín của các bên tranh chấp, các bên
tự thỏa thuận với nhau về giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp và có trách nhiệm
thực hiện thỏa thuận, kết quả giải quyết tranh chấp đó. Điều 25 Luật Hòa giải ở cơ
sở năm 2013 quy định “các bên có trách nhiệm thực hiện thỏa thuận hòa giải
thành”.
Để nâng cao giá trị pháp lý của biên bản hòa giải thành, Chương XXXIII
Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 đã quy định thủ tục công nhận kết quả hòa giải
thành ngoài Tòa án. Theo đó, các bên sau khi hòa giải thành có quyền yêu cầu
Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành. Quyết định công nhận hoặc không công
nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở của Tòa án có hiệu lực thi hành ngay, không
bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm và được thi hành theo pháp luật
về thi hành án dân sự. Ngày 05/5/2017, Bộ Tư pháp đã có Công văn số
1503/BTP-PBGDPL hướng dẫn thực hiện thủ tục yêu cầu Tòa án công nhận kết
quả hòa giải thành ở cơ sở.

Các hướng dẫn về quy trình tiến hành một cuộc hòa giải ở cơ sở đã được
Bộ Tư pháp hướng dẫn cụ thể; giá trị pháp lý của biên bản hòa giải thành đã được
Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 và Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định rõ
ràng và có hướng dẫn của Bộ Tư pháp, Bộ Tư pháp xét thấy không cần thiết phải
hướng dẫn thêm.
4. Đề nghị Bộ Tư pháp:
4.1. Tham mưu, trình Chính phủ đề nghị Quốc hội cho sửa đổi, bổ sung
Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 do Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự,
Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 có nội dung liên quan đến
công tác hòa giải ở cơ sở đã thay đổi.
Để có cơ sở đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013, năm
2019, Bộ Tư pháp thực hiện tổng kết 05 năm thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở năm
2013. Căn cứ vào kết quả tổng kết và ý kiến đề xuất của các bộ, ngành, địa
phương, Bộ Tư pháp sẽ tổng hợp, đánh giá thuận lợi, khó khăn, vướng mắc, trình
Chính phủ đề xuất Quốc hội cho sửa đổi, bổ sung Luật Hòa giải ở cơ sở năm
2013 (nếu cần thiết). Nội dung các quy định về hòa giải tại Bộ luật Hình sự, Bộ
luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 không
mâu thuẫn, chồng chéo, xung đột với các quy định tại Luật Hòa giải ở cơ sở năm
2013 và văn bản hướng dẫn thi hành.
Do đó trong trường hợp các quy định của Luật không còn phù hợp với tình
hình phát triển - xã hội của đất nước hoặc có quy định gây cản trở, vướng mắc
trong quá trình thực hiện thì Bộ Tư pháp sẽ kiến nghị Chính phủ trình Quốc hội
xem xét, quyết định việc sửa đổi, bổ sung Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013. Khi
21


sửa đổi, bổ sung Luật sẽ đồng thời bổ sung các quy định về hòa giải tại Bộ luật
Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm
2015 để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật.
4.2. Tham mưu, trình Chính phủ đề nghị Quốc hội cho sửa đổi, bổ sung

Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013, trong đó quy định: (i) dù tiến hành hòa giải
thành hoặc không thành thì đều phải lập biên bản, vì đây cũng là văn bản làm
căn cứ cho các bên thực hiện; (ii) quy định cụ thể thời hạn tiến hành hòa giải và
giới hạn số lần hòa giải không thành tối đa cho mỗi vụ việc nhằm tạo thuận lợi
để các bên giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn; (iii) mỗi tổ hòa giải có ít nhất từ
05 hòa giải viên trở lên vì địa bàn rộng, đông dân cư trong mỗi thôn, tổ nhân
dân, khu phố; (iv) việc lựa chọn hòa giải viên theo hướng đơn giản hơn, tránh
việc hành chính hóa quy trình bầu, công nhận hòa giải viên để tạo điều kiện
thuận lợi trong quá trình tổ chức bầu hòa giải viên.
(i) Một trong những nguyên tắc tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở được
quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 là “Tôn trọng sự tự
nguyện của các bên; không bắt buộc, áp đặt các bên trong hòa giải ở cơ sở”. Vì
vậy, để đảm bảo nguyên tắc này, việc lập biên bản hòa giải (thành hay không
thành) phụ thuộc vào ý chí của các bên tranh chấp, Luật Hòa giải ở cơ sở năm
2013 không thể quy định việc lập biên bản hòa giải là bắt buộc.
(ii) Về thời hạn tiến hành hòa giải và giới hạn số lần hòa giải: Luật Hòa giải
ở cơ sở năm 2013 không quy định cụ thể về trình tự, thời hạn tiến hành hòa giải,
xuất phát từ nguyên tắc “không bắt buộc, áp đặt các bên trong hòa giải ở cơ sở”
và để tránh “tố tụng hóa” hoạt động hòa giải ở cơ sở thì không quy định thời hạn
tiến hành hòa giải và số lần hòa giải mà tùy thuộc vào đối tượng, tính chất, điều
kiện, hoàn cảnh mâu thuẫn, mối quan hệ… của các bên tranh chấp mà hòa giải
viên lựa chọn thời điểm tiến hành hòa giải cho phù hợp. Ví dụ trường hợp mâu
thuẫn đang gay gắt, các bên đang bức xúc với nhau cao độ thì việc hòa giải ngay
lúc đó sẽ không mang lại hiệu quả mà cần thời gian để các bên giảm bớt sự căng
thẳng, hòa giải viên tiếp xúc từng bên một, từ đó thống nhất thời gian và địa điểm
để các bên gặp nhau để hòa giải; tuy nhiên, có những vụ, việc phải hòa giải ngay
như mâu thuẫn về sử dụng lối đi qua nhà, lối đi chung hoặc tranh chấp phát sinh
từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con.
Khoản 3 Điều 21 Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 quy định “Trong trường
hợp không đạt được thỏa thuận, hòa giải viên hướng dẫn các bên đề nghị cơ quan,

tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật”. Như vậy, tùy
thuộc vào vụ, việc cụ thể (đối tượng, tính chất, mối quan hệ của các bên tranh
chấp) và kinh nghiệm của hòa giải viên thì hòa giải viên quyết định kết thúc hòa
giải khi các bên không thể đạt được thỏa thuận và việc tiếp tục hòa giải cũng
không thể đạt được kết quả (Khoản 3 Điều 23 Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013).
Ví dụ sau 1 – 2 lần hòa giải nhưng các bên vẫn giữ nguyên quan điểm, mức độ
mâu thuẫn không giảm thậm chí còn tăng thì hòa giải viên kết thúc việc hòa giải;
có trường hợp sau mỗi lần hòa giải thì mỗi bên lại nhận ra phần lỗi của mình thì
hòa giải viên có thể kiên trì tiếp tục hòa giải 3 – 4 lần để giải quyết dứt điểm mâu
thuẫn, giúp các bên đạt được thỏa thuận thống nhất.
22


(iii) Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 quy định số lượng tối thiểu hòa giải
viên trong một tổ hòa giải là 03 người và không quy định số lượng tối đa. Căn cứ
vào đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội, dân số của địa phương và đề nghị của
Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp xã quyết định số lượng tổ hòa giải, hòa giải viên trong một tổ hòa
giải (Khoản 1, 2 Điều 12 Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013). Mỗi địa phương,
vùng, miền trên cả nước có đặc điểm dân cư, điều kiện đặc thù khác nhau nên số
lượng thành viên tổ hòa giải khác nhau. Đối với địa phương có địa bàn rộng, đông
dân cư, địa bàn hay xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn thì Chủ tịch UBND cấp xã quyết
định số lượng hòa giải viên trong mỗi tổ từ 5 đến 7 người hoặc nhiều hơn nữa;
còn đối với địa phương có dân cư thưa thớt, người dân sống ôn hòa, yên bình thì
Chủ tịch UBND cấp xã quyết định số lượng hòa giải viên trong mỗi tổ từ 3 người
trở lên.
(iv) Về đề xuất sửa Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 theo hướng “tránh việc
hành chính hóa quy trình bầu, công nhận hòa giải viên”, Bộ Tư pháp ghi nhận đề
xuất này và sẽ tham mưu, kiến nghị, đề xuất Chính phủ giải pháp hoàn thiện quy
định này.

4.3. Ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về trình tự tổ chức tiến hành
hòa giải của hòa giải viên, giá trị pháp lý của biên bản hòa giải thành.
- Về đề nghị ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về trình tự tổ chức tiến
hành hòa giải của hòa giải viên.
Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được
thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm
pháp luật. Do tính chất hòa giải ở cơ sở đề cao quyền tự quyết, tự định đoạt của
các bên tranh chấp; việc hòa giải phụ thuộc vào đối tượng, tính chất vụ việc, điều
kiện, hoàn cảnh, mối quan hệ của các bên tranh chấp mà hòa giải viên lựa chọn
cách thức hòa giải phù hợp nhất mang lại kết quả cao nhất. Vì vậy, pháp luật về
hòa giải ở cơ sở không quy định về trình tự, thủ tục hòa giải để tránh sự “tố tụng
hóa” hoạt động hòa giải ở cơ sở, ảnh hưởng đến quyền tự quyết, tự định đoạt của
các bên.
Tuy nhiên, để giúp hòa giải viên ở cơ sở nắm được những việc cần làm khi
tiến hành hòa giải, Bộ Tư pháp đã hướng dẫn các bước tiến hành hòa giải trong Bộ
tài liệu bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho hòa giải viên
ban hành tại Quyết định số 1753/QĐ-BTP ngày 22/8/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư
pháp (Phần II Tài liệu 3). Quy trình tiến hành một cuộc hòa giải ở cơ sở đã được
đăng tải trên Trang thông tin điện tử hổ biến, giáo dục pháp luật thuộc Cổng thông
tin điện tử Bộ Tư pháp tại địa chỉ Đây là tài liệu để hòa giải viên tham khảo, hình dung
cần chuẩn bị những vấn đề gì khi tiến hành hòa giải. Việc hòa giải như thế nào còn
phụ thuộc vào các bên tranh chấp, tình hình cụ thể của mỗi vụ, việc và kinh nghiệp,
kỹ năng của hòa giải viên ở cơ sở.
5. Kinh phí công tác hòa giải ở cơ sở còn rất hạn hẹp, chủ yếu nằm
trong kinh phí PBGDPL của địa phương, đề nghị Bộ Tư pháp: (i) quy định
23


cụ thể hơn việc hỗ trợ kinh phí hòa giải cho các địa phương chưa tự cân đối
được ngân sách cũng như trách nhiệm của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính trong

việc bố trí kinh phí hỗ trợ này; (ii) rà soát và xây dựng chính sách cụ thể để
hỗ trợ hoạt động tổ hòa giải và hòa giải viên, sửa đổi, bổ sung, nâng mức chi
hỗ trợ công tác hòa giải theo Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP
và hướng dẫn cụ thể nguồn chi, hồ sơ và thủ tục thanh quyết toán việc chi
thù lao cho hòa giải viên; (iii) xem xét, phối hợp cơ quan có liên quan miễn
giảm hoặc không thu phí thực hiện thủ tục đề nghị tòa án công nhận kết quả
hòa giải thành ở cơ sở để khuyến khích người dân thực hiện thủ tục này.
(i) Điều 6 Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 quy định “Ngân sách trung
ương chi bổ sung cho các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách để hỗ trợ
kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở”. Tuy nhiên, Luật Ngân sách nhà nước
năm 2015 quy định “Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu bảo đảm
chủ động thực hiện những nhiệm vụ chi được giao. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách ở địa
phương phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và
trình độ quản lý của mỗi cấp trên địa bàn. Nhiệm vụ chi thuộc ngân sách cấp nào
do ngân sách cấp đó bảo đảm” (Khoản 3, Khoản 4 Điều 9 Luật Ngân sách nhà
nước năm 2015). Theo quy định của Khoản 3 Điều 156 Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật năm 2015 thì “trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp
luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề
thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau”. Vì vậy,
hiện nay quy định “Ngân sách trung ương chi bổ sung cho các địa phương chưa
tự cân đối được ngân sách để hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở” tại
Điều 6 Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013 thực hiện theo quy định của Luật Ngân
sách nhà nước năm 2015.
Cụ thể như sau:
- Để bảo đảm kinh phí hoạt động cho công tác hòa giải ở cơ sở, các địa
phương phải căn cứ vào quy định tại Nghị định số 163/2015/NĐ-CP ngày
21/12/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Ngân
sách nhà nước năm 2015. Theo đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập, tổng hợp dự
toán ngân sách địa phương năm sau gửi Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,

các cơ quan quản lý chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình mục tiêu (phần
dự toán chi chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình mục tiêu) trước ngày
20/7 hàng năm (Điểm b Khoản 5 Điều 22 Nghị định số 163/2015/NĐ-CP). Do
vậy, Sở Tư pháp phải lập dự toán kinh phí bảo đảm công tác hòa giải ở cơ sở năm
sau xong trước ngày 20/7 hàng năm gửi Sở Tài chính tổng hợp trình Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh.
- Việc giao dự toán ngân sách nhà nước được thực hiện theo quy định tại
Điều 44 Luật Ngân sách nhà nước năm 2015, theo đó, trước ngày 15/11, Quốc hội
quyết định dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương
năm sau; trước ngày 20/11, Thủ tướng Chính phủ giao dự toán thu, chi ngân sách
năm sau cho từng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác
ở trung ương và từng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; trước ngày 10/12,
24


Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định dự toán ngân sách địa phương, phân bổ
ngân sách cấp tỉnh năm sau. Chậm nhất là 05 ngày làm việc, kể từ ngày Hội đồng
nhân dân quyết định dự toán ngân sách, Ủy ban nhân dân cùng cấp giao dự toán
ngân sách năm sau cho từng cơ quan, đơn vị thuộc cấp mình và cấp dưới.
Căn cứ vào các quy định trên, đề nghị các địa phương chưa tự cân đối được
ngân sách xác định rõ ngân sách cho công tác hòa giải ở cơ sở nằm trong nguồn
ngân sách Trung ương phân bổ cho tỉnh hàng năm. Sở Tư pháp phải phối hợp chặt
chẽ với Sở Tài chính trong lập dự toán, trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đúng thời
điểm quy định của pháp luật Ngân sách nhà nước để được cấp kinh phí cho công
tác hòa giải ở cơ sở.
Nội dung chi, mức chi phục vụ công tác hòa giải ở cơ sở được thực hiện
theo Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 30/7/2014 của Bộ Tài
chính và Bộ Tư pháp quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán
kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở. Trong thời gian
tới, Bộ Tư pháp sẽ phối hợp với Bộ Tài chính để có hướng dẫn cụ thể hơn, tháo

gỡ những vướng mắc về kinh phí mà địa phương đang gặp phải.
(ii) Thực tiễn thực hiện Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP
cho thấy một số nội dung chi và mức chi tại Thông tư không còn phù hợp với sự
phát triển kinh tế - xã hội hiện nay và trong thời gian tới. Đồng thời một số văn
bản dẫn chiếu trong Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP đã được
thay thế bởi văn bản khác. Vì vậy, trên cơ sở đề xuất của các địa phương tại báo
cáo tổng kết 05 năm thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013, Bộ sẽ tổng hợp,
nghiên cứu, đề xuất, phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng các giải pháp về kinh phí
thực hiện hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở trong thời gian tới.
(iii) Theo quy định tại Khoản 7 Điều 27 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015,
yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án là một trong những yêu
cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Theo đó, người nộp đơn yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận kết quả
hòa giải thành ở cơ sở phải nộp tiền tạm ứng lệ phí giải quyết việc dân sự theo
quy định tại Khoản 2 Điều 146 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và Khoản 1
Điều 36 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Mức lệ phí là 300.000 đồng quy định tại Danh mục án phí, lệ phí Tòa án
ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14.
Căn cứ các quy định trên, đối tượng được miễn, giảm lệ phí thực hiện thủ
tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án thực hiện theo quy định tại
Điều 11, 12, 13 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14.
Bộ Tư pháp ghi nhận đề xuất trên, tiếp tục nghiên cứu và phối hợp với Tòa
án nhân dân tối cao, Bộ Tài chính xem xét, thống nhất căn cứ, cơ sở kiến nghị, đề
xuất với cơ quan có thẩm quyền về việc miễn giảm phí thực hiện thủ tục yêu cầu
tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở.
25



×