Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

LÝ LUẬN VỀ NGÂN HÀNG ĐẠI LÝ VÀ NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG ĐẠI LÝ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.15 KB, 16 trang )

LÝ LUẬN VỀ NGÂN HÀNG ĐẠI LÝ VÀ NGHIỆP VỤ NGÂN
HÀNG ĐẠI LÝ
1.1. Khái niệm và đặc điểm ngân hàng đại lý
Một ngân hàng đại lý (ngân hàng đóng vai trò ngân hàng đại lý) là một ngân hàng
địa phương tại một nơi nào đó cung cấp dịch vụ cho ngân hàng khác [12].
Như vậy: Ngân hàng đại lý là ngân hàng đóng vai trò đại lý cho một ngân hàng khác
ở nước ngoài và thay mặt cho ngân hàng này thực hiện một số dịch vụ ngân hàng như đã
thỏa thuận. Ngân hàng đại lý giữ chức năng cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho các khách
hàng mà nó nhận làm đại lý.
Một ngân hàng có thể đóng vai trò ngân hàng đại lý cho nhiều ngân hàng, hoặc có
thể có nhiều đại lý tại các ngân hàng khác. Các giao dịch thanh toán quốc tế được thực hiện
chủ yếu bằng chuyển khoản qua ngân hàng, bù trừ lẫn nhau trên các tài khoản mở tại các
ngân hàng.
Ngân hàng đại lý có các đặc điểm sau:
- Khách hàng của ngân hàng đại lý là các ngân hàng thương mại hoặc các định chế tài
chính trung gian. Mối quan hệ giữa ngân hàng thương mai và các ngân hàng đại lý của
mình là quan hệ đối tác trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Thông qua một thỏa ước ngân hàng
đã ký kết có quy định rõ về các trách nhiệm và quyền hạn, ngân hàng đại lý sẽ tiến hành
cung cấp các dịch vụ theo yêu cầu. Đối tượng phục vụ của ngân hàng đại lý là khách hàng
của các ngân hàng thương mại mà nó có quan hệ đại lý. Quan hệ đại lý giúp giảm thiểu chi
phí hoa hồng và chi phí với thời gian, chính vì vậy khách hàng khi giao dịch với các ngân
hàng có quan hệ đại lý với nhau sẽ nhận được nhiều quyền lợi và ưu đãi.
- Nghiệp vụ ngân hàng đại lý được xem là một trong các giao dịch bán buôn của các
ngân hàng thương mại. Phần lớn các nghiệp vụ đại lý sẽ được thực hiện thông qua mạng
truyền thông SWIFT với phương thức bù trừ tài khoản. Do vậy, xét về tổng thể, nghiệp vụ
ngân hàng đại lý giải quyết phần nào các giao dịch bán buôn giữa các ngân hàng thương
mại với nhau nhằm giảm bớt áp lực tiền mặt và củng cố quan hệ đối tác giữa các ngân
hàng.
- Nghiệp vụ ngân hàng đại lý hỗ trợ cho các nghiệp vụ kinh doanh khác như thanh
toán, tín dụng, đầu tư, bảo lãnh…Giao thương quốc tế phát triển đặt ra nhu cầu thanh toán
rất cao cho các bên đối tác. Bất kỳ hoạt động nào của ngân hàng có tính đến yếu tố xuyên


biên đều kết thúc bằng việc chuyển giao và chu chuyển luồng tiền giữa hai ngân hàng.
Chính vì vậy, một khi hai ngân hàng có quan hệ đại lý với nhau, nghiệp vụ ngân hàng đại
lý sẽ giúp đơn giản hóa cũng như hỗ trợ rất nhiều cho các dịch vụ khác mà ngân hàng đang
khai thác.
- Nghiệp vụ ngân hàng đại lý là một trong những công cụ hữu hiệu trong việc nâng
cao tính cạnh tranh của ngân hàng. Hệ thống tài chính toàn cầu phát triển buộc các ngân
hàng phải liên kết với nhau - một mặt để mở rộng thị trường và đối tượng khách hàng, mặt
khác nhằm nâng cao tính cạnh tranh dựa trên mối quan hệ đại lý đã mở với những ngân
hàng khác có uy tín. Thay cho việc phải mở một chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ vấp
phải rào cản pháp lý và những quy định của nước sở tại, thiết lập quan hệ đại lý với các
ngân hàng nước ngoài được xem là một trong những phương thức đơn giản, hiệu quả và
chi phí thấp khi một ngân hàng có ý định thâm nhập thị trường mới. Chính vì vậy, phân
phối dịch vụ thông qua ngân hàng đại lý thường áp dụng đối với những ngân hàng chưa có
chi nhánh. Do đó, ngân hàng thường thông qua một ngân hàng có trụ sở tại địa điểm kinh
doanh làm đại lý về một nghiệp vụ nào đó và ngân hàng đại lý được hưởng hoa hồng như
đại lý thanh toán, đại lý chuyển tiền, sec du lịch. Đây là một trong các loại kênh phân phối
có xu thế phát triển cùng với xu thế toàn cầu hóa thị trường tài chính quốc tế. Đồng thời,
đây cũng là bước đệm để ngân hàng thăm dò và tìm hiểu văn hóa địa phương cũng như các
quy định pháp lý trước khi chính thức thâm nhập thị trường ngoài nước.
1.2. Các loại tài khoản sử dụng trong hoạt động ngân hàng đại lý
1.2.1. Tài khoản Nostro
Tài khoản Nostro (Nostro theo tiếng Latin là "của chúng tôi") là tài khoản tiền gửi
không kỳ hạn "của chúng tôi" mở tại ngân hàng đại lý (chúng tôi là chủ tài khoản, còn
ngân hàng đại lý là người giữ tài khoản cho chúng tôi) [13].
Tài khoản Nostro có số dư bằng ngoại tệ nên sẽ linh hoạt trong việc thanh toán do
không phải mất thời gian và chi phí để chuyển đổi đồng tiền.
Trên phương diện Việt Nam, tài khoản Nostro là tài khoản tiền gửi giao dịch vốn
của các ngân hàng thương mại Việt Nam mở và duy trì tại các ngân hàng nước ngoài.
1.2.2. Tài khoản Vostro (tài khoản Loro)
Tài khoản Vostro (hay còn gọi là tài khoản Loro – theo tiếng Latin là "của các bạn")

là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn "của quý vị" mở tại ngân hàng chúng tôi (quý vị là chủ
tài khoản, ngân hàng chúng tôi là người giữ tài khoản cho quý vị). Tài khoản Vostro có số
dư bằng nội tệ [13].
Trên thực tế, thuật ngữ Nostro và Vostro thường dễ gây nhầm lẫn và thường gọi
chung là tài khoản Nostro khi muốn nói về tài khoản một ngân hàng khác mở tại ngân hàng
đang xem xét.
Tài khoản Nostro hay tài khoản Vostro có thể được duy trì bằng một ngoại tệ tự do
chuyển đổi được sử dụng phổ biến trong thanh toán quốc tế. Điều này là phổ biến đối với
các nước có đồng tiền chưa được tự do chuyển đổi phải dùng ngoại tệ mạnh trong thanh
toán quốc tế.
Nếu tiền được chuyển từ Việt Nam cho nước ngoài thì:
- Trường hợp tiền chuyển là ngoại tệ, tài khoản Nostro sẽ được sử dụng bằng cách
ghi nợ tài khoản Nostro.
- Trường hợp tiền chuyển là nội tệ, tài khoản Vostro sẽ được sử dụng bằng cách ghi
có tài khoản Vostro.
1.3. Phương thức thông tin liên lạc của ngân hàng đại lý
Trong hoạt động ngân hàng quốc tế, mỗi quốc gia sẽ có một nền tảng công nghệ
riêng để phục vụ cho hoạt động thanh toán của mình. Nền tảng công nghệ nếu quy chuẩn
và hiệu quả sẽ trở thành những hệ thống thanh toán chung được mọi người chấp nhận. Một
số hệ thống thanh toán bù trừ liên ngân hàng tại một số quốc gia lớn như sau [11]:
1.3.1. CHIPS - Hệ thống thanh toán bù trừ liên ngân hàng tại Mỹ
Là hệ thống thanh toán chuyển tiền qua hệ thống máy tính giữa các ngân hàng của
CHIPCo. (The Clearing House Interbank Payment Company), một công ty thành lập bởi
hiệp hội thanh toán bù trừ NewYork và các Ngân hàng thành viên tham gia hiệp hội này.
CHIPS là một hệ thống thanh toán mạng lưới đa phương, ghép lệnh liên tục và tức
thời nghĩa là các lệnh thanh toán nhận được trong giờ làm việc của CHIPS (từ 12:30 A.M.
đến 5:00 P.M., giờ NewYork) sẽ được xử lý và thực hiện ghi có gần như ngay lập tức cho
Ngân hàng hưởng lợi.
Để thực hiện thanh toán thông qua CHIPS, ngân hàng được ghi có phải có mã
CHIPS. Các ngân hàng thành viên của CHIPS tại Mỹ có mã CHIPS Participant (CHIPS

ABA) gồm 4 chữ số. Các ngân hàng ngoài nước Mỹ có tài khoản tại một ngân hàng thành
viên của CHIPS tại Mỹ hoặc các chi nhánh, phòng ban của ngân hàng thành viên CHIPS
tại Mỹ nhưng có tài khoản độc lập sẽ có CHIPS UID (CHIPS Universal Identifier). Mỗi
ngân hàng, chi nhánh, phòng ban có tài khoản độc lập chỉ có một số CHIPS duy nhất, khi
nhận được điện thanh toán chuẩn có số CHIPS này, hệ thống CHIPS sẽ xử lý tự động và tự
động ghi có vào tài khoản đó.
Hệ thống thanh toán bù trừ CHIPS là hệ thống thanh toán đồng USD lớn nhất hiện nay,
thực hiện 90% các khoản thanh toán bằng đồng USD trên toàn thế giới.
1.3.2. CHAPS - Hệ thống thanh toán bù trừ tự động tại Anh
CHAPS là một hình thức thanh toán được đưa ra bởi một số chi nhánh ngân hàng
hối đoái (các ngân hàng thanh toán của Anh Quốc) vào năm 1984. Đây là một hình thức
thanh toán liên ngân hàng trực tuyến áp dụng cho việc chuyển khoản những khoản tiền có
giá trị lớn và được bảo đảm nội trong một ngày. Trước năm 1984, những hình thức thanh
toán kiểu như này thường được thực hiện bởi việc các đại diện ngân hàng trực tiếp đi đến
các ngân hàng khác nhau trong thành phố London để tiến hành giao dịch. Tuy nhiên, trước
sự tăng khá nhanh của lượng tiền và số lần giao dịch, người ta nhận thấy rằng cần phải có
một hệ thống thanh toán phù hợp hơn.
Các ngân hàng và các công ty muốn tham gia CHAPS phải trở thành thành viên của
các ngân hàng thanh toán. Điều này cho phép họ kết nối hệ thống máy tính của doanh
nghiệp với hệ thống CHAPS của ngân hàng dưới hình thức gói phần mềm Gateway và
Dịch vụ PSS.
Lượng giao dịch thông qua CHAPS đã tăng lên rõ rệt kể từ khi hình thức này được
giới thiệu. Số tiền tối đã cho mỗi lần giao dịch là không hạn chế và số tiền tối thiểu hiện
nay là 5000 USD. Trung bình mỗi ngày có khoảng 16000 giao dịch được thực hiện với
tổng giá trị khoảng 50 tỷ USD.
Mỗi ngân hàng thanh toán có một hệ thống máy tính TANDEM chuyên theo dõi
thông tin về các lần giao dịch. Thông số của các lần thanh toán sẽ được thẩm định và sau
đó mã hóa và chuyển đến ngân hàng có liên quan thông qua hệ thống cổng thông tin và
điện thoại. Ngân hàng tiếp nhận sẽ giải mã để có thông tin về các khoản thu này. Ngân
hàng thanh toán tiền cũng có thể gửi kèm một “Thư tham vấn” để xác minh rõ về khoản

phải tiền chi trả này. Ngân hàng thông báo sau đó sẽ gọi điện cho người hưởng lợi và thông
báo rằng tiền của họ đã được gửi đến. Người thụ hưởng cũng có thể theo dõi xem tiền đã
đến nơi chưa thông qua hệ thống máy tính riêng của họ có kết nối với ngân hàng.
1.3.3. BOJNET - Trung tâm thanh toán bù trừ JPY tại Tokyo của NHTW Nhật
BOJ-NET là một hệ thống thanh toán điện tử do ngân hàng trung ương Nhật Bản
BOJ vận hành. Mục tiêu thiết kế của hệ thống này là: bảo đảm tính an toàn và ổn định của
việc quyết toán; khai thông quy trình quyết toán và tăng cường hiệu quả của việc quyết
toán; và phục vụ với tư cách là cơ sở hạ tầng quyết toán thích hợp với các chuẩn mực quốc
tế.
BOJ-NET bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 1988, tới cuối năm 2000, 511 định chế
tài chính bao gồm các ngân hàng, các công ty chứng khoán đã tham gia hệ thống. Trụ sở
chính, các chi nhánh và các thành viên của BOJ-NET được kết nối với trung tâm máy tính
tại Tokyo bằng đường truyền liên lạc viễn thông, thông qua đó dữ liệu được gửi tới trung
tâm máy tính để xử lý trực tuyến. Về nguyên tắc, các thành viên truy cập vào BOJ-NET sử
dụng các các thiết bị đầu cuối dành riêng của BOJ-NET, nhưng một kết nối trực tiếp giữa
BOJ-NET và các hệ thống máy tính của bản thân các thành viên đồng thời cũng sẵn sàng
để xử lý khối lượng giao dịch lớn.
Để bảo đảm an toàn trong chuyển tiền và giao dịch chứng khoán, thiết bị chính và
các chu trình của BOJ-NET được nhân bản như một biện pháp an toàn để gia tăng sự tin
cậy. Ngân hàng trung ương có các phương tiện máy tính dự phòng cho trung tâm máy tính
ở Osaka. Trung tâm máy tính, với sự trợ giúp của chi nhánh Osaka, quản lý việc vận hành
của BOJ-NET để xác định bất kỳ một lỗi hệ thống nào và tiến hành các biện pháp cần thiết
nếu cần khi có vấn đề xảy ra. Ngân hàng trung ương đồng thời sử dụng mật mã, thẻ ID, và
mã hóa dữ liệu để bảo đảm an toàn cho các thông tin trao đổi qua mạng và ngăn chặn gian
lận.
1.3.4. SWIFT – Hệ thống viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn cầu
1.3.4.1. Giới thiệu chung về SWIFT
SWIFT là Hiệp hội viễn thông liên ngân hàng và các tổ chức tài chính quốc tế
(Society for Worldwide Interbank and Finacial Telecommunication). Đây là một hiệp hội
mà thành viên là các ngân hàng và các tổ chức tài chính, mỗi ngân hàng tham gia là một cổ

đông của SWIFT. SWIFT cung cấp các dịch vụ truyền thông an ninh và phần mềm giao
diện cho các cơ quan chuyên bán buôn tài chính. SWIFT là nhà cung cấp sự an toàn, dịch
vụ chuẩn hóa và phần mềm giao diện cho các quốc gia và lãnh thổ. Thành viên của SWIFT

×