Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊ NIN VỀ VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN SỨ MỆNH GIAI CẤP CÔNG NHÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.17 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930 là sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng
đại, đánh dấu bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. "Ðảng đã lãnh đạo nhân dân giành
được những thắng lợi vĩ đại: Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và
việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa;... Hai là, thắng lợi của các cuộc
kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc;... Ba là, thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội". Những thành tựu
to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại... trong hơn 30 năm đổi mới càng khẳng định tầm vóc to lớn về vai trò lãnh đạo của
Ðảng đối với hệ thống chính trị và trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Lịch sử ta từ trong những năm 30 của thế kỷ 20 đến nay đã đánh dấu nhiều mốc
son chói lọi, gắn liền với sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Ðó là các sự kiện
nhân dân ta đứng lên làm cách mạng giải phóng dân tộc, lật đổ chế độ thực dân, phong
kiến lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam); vừa kháng chiến vừa kiến quốc, thống nhất đất nước và nay đang thực hiện công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh". Sứ mệnh và vai trò của Ðảng Cộng sản Việt Nam đã được khẳng định
ngay từ khi mới thành lập và được chỉ rõ trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt.
Để hiểu rõ hơn về vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong việc lãnh đạo phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhóm chúng em chọn đề tài “Quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lê nin về vai trò của Đảng cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhận. Vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong việc lãnh
đạo phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam giành độc lập và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta” để làm đề tài tiểu luận cuối kỳ môn học Những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin.
1


2. Mục đích và nhiệm vụ của tiểu luận:
2.1. Mục đích:


- Tìm hiểu và làm rõ giai cấp công nhân, tính tất yếu ra đời của Đảng cộng sản,
mối quan hệ giữa Đảng cộng sản và giai cấp công nhân.
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ nội dung quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin về vai
trò của Đảng cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
- Tìm hiểu thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc và thời kỳ xây dựng xã hội chủ
nghĩa hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ:
Để đạt được những mục đích nêu trên, tiểu luận cần thực hiện một số nhiệm vụ cụ
thể như sau:
- Trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin về vai trò của Đảng Cộng Sản
với quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
- Trình bày vai trò của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong việc lãnh đạo phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam giành độc lập dân tộc và xây dựng Chủ nghĩa
Xã hội ở nước ta.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của tiểu luận:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Những nội dung cơ bản về quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin về vai trò của
Đảng Cộng Sản với quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân .

2


- Vai trò của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong việc lãnh đạo phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân Việt Nam giành độc lập dân tộc và xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở
nước ta.

3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Tiểu luận tập trung nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lê nin về:

+ Vai trò của Đảng Cộng Sản với quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân.
+ Vai trò của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong việc lãnh đạo phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân Việt Nam giành độc lập dân tộc và xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở
nước ta.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
4.1. Cơ sở lý luận:
Tiểu luận được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và Nhà nước về vai trò của Đảng Cộng Sản trong việc
lãnh đạo phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân.

4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chủ
yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các
phương pháp khác như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so
sánh, tra cứu tài liệu, báo chí và các văn tự, công văn liên quan khác.

5. Kết cấu của tiểu luận:
3


Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, tiểu luận được chia
làm 2 chương:
Chương 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của Đảng Cộng Sản
với quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Chương 2: Vai trò của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong việc lãnh đạo phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam giành độc lập dân tộc và xây dựng Chủ nghĩa
Xã hội ở nước ta.


4


CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ NIN VỀ VAI TRÒ
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VỚI QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN SỨ
MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1.1. Khái quát về giai cấp công nhân:
1.1.1. Khái niệm:
Cũng như mọi hiện tượng xã hội khác, giai cấp công nhân là con đẻ của một hoàn
cảnh lịch sử cụ thể và cùng với sự phát triển của lịch sử, cũng luôn luôn phát triển với
những biểu hiện và đặc trưng mới trong từng giai đoạn nhất định. Sự phát triển của đại
công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người vô sản, mà còn tập hợp họ lại thành
một tập đoàn xã hội rộng lớn, thành giai cấp vô sản hiện đại. Chính vì vậy, một kết luận
rút ra là, giai cấp công nhân hiện đại ra đời gắn liền với sự phát triển của đại công nghiệp,
nó là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp và lớn lên cùng với sự phát triển của
nền đại công nghiệp đó.
Trong xã hội Tư bản Chủ nghĩa, giai cấp công nhân là một trong những giai cấp cơ
bản, chủ yếu, đối lập với giai cấp tư sản, là giai cấp bị giai cấp tư sản tước đoạt hết tư liệu
sản xuất, buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để sống, bị bóc lột giá trị thặng dư.
Họ là những người được tự do về thân thể và có quyền bán sức lao động tùy theo cung –
cầu hàng hóa sức lao động. Đây là giai cấp bị bóc lột nặng nề, bị bần cùng hóa về vật chất
lẫn tinh thần. Sự tồn tại của họ phụ thuộc và quy luật cung – cầu hàng hóa sức lao động,
phụ thuộc vào kết quả lao động của chính họ. Họ phải tạo ra giá trị thặng dư, nhưng giá trị
thặng dư lại bị giai cấp tư sản chiếm đoạt. Dưới Chủ nghĩa Tư bản, C. Mác và Ph.
Ăngghen đã định nghĩa rằng: “Giai cấp vô sản là giai cấp những công nhân làm thuê hiện
đại, vì mất hết tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc bán sức lao động của mình đế
sống”.
5



Dù giai cấp công nhân có bao gồm những công nhân làm những công việc khác
nhau như thế nào đi nữa, thì theo C. Mác và Ph. Ăngghen, họ vẫn chỉ có hai tiêu chí cơ
bản để xác định, phân biệt với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác:
- Một là, về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người lao
động trong nền sản xuất công nghiệp. Có thể họ là người lao động trực tiếp hay gián tiếp
vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa
cao. Đã là công nhân hiện đại thì phải gắn với nền đại công nghiệp, bởi vì nó là sản phẩm
của nền đại công nghiệp. Giai cấp công nhân hiện đại là hạt nhân, bộ phận cơ bản của mọi
tầng lớp công nhân.
- Hai là, về vị trí trong quan hệ sản xuất của giai cấp công nhân, chúng ta phải xem
xét trong hai trường hợp sau:
+ Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thì giai cấp công nhân là những người vô sản
hiện đại, không có tư liệu sản xuất, nên buộc phải làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư
bản và bị toàn thể giai cấp tư sản bóc lột. Tức là giá trị thặng dư mà giai cấp công nhân
tạo ra bị nhà tư bản chiếm đoạt. Chính căn cứ vào tiêu chí này mà những người công nhân
dưới chủ nghĩa tư bản được gọi là giai cấp vô sản.
+ Sau cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm
quyền. Nó không còn ở vào địa vị bị áp bức, bị bóc lột nữa, mà trở thành giai cấp thống
trị, lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ
nghĩa. Giai cấp công nhân cùng với toàn thể nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản
xuất chủ yếu đã công hữu hóa. Như vậy họ không còn là những người vô sản như trước
và sản phẩm thặng dư do họ tạo ra là nguồn gốc cho sự giàu có và phát triển của xã hội xã
hội chủ nghĩa.
Căn cứ vào hai tiêu chí cơ bản nói trên, chúng ta có thể định nghĩa giai cấp công
nhân như sau: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển
cùng với quá trình phát triển của nền đại công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của
6



lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao, là lực lượng lao động cơ bản
trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo
các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến
trong thời đại ngày nay.

1.1.2 Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Khi phân tích xã hội Tư bản Chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác với hai phát kiến vĩ đại, đó
là quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, đã chứng minh một cách
khoa học rằng sự ra đời, phát triển và diệt vong của Chủ nghĩa Tư bản là tất yếu và cũng
khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng nhất, là lực lượng
xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử: xóa bỏ Chủ nghĩa Tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc
lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân
loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới – Xã hội Chủ
nghĩa và Cộng sản Chủ nghĩa.
Là giai cấp cơ bản bị áp bức dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân chỉ có thể
thoát khỏi ách áp bức bằng con đường đấu tranh giai cấp chống giai cấp tư sản, bằng con
đường thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và thiết lập chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất. Bằng cách đó, giai cấp công nhân vĩnh viễn thủ tiêu mọi hình thức người bóc lột
người, chẳng những tự giải phóng mình, mà còn giải phóng cả các tầng lớp lao động
khác, giải phóng dân tộc và giải phóng toàn thể nhân loại.

1.1.3 Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân:
Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử thế giới là do địa vị kinh tế - xã hội khách
quan của nó quy định:
- Dưới Chủ nghĩa Tư bản, với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp công
nhân ra đời và từng bước phát triển. Giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất, cách
7



mạng nhất của lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hóa cao. Đây là giai cấp tiên tiến
nhất, là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất Tư bản Chủ nghĩa, là giai cấp duy
nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn
phương thức sản xuất Tư bản Chủ nghĩa, là giai cấp tiêu biểu cho xu hướng phát triển của
lịch sử trong thời đại ngày nay.
- Mặc dù là giai cấp tiên tiến, nhưng giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất
nên buộc bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để sống. Họ bị giai cấp tư sản bóc lột
giá trị thặng dư mà họ đã tạo ra trong thời gian lao động. Một khi sức lao động đã trở
thành hàng hóa, thì người chủ của nó (người vô sản) phải chịu đựng mọi thử thách, mọi
may rủi của cạnh tranh; số phận của nó tùy thuộc vào quan hệ cung – cầu hàng hóa sức
lao động trên thị trường làm thuê và phụ thuộc vào kết quả lao động của chính họ. Họ bị
giai cấp tư sản áp bức, bóc lột và ngày càng bị bần cùng hóa cả đời sống vật chất lẫn đời
sống tinh thần. Do đó, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản là mâu thuẫn
đối kháng, cơ bản, không thể điều hòa trong xã hội Tư bản Chủ nghĩa. Xét về mặt bản
chất, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ
áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa. Những điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định
rằng, họ chỉ có thể giải phóng mình bằng cách giải phóng toàn thể nhân loại khỏi chế độ
tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng xích và được cả
thế giới về mình.
- Địa vị kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến giai cấp công nhân trở thành
giai cấp cách mạng triệt để mà còn tạo cho họ có khả năng thực hiện được sứ mệnh lịch
sử đó. Đó là khả năng đoàn kết giai cấp trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản và xây
dựng xã hội mới. Đó là khả năng đoàn kết với các giai cấp lao động khác chống chủ nghĩa
tư bản. Đó là khả năng đoàn kết toàn thể giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên
quy mô quốc tế chống Chủ nghĩa Đế quốc.
Vì vậy, C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối
lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản thực sự cách mạng. Các giai cấp khác đều
8



suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp; giai cấp vô sản, trái
lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”.

1.2 Tính tất yếu ra đời của Đảng Cộng Sản:
Đảng Cộng Sản ra đời là tất yếu lịch sử của phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân. Bởi vì khi chưa có Đảng Cộng Sản lãnh đạo, giai cấp công nhân chỉ có thể đấu
tranh tự phát, đấu tranh vì mục đích kinh tế, vì cơm ăn áo mặc, cải thiện sinh hoạt, chứ
không phải đấu tranh với tư cách là một giai cấp nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình. Chỉ khi nào giai cấp công nhân đạt tới trình độ tự giác bằng việc tiếp thu lý luận
khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin thì mới đưa cuộc đấu tranh tự phát lên
cuộc đấu tranh tự giác, đấu tranh chính trị, đấu tranh với tư cách là một giai cấp có thể
thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Muốn được như vậy thì điều kiện quan trọng trước
tiên là giai cấp công nhân phải tự xây dựng lên chính Đảng chính trị của mình, đó là Đảng
Cộng Sản.

1.2.1. Khái niệm Đảng Cộng sản:
Đảng Cộng Sản là hình thức tổ chức cao nhất, là bộ phân ưu tú nhất của giai cấp
công nhân, là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm
nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho mọi hành động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ
làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, lấy sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp công
nhân và nhân dân lao động làm mục đích tối cao của mình.
Như vậy, Đảng Cộng Sản mang bản chất giai cấp công nhân, không tách rời với
giai cấp công nhân, nhân dân lao động.

1.2.2 Vai trò của Đảng Cộng Sản:

9



Đảng Cộng Sản là nhân tố quyết định trước tiên trong việc thực hiện sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân. Bởi trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, chừng nào và
chỉ khi nào giai cấp công nhân tự tổ chức ra chính Đảng của mình để lãnh đạo cuộc đấu
tranh thì mới đảm bảo giành được thắng lợi trọn vẹn, hoàn thành được sứ mệnh lịch sử
của mình. Để thực hiện được vai trò lãnh đạo đó, Đảng Cộng Sản phải có nhứng nhiệm vụ
hết sức to lớn sau đây:
+ Đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn và phù hợp để dựa vào đường lối
chiến lược, sách lược đó mà Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo đối với toàn xã hội.
+ Đảng phải biết tổ chức tập hợp quần chúng nhân dân thực hiên đường lối chủ
trương chính sách của Đảng thành hiện thực, thành những giá trị vật chất và tinh thần để
mang lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
Làm tròn những nhiệm vụ và vai trò nói trên là Đảng Cộng Sản đã hiện thực hóa
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Nếu không có chính đảng lãnh đạo, giai cấp công
nhân chỉ có thể đấu tranh tự phát, đấu tranh vì mục đích kinh tế, chứ không phải là cuộc
đấu tranh tự giác, đấu tranh vì mục đích chính trị. Chính vì vậy, Đảng Cộng Sản là nhân
tố quyết định hàng đầu đảm bảo cho giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
mình. Với một Đảng Cộng Sản chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng chính là sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân. Đảng với giai cấp là thống nhất, nhưng Đảng có trình độ lý luận
và tổ chức cao nhất để lãnh đạo giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân. Để làm tròn vai trò đó, Đảng Cộng Sản phải là một đảng
kiểu mới, một đảng Mácxít - Lêninnít.

1.3. Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân:
Giữa Đảng Cộng Sản và giai cấp công nhân, cũng như với nhân dân lao động luôn
luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ được phân tích như sau:
+ Đảng Cộng Sản là tổ chức chính trị cao nhất; đại biểu cho lợi ích và trí tuệ của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân
10



lao động. Với một Đảng Cộng Sản chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng cũng chính là sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình
thông qua Đảng Cộng Sản.
+ Đảng Cộng Sản có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp công
nhân và quần chúng nhân dân lao động, vì thế Đảng có thể thực hiện giác ngộ quần chúng
nhân dân, đưa họ tham gia các phong trào cách mạng. Có tập hợp được quần chúng nhân
dân, huy động được quần chúng tham gia các phong trào cách mạng thì những chủ
trương, đường lối của Đảng mới được thực hiện và khi đó Đảng mới có sức mạnh, sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mới được thực hiện.
+ Đảng Cộng Sản là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và cả dân tộc.
Những quyết định đúng đắn của Đảng trong thời điểm lịch sử quan trọng sẽ tạo điều kiện
đưa phong trào cách mạng tiến lên, ngược lại có thể gây ra những tổn thất cho cách mạng.
+ Giai cấp công nhân và nhân dân lao động là cơ sở giai cấp, cơ sở xã hội của
Đảng Cộng Sản; là nguồn bổ sung lực lượng phong phú cho Đảng; là sức sống và sức
mạnh của Đảng.
Vì vậy, một Đảng chân chính luôn có mối liên hệ mật thiết với cơ sở giai cấp và cơ
sở xã hội của nó thì Đảng lãnh đạo cũng chính là giai cấp lãnh đạo; sự nghiệp của Đảng
cũng chính là sự nghiệp của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; lợi ích và trí tuệ
của Đảng cũng chính là lợi ích và trí tuệ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

11


CHƯƠNG 2
VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG VIỆC
LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA GIAI CẤP CÔNG
NHÂN VIỆT NAM GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
2.1. Thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc:
- Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930-1945)

Thời kỳ này, cách mạng Việt Nam đã có đội tiên phong lãnh đạo là Đảng Cộng Sản
với Cương lĩnh chính trị đúng đắn, đưa cách mạng nước ta phát triển theo xu thế của thời
đại đã được mở ra từ cách mạng Xã hội Chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917. Quá trình
đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền đã diễn ra với 3 cao trào cách mạng có ý
nghĩa như 3 cuộc tổng diễn tập chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng Tám giành chính
quyền về tay nhân dân: cao trào cách mạng 1930- 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết-Nghệ
Tĩnh, cao trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ (1936-1939) và cao trào giải phóng dân tộc
dẫn tới Cách mạng Tháng Tám 1945 (1939-1945). Đó là quá trình đấu tranh cách mạng
vô cùng khó khăn, gian khổ của Đảng và dân tộc ta.
Thực tiễn 15 năm đấu tranh cách mạng giành chính quyền, Đảng và nhân dân đã
đặt ra và giải quyết thành công nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ cơ bản trong đường lối
chiến lược và sách lược, bảo đảm cho phong trào cách mạng phát triển đúng hướng, phát
huy sức mạnh của cả dân tộc. Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã
chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật xâm lược, xóa bỏ chế độ thực
dân, phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập dân tộc
và Chủ nghĩa Xã hội, mở ra thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh. Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 thành công dẫn đến sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng
12


hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) - Nhà nước Công Nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á.
Đó là sự kiện quan trọng bậc nhất trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc. Đó là
thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác - Lênin ở một nước thuộc địa nửa phong kiến thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó cũng là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển
hình của thế kỷ XX. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Do sự lãnh đạo sáng suốt và
kiên quyết của Đảng, do sức đoàn kết và hăng hái của toàn dân trong và ngoài mặt trận
Việt Minh, cuộc Cách mạng Tháng Tám đã thắng lợi”; “Chẳng những giai cấp lao động
và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức
nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các
dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành
công, đã nắm chính quyền toàn quốc.”

-

Thời kỳ bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám, tiến hành 2 cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975)
Năm 1945-1946, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân vượt qua

những khó khăn, thách thức nặng nề, chống thù trong, giặc ngoài, vừa kháng chiến vừa
kiến quốc: xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân; bầu cử Quốc hội
(6/1/1946); xây dựng Hiến pháp dân chủ đầu tiên (9/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ
mới, đời sống mới của nhân dân; chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng
chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả
nước; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả
Cách mạng Tháng Tám; thực hành sách lược khôn khéo, lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng
để đánh thực dân Pháp xâm lược, lúc thì hoà với Pháp để đuổi Tưởng, thực hiện nhân
nhượng có nguyên tắc để triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, đưa cách
mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo.
Đảng đã chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến
tranh xâm lược của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước. Thành công nổi bật của hơn một
năm xây dựng chính quyền non trẻ là đã tăng cường được sức mạnh của cách mạng để có
thể tự bảo vệ thành quả cách mạng bằng sức mạnh của chính mình.
13


Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược Việt Nam một lần nữa của thực dân Pháp,
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm:
“Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ.”
Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến; vừa kiến quốc vừa
kháng chiến dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của
bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh
của thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Thắng lợi của chiến

dịch lịch sử Điện Biên Phủ và việc ký kết Hiệp định Geneva năm 1954 đã chấm dứt sự
thống trị của thực dân Pháp ở nước ta, mở đầu sự sụp đổ của Chủ nghĩa Thực dân cũ trên
thế giới, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu
phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Từ năm 1954 đến năm 1975, Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đồng thời hai
chiến lược cách mạng gồm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Đây là đặc điểm mang tính đặc thù của cách mạng
Việt Nam, cùng với mục tiêu độc lập dân tộc, mục tiêu Xã hội Chủ nghĩa được đặt ra trực
tiếp. Đế quốc Mỹ phá hoại hiệp định Geneva, hất chân thực dân Pháp, độc chiếm miền
Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Dân tộc lại
phải đương đầu với chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ. Đảng đã lãnh đạo toàn dân
nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, bảo vệ nền độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, thực hiện
đường lối chiến tranh nhân dân được nâng lên tầm cao khoa học và nghệ thuật. Đương
đầu với một đế quốc hùng mạnh bậc nhất thế giới, Đảng chủ trương đánh lâu dài; kết hợp
đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và hoạt động binh vận; kết hợp tiến công và nổi
dậy, tiến hành đấu tranh trên cả ba vùng (đồng bằng, thành thị và miền núi); kết hợp mặt
trận quân sự, chính trị với mặt trận ngoại giao; phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước và
chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh
thời đại, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Đảng đã lãnh đạo nhân dân lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo
của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh
14


lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất Tổ quốc. Thắng lợi của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc và là một sự kiện có tầm quốc
tế và có tính chất thời đại sâu sắc. Xây dựng Chủ nghĩa Xã hội trên miền Bắc trong điều
kiện hai miền thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết
với nhau, trong điều kiện từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội

bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đòi hỏi Đảng ta phải vận dụng sáng tạo lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và kinh nghiệm các nước Xã
hội Chủ nghĩa. Đảng đã lãnh đạo nhân dân tập trung giải quyết tốt các mối quan hệ cơ
bản: giữa tiến hành chiến tranh cách mạng với xây dựng chủ nghĩa xã hội; giữa hậu
phương lớn với tiền tuyến lớn; giữa thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; giữa quy luật chiến tranh và quy luật xây dựng phát triển kinh tế; giữa đẩy mạnh
chiến tranh cách mạng ở nước ta với bảo vệ hòa bình thế giới; giữa lợi ích dân tộc với
thực hiện nghĩa vụ quốc tế…
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc đã thu được những thành
tựu quan trọng. Vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức người, sức của cho tiền
tuyến, miền Bắc đã nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm
quốc phòng an ninh, đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ; xây dựng
hậu phương vững mạnh, trở thành căn cứ địa cách mạng của cả nước, bảo đảm mọi mặt
cho tiền tuyến đánh thắng; mở rộng quan hệ đối ngoại, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ
của các nước trên thế giới; tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu
nước; tạo những cơ sở vật chất và những kinh nghiệm quý báu trong sự vận dụng và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng Chủ
nghĩa Xã hội ở Việt Nam sau này.

2.2. Thời kỳ tiến hành cách mạng Xã hội Chủ nghĩa trên cả nước, thực hiện
công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1975 đến nay:
Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước tiến lên Chủ nghĩa
Xã hội với hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
15


Xã hội Chủ nghĩa. Sau chiến tranh, đất nước gặp muôn vàn khó khăn. Đảng đã lãnh đạo
nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh chống xâm lược
biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Đảng đã tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước hình

thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân lao động. Tuy nhiên, trước yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, việc
duy trì lâu dài mô hình, cơ chế tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những
hạn chế, nhược điểm.
Trong việc hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng Xã hội Chủ nghĩa, có lúc,
có nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế-xã hội trong những năm đầu cả nước
đi lên Chủ nghĩa Xã hội. Trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng ta đã tổng kết
sáng kiến từ thực tiễn của nhân dân, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới, thể hiện qua
các mốc sau: Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6, khoá IV (tháng 8-1979); Chỉ thị
100-CT/TW ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư về khoán sản phẩm trong nông nghiệp;
Quyết định 25/CP ngày 21/1/1981 của Chính phủ về đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh;
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khoá V (tháng 6/1985) thừa nhận sản xuất
hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá; Kết luận của Bộ Chính trị (tháng
9/1986) về 3 quan điểm kinh tế trong tình hình mới. Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986)
đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước bối cảnh mô hình Chủ nghĩa Xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống
Xã hội Chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đại hội VII của Đảng (tháng
6/1991) khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực với những bước đi,
cách làm phù hợp và giữ vững định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Đại hội đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội, xác định những
quan điểm và phương hướng phát triển đất nước, khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin , tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
16


Từ đó đến nay, Đảng ta tiếp tục phát triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc
đổi mới, về chủ nghĩa Marx-Lenin , tư tưởng Hồ Chí Minh, về xây dựng và chỉnh đốn

Đảng trong tình hình mới được bổ sung và phát triển ngày càng hoàn thiện. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, qua gần ba mươi năm đổi mới, đất nước ta đã giành được những thắng lợi
to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đảng ta lãnh đạo tiến hành kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa đã thu được những kết quả tích cực: đất nước vượt qua khủng
hoảng tài chính, tiền tệ khu vực (1997-1998); khắc phục có hiệu quả ảnh hưởng của
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay; thực hiện các Kết luận của
Bộ Chính trị, nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, thực hiện có hiệu quả mục tiêu kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, duy trì tăng trưởng ở mức
hợp lý; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
được cải thiện rõ rệt, vượt qua ngưỡng nước nghèo chậm phát triển. Hệ thống chính trị và
khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị, xã hội ổn định, an
ninh, quốc phòng được giữ vững. Vai trò và vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày
càng nâng cao.

2.3. Bài học kinh nghiệm:
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam (tháng
6/1991) đã tổng kết thực tiễn hơn 60 năm cách mạng nước ta, trong đó có 5 năm thực hiện
đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra, thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã nêu ra năm bài học lớn của cách mạng
Việt Nam:
- Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Đây là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều
kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững
chắc cho độc lập dân tộc. Hai vấn đề này có quan hệ hữu cơ với nhau. Nắm vững ngọn cờ

17


độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội tạo ra sức mạnh to lớn của dân tộc trong đấu tranh
cách mạng, giành thắng lợi.

- Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
Lý luận Mác - Lênin và thực tiễn cách mạng nước ta đã khẳng định một chân lý:
Nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Để phát huy sức mạnh vĩ đại của nhân dân,
sự lãnh đạo và toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng
chính đáng của nhân dân; đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân. Sức mạnh của
Đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân là nguy
cơ dẫn đến suy yếu và mất vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền và làm cho sự nghiệp
cách mạng bị tổn thất.
- Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn
dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế
Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lịch sử to lớn, lâu dài của dân tộc ta
đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng thành công, tạo nên nguồn sức mạnh
to lớn để giành thắng lợi. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc là độc lực chủ yếu để đẩy mạnh
công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm
2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức
mạnh quốc tế
Trong thời đại ngày nay, dưới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ,
toàn cầu hóa, quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng, các yếu tố bên trong và bên ngoài
có quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau. Sức mạnh dân tộc, sức mạnh trong nước là sức
mạnh tổng hợp của nhiều nguồn lực, trong đó đoàn kết toàn dân tộc, phát huy dân chủ,
xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực để
phát triển đất nước. Sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc tế trước hết là sức mạnh của quy
luật và xu thế phát triển không thể đảo ngược của lịch sử nhân loại; là sức mạnh của cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, của các thế lực cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
18


Trong mọi giai đoạn, mọi thời kỳ cách mạng, sức mạnh dân tộc, nguồn lực bên trong là
yếu tố quyết định, đồng thời được bổ sung và nhân lên khi kết hợp được với sức mạnh

thời đại và nguồn lực bên ngoài.
- Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách
mạng Việt Nam
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng nước ta. Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phải xây
dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng, đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế, đủ sức giải quyết các vấn
đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Muốn vậy, Đảng cần quán triệt những nội dung cơ bản
sau:
- Nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh.
- Không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức thực tiễn của
Đảng.
- Xây dựng đường lối đúng đắn trên cơ sở xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật
khách quan, đáp ứng yêu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân.
- Phòng, chống có hiệu quả những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan
liêu và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, Đảng viên.
Trong giai đoạn cách mạng mới, Đại hội X của Đảng đã xác định nhiệm vụ “Nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”, để “phát huy sức mạnh toàn dân tộc,
đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển”; phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, “thực hiện bằng được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”, sánh vai cùng các nước trên thế giới trong nhịp bước khẩn trương của
thời đại”.
19


20



KẾT LUẬN
Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh
đạo và rèn luyện. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thành công, xóa bỏ hoàn toàn chế độ thực dân phong kiến, lập nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam); đánh
thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước; tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và bảo vệ vững chắc
nền độc lập dân tộc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay đã khẳng định
một điều: Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổ chức, lãnh đạo và là nhân tố quyết định thắng
lợi của cách mạng Việt Nam.
Phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam đấu tranh để bảo vệ nền độc lập dân
tộc bắt đầu từ ngay từ năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Từ năm
1858 đến trước năm 1930 đã nổ ra hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh với
mục tiêu giành lại nền độc lập dân tộc. Tiêu biểu có thể kể đến là những cuộc chiến đấu
anh dũng của quân và dân ta dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu; khởi
nghĩa của Trương Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực... Không chỉ thế, đó còn là
các cuộc khởi nghĩa theo tiếng gọi “Cần Vương” của Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện
Thuật, Hoàng Hoa Thám...; các phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân...
Ngoài ra còn có cuộc khởi nghĩa của tiểu tư sản, trí thức trong Việt Nam Quốc dân Đảng
do Nguyễn Thái Học lãnh đạo... Những cuộc đấu tranh kể trên đều là những cuộc đấu
tranh vô cùng oanh liệt của nhân dân ta chống thực dân Pháp, tuy nhiên đều bị đàn áp tàn
bạo và thất bại. Nguyên nhân cơ bản của thất bại đó chính là do đường lối cứu nước chưa
đúng, chưa phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Chính vì thế, một yêu
cầu đã được đặt ra từ thực tiễn của phong trào yêu nước Việt Nam: tìm ra một con đường
cứu nước mới.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời cùng với chính sách khai thác thuộc địa triệt để
của thực dân Pháp đầu thế kỷ XX. Xã hội Việt Nam đã có những biến đổi lớn, hai giai cấp
21



mới ra đời là giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển
sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Xã hội Việt Nam tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản:
mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân
dân ta, chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến tay sai. Vì vậy, nhiệm vụ
chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến tay sai là gắn bó
với nhau, không thể tách rời nhau. Sự ra đời và ngày càng trưởng thành của giai cấp công
nhân Việt Nam mang trong mình chủ nghĩa yêu nước truyền thống cùng với ý thức giai
cấp là cơ sở để tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.
Lịch sử cách mạng Việt Nam cận, hiện đại đã chứng tỏ một điều rằng: không có
một tổ chức chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Trên thực tế, trong quá trình đấu tranh giai cấp và giữ chính quyền, có những lực
lượng chính trị tham gia cùng với Đảng, nhưng khi Cách mạng gặp khó khăn, họ đều
chùn bước, duy chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là trung thành với lợi ích của giai cấp vô
sản, của dân tộc, sẵn sàng chiến đấu và hy sinh vì lợi ích đó. Biết bao Đảng viên và quần
chúng của Đảng đã suốt đời phấn đấu, hy sinh vì lý tưởng cao cả, vì độc lập, tự do của Tổ
quốc và Chủ nghĩa Xã hội. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thắng
lợi của cách mạng Việt Nam.

22




NGUỒN TƯ LIỆU:

1. />
cua-%C3%B0ang-trong-cong-cuoc-doi-moi-va-phat-trien-dat-nuoc.html
2. />3. />%BFu-kh%C3%A1ch-quan-q-lu%E1%BA%ADt-ra-%C4%91%E1%BB%9Di-c
%E1%BB%A7a-%C4%91cs
4. />5. />6. />7. />

23



×