Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

VAI TRÒ CỦA VỐN VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.76 KB, 24 trang )

VAI TRÒ CỦA VỐN VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. NHỮNG NGHIỆP VỤ CƠ BẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Định nghĩa Ngân hàng Thương mại.
Lịch sử đã ghi nhận sự hình thành và phát triển của ngành Ngân hàng được
quyết định bởi quá trình phát triển của các quan hệ hàng hoá- tiền tệ. Đồng thời
cũng còn những yếu tố khác có ảnh hưởng quyết định đến cấu trúc và sự phát triển
của hệ thống ngân hàng; như chế độ pháp quyền, điều kiện chiến tranh và tình
trạng khủng hoảng kinh tế, tài chính...
Từ thời cổ đại, ở những nước có nền thương mại phát triển sớm đã xuất hiện
những nhóm thương nhân chuyên nghề kinh doanh các dịch vụ tiền tệ nhưng chưa
có một cơ cấu tổ chức nào được coi như một ngân hàng theo đúng chức danh của
nó. Trong nhiều thế kỷ của thời trung cổ, nghề kinh doanh này đã phải trải qua bao
nỗi thăng trầm bởi chiến tranh tàn khốc, không thể phát triển được. Phải cho đến
đầu thế kỷ thứ 12, khi chiến tranh đã dịu bớt, kinh tế hàng hoá đã có bước phát
triển, nhất là khu vực Tây Âu. Khi đó, một tổ chức được mệnh danh là ngân hàng
được thành lập ở Venise nước Ý vào năm 1171, tuy về thực chất chỉ là một tổ chức
tài chính được thiết lập để thực hiện sự tài trợ cho chiến tranh, nhưng nội dung
hoạt động của nó đã bao hàm cả nghiệp vụ ngân hàng.
Cho đến đầu thế kỷ 15, một số tổ chức kinh doanh tiền tệ được thành lập được
xem như những ngân hàng thực thụ: Ngân hàng Barcelone, Ngân hàng Valenee của
Tây Ban Nha. Những tổ chức này đã thực hiện các nghiệp vụ nhận tiền ký thác,
cấp tín dụng, chuyển ngân và làm các nghiệp vụ thu- chi tiền cho khách hàng với ý
nghĩa là những nghiệp vụ kinh doanh cơ bản.
Sự phát triển của Ngân hàng thương mại phải kể từ thời kỳ phục hưng, và đặc
biệt là từ khoảng thế kỷ 17 cho đến nay. Đây là thời kỳ kinh tế hàng hoá phát triển
nhanh chóng, mạnh mẽ, nền thương mại không ngừng mở rộng, các quan hệ hàng
hoá- tiền tệ phát triển bao trùm đời sống kinh tế- xã hội đã tạo ra những tiền đề
kinh tế cho sự hình thành và phát triển nghề Ngân hàng.
Ở Việt nam, trong bước chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần


theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp
luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, các hình thức sở hữu có thể
hỗn hợp đan xen với nhau hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Các doanh
nghiệp không phân biệt quan hệ sở hữu đều tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh
tranh với nhau, bình đẳng trước pháp luật. Theo hướng đó, nền kinh tế hàng hoá
phát triển tất yếu sẽ tạo ra những tiền đề cần thiết và đòi hỏi sự ra đời của nhiều
loại hình ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Từ năm 1986, hoà vào công cuộc đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế của đất nước theo sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, hệ
thống ngân hàng được tổ chức lại theo Nghị định 53/HĐBT được tách ra làm hai
cấp: Ngân hàng Nhà nuớc đảm nhận công tác phát hành tiền và điều tiết lưu thông
tiền tệ, còn chức năng kinh doanh được thực hiện bởi các Ngân hàng Thương mại.
Năm 1991, sự ra đời của các Ngân hàng Thương mại cổ phần cùng các Ngân
hàng Thương mại quốc doanh đã góp phần rất lớn vào công cuộc phát triển đất
nước. Luật “Tổ chức tín dụng” của Việt nam ban hành vào ngày 12/12/1997 đã
định nghĩa Ngân hàng Thương mại như sau:
“Ngân hàng Thương mại là một tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động ngân hàng là
một hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các
dịch vụ thanh toán”.
2. Những nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng Thương mại.
Ngân hàng Thương mại là một tổ chức tài chính trung gian, hoạt động kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng giống như
một doanh nghiệp thương mại, đều hướng đến mục đích cuối cùng là tối đa hoá lợi
nhuận. Ngân hàng Thương mại tìm kiếm lợi nhuận bằng cách đi vay và cho vay lại.
So với các doanh nghiệp thương mại dịch vụ khác thì hàng hoá của Ngân hàng
Thương mại là một loại hàng hoá đặc biệt, đó là tiền vốn. Giá cả của loại hàng hoá
này biểu hiện ra bên ngoài là các mức lãi suất huy động hoặc lãi suất cho vay, nó
chịu tác động bởi quan hệ cung - cầu vốn trên thị trường và trên cơ sở khoản lợi
nhuận đạt được khi đưa vốn vay vào sản xuất kinh doanh. Vì vậy lợi nhuận chủ

yếu của hoạt động ngân hàng sẽ là khoản chênh lệch giữa chi phí trả lãi huy động
với thu nhập từ lãi cho vay. Để có hàng hoá kinh doanh, ngân hàng phải đưa ra một
giá mua hợp lý cũng như đa dạng các hình thức huy động.
Đồng thời ngân hàng cũng đa dạng hoá các hình thức cho vay nhằm phân tán
giảm thiểu rủi ro. Với vị thế kinh doanh Ngân hàng Thương mại thực hiện các dịch
vụ trung gian hưởng hoa hồng. Ngày nay, hệ thống Ngân hàng Thương mại phát
triển mạnh mẽ, tham gia sâu rộng vào tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội. Sự đa dạng
và phong phú các nghiệp vụ kinh doanh đã làm cho Ngân hàng Thương mại trở
thành một tổ chức kinh doanh không thể thiếu trong tiến trình phát triển kinh tế.
2.1. Nghiệp vụ nhận tiền gửi:
Đây là một hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại. Ngân hàng nhận được
các khoản tiền gửi của khách hàng dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền
gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Ngân hàng nhận tiền gửi
của cá nhân, của tổ chức và các doanh nghiệp. Ngân hàng phải hoàn trả gốc và lãi
cho khách hàng khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu sử dụng đến rút tiền ở
ngân hàng.
2.2. Nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng:
Nguồn vốn huy động sau khi đã thực hiện nghiệp vụ ngân quỹ (nghiệp vụ liên
quan đến việc điều hành ngân quỹ của ngân hàng nhằm duy trì năng lực thanh toán
bình thường), sẽ được sử dụng để cho vay. Nghiệp vụ cho vay là nghiệp vụ đặc
trưng nhất của Ngân hàng Thương mại. Nó tạo ra hình thức tín dụng ngân hàng và
ngân hàng sẽ tiến hành phân phối có trọng điểm nguồn vốn đã hình thành trong
nghiệp vụ huy động, điều tiết vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, bổ sung vốn cho sản
xuất kinh doanh. Đối với ngân hàng, đây là nghiệp vụ quan trọng nhất, sử dụng
phần lớn nguồn vốn và tạo ra thu nhập chủ yếu.
Dựa vào tính chất và hình thức cho vay nghiệp vụ tín dụng được phân thành:
2.2.1. Căn cứ vào mục đích:
- Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng
bất động sản nhà ở, đất đai.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn

lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp.
- Thuê mua và các loại khác.
2.2.2. Căn cứ vào thời hạn cho vay.
- Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn dưới 12 tháng, chủ yếu được
sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các
doanh nghiệp.
- Cho vay trung hạn: Theo quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam thì loại cho vay này có thời hạn từ 1 đến 3 năm.
Tín dụng trung hạn thường sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến
hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất, xây dựng các dự án mới có quy
mô nhỏ với thời hạn thu hồi vốn nhanh.
- Cho vay dài hạn: Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 3 năm (Việt
nam).
Loại tín dụng này thường để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như: xây dựng nhà ở,
các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
2.2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
- Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc sự bảo lãnh của bên thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào sự uy tín của bản
thân khách hàng.
- Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng nhưng phải có
tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
2.2.4. Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng.
- Cho vay bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung
cấp bằng tiền. Đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng và được thực hiện
bằng các kỹ thuật như tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời vụ,...
- Cho vay bằng tài sản: là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và đa
dạng, ví dụ như tài trợ thuê mua.
2.2.5. Căn cứ vào phương pháp hoàn trả.
- Cho vay trả góp: là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi

theo định kỳ.
- Cho vay hoàn trả theo yêu cầu.
2.2.6. Ngoài các loại cho vay trên, ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ bảo
lãnh cho khách hàng bằng uy tín của mình. Đối với loại nghiệp vụ này, ngân hàng
không phải cung cấp tiền, nhưng khi người được bảo lãnh không thực hiện được
nghĩa vụ theo hợp đồng thì ngân hàng phải thay thế để thực hiện nghĩa vụ thanh
toán. Vì thế, nghiệp vụ này còn được gọi là tín dụng bằng chữ ký. Tín dụng bằng
chữ ký bao gồm: tín dụng chấp nhận, tín dụng chứng từ, bảo lãnh của ngân hàng.
2.3. Nghiệp vụ đầu tư :
Ngân hàng tham gia vào đầu tư, mua bán chứng khoán trên thị trường chứng
khoán nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận từ lợi tức chứng khoán và từ chêch lệch
thị giá chứng khoán mua bán trên thị trường.
Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện hùn vốn, liên doanh qua đó trực tiếp góp vốn
vào các doanh nghiệp để thành lập công ty, xí nghiệp mới.
2.4. Nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại.
Các ngân hàng có thể tham gia mua bán ngoại tệ, huy động vốn ngoại tệ nhằm
đáp ứng nhu cầu của đầu tư cho vay cũng như kiếm lời. Việc kinh doanh ngoại tệ
còn góp phần thúc đẩy trong công tác thanh toán quốc tế, tài trợ cho xuất nhập
khẩu,...
2.5. Các hoạt động dịch vụ khác của ngân hàng:
- Dịch vụ chuyển tiền: Ngân hàng theo sự uỷ nhiệm của khách hàng sẽ chuyển
tiền để đáp ứng nhu cầu chi dùng của họ. Có hai phương thức chuyển tiền là
chuyển tiền bằng điện và chuyển tiền bằng thư.
- Thu chi hộ tiền hàng: Theo những lệnh uỷ nhiệm thu hoặc uỷ nhiệm chi, ngân
hàng sẽ tiến hành trích tiền trên tài khoản tiền gửi của khách hàng chuyển trả tiền
hàng hoá, dịch vụ đã nhận hoặc thực hiện thu hộ tiền hàng khi nhận được chứng từ
khách hàng nhờ thu hộ...
- Nghiệp vụ uỷ thác: Là nghiệp vụ mà ngân hàng thực hiện theo sự uỷ thác của
khách hàng trong việc quản lý tài sản, chuyển giao tài sản thừa kế, bảo quản chứng
khoán, vàng bạc, giấy tờ có giá... để hưởng hoa hồng.

- Mua bán hộ: Theo sự uỷ nhiệm của khách hàng ngân hàng thực hiện nghiệp vụ
phát hành hộ trái phiếu hoặc chứng khoán cho các công ty, hoặc phát hành trái
khoán Chính phủ. Thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng có được một khoản thu
nhập dưới hình thức hoa hồng phát hành. Ngân hàng có thể tham gia mua bán
chứng khoán trên thị trường theo lệnh của khách hàng với tư cách là một trung
gian môi giới trên thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán.
II. VAI TRÒ CỦA VỐN ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Vốn của Ngân hàng thương mại.
1.1. Khái niệm về vốn.
Vốn của các ngân hàng thương mại phần lớn là các khoản tiền tệ tạm thời nhàn
rỗi trong sản xuất kinh doanh được gửi vào ngân hàng với những mục đích khác
nhau. Ngân hàng đóng vai trò tập trung nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để
chuyển đến các nhà đầu tư có nhu cầu về vốn, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vốn
và các hoạt động về huy động vốn quyết định trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Vốn đóng vai trò chi phối và
quyết định đối với việc thực hiện các chức năng của ngân hàng thương mại.
1.2. Cơ cấu vốn của ngân hàng thương mại.
1.2.1. Vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu là vốn tự có của ngân hàng, nó là vốn điều lệ khi ngân hàng
mới đi vào hoạt động và được bổ sung thường xuyên. Vốn điều lệ phải lớn hơn
hoặc bằng vốn pháp định do ngân hàng nhà nước trung ương quy định. Vốn điều lệ
quy định cho một ngân hàng sẽ tuỳ thuộc vào quy mô và hoạt động của nó. Tuỳ
theo loại hình ngân hàng mà vốn điều lệ được hình thành có thể khác nhau. Vốn
điều lệ của ngân hàng có nguồn gốc hình thành do ngân sách nhà nước cấp phát
ban đầu nếu là ngân hàng thương mại quốc doanh, còn nếu là ngân hàng thương
mại cổ phần thì sẽ do các cổ đông đóng góp.
Các quỹ dự trữ của ngân hàng: Được coi là nguồn vốn tự có và được bổ sung
hằng năm từ lợi nhuận ròng của ngân hàng. Theo khoản 1 điều 87 luật các tổ chức
tín dụng thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997 quy định về việc trích lập các quỹ
từ lợi nhuận, các ngân hàng thương mại phải tiến hành trích lập các quỹ:

- Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Được trích lập hằng năm theo tỷ lệ 5% trên
tổng lợi nhuận sau thuế hằng năm tới mức tối đa do Ngân hàng Nhà nước quy
định.
- Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro : Để dự phòng và bù đắp thiệt hại có nguy cơ ăn
mòn vốn do những rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, các ngân hàng
được trích từ lợi nhuận ròng hằng năm theo tỷ lệ 10% cho tới khi bằng 100% vốn
điều lệ.
Hai quỹ này bắt buộc phải trích lập tại các tổ chức tín dụng, không được dùng
các quỹ này để trả lợi tức cổ phần hoặc chuyển ra nước ngoài.
Mặt khác, với tư cách là một đơn vị kinh doanh, ngân hàng còn tiến hành trích
lập các quỹ từ lợi nhuận thu được:
- Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng.
- Quỹ phúc lợi, khen thưởng.
Các quỹ này tỷ lệ trích lập theo quyết định của Đại hội cổ đông hoặc theo chỉ
đạo của Nhà nước.
Vốn riêng của ngân hàng được dùng để mua sắm tài sản cố định, các phương
tiện cần thiết cho hoạt động kinh doanh ngân hàng, nhưng không quá 50% vốn tự
có, để tài trợ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng và được sử dụng để hùn vốn
liên doanh, mua cổ phần...
Vốn tự có và các quỹ so với tổng số vốn hoạt động của ngân hàng chỉ chiếm
một phần nhỏ.
1.2.2. Vốn huy động.
Các khoản tiền gửi loại này không thuộc sở hữu của ngân hàng nhưng ngân
hàng được quyền sử dụng đối với những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi này. Đây là
khoản vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn. Các hoạt động sử dụng
vốn tồn tại và phát triển được là nhờ nguồn vốn huy động này.
1.2.2.1. Vốn tiền gửi của khách hàng.
Đây là khoản vốn hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, chiếm tỷ trọng cao
nhất trong nguồn vốn. Tuy nhiên, một bộ phận đáng kể trong vốn tiền gửi này luôn
luôn biến động, do vậy khi sử dụng ngân hàng luôn phải dự trữ để đảm bảo khả

năng thanh toán, chi trả. Dựa vào yếu tố thời gian và tính chất của những khoản
tiền gửi, tiền gửi của khách hàng có hai loại: Tiền gửi kỳ hạn và tiền gửi không kỳ
hạn.
- Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi có thể rút ra theo yêu cầu của người gửi
tiền mà không tôn trọng một kỳ hạn ký thác nào. Đây là khoản tiền gửi thường
xuyên biến động ngân hàng không thể định ra kế hoạch sử dụng trước được mà
chỉ dựa vào kinh nghiệm quản lý, ngân hàng có thể tận dụng ở một mức độ cho
phép. Mục đích của người gửi tiền là sử dụng những dịch vụ trung gian thanh toán
của ngân hàng thương mại như giữ hộ, thu chi hộ,... Ngân hàng không phải trả lãi
hoặc có trả lãi nhưng với một mức lãi suất rất thấp chỉ mang tính chất tượng trưng.
Kinh nghiệm trong quản lý ngân hàng cho thấy mặc dù tài khoản tiền gửi không
kỳ hạn của từng khách hàng có biến động do khách hàng thường xuyên có những
khoản thu và những khoản chi, nhưng trên tài khoản tổng hợp luôn có số “dư có”
bình quân tương đối ổn định. Vì vậy ngân hàng có thể động viên những khoản vốn
tạm thời nhàn rỗi trên các tài khoản không kỳ hạn làm nguồn vốn kinh doanh.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi tiền chỉ
được rút ra khi đến thời hạn quy định. Đây là bộ phận tiền huy động mang tính
chất ổn định và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tiền huy động từ khách hàng. Ngân
hàng sử dụng chủ yếu để cho vay có kỳ hạn. Chính điểm thuận lợi này mà ngân
hàng phải trả lãi cao vì mục đích của người gửi tiền là lợi nhuận.
1.2.2.2. Vốn vay.
Ngoài việc huy động tiền gửi theo các hình thức truyền thống, ngân hàng
thương mại có thể bổ sung vốn hoạt động của mình bằng cách đi vay từ các tổ chức
và các tầng lớp dân cư thông qua phát hành trái phiếu hoặc kỳ phiếu ngân hàng,
nhưng phải được Ngân hàng Nhà nước chấp nhận, Kỳ phiếu ngân hàng được phát
hành rộng rãi. Những người mua kỳ phiếu ngân hàng sẽ trực tiếp cho ngân hàng
vay với lãi suất cố định thông báo trước. Các tờ giấy nhận nợ này sẽ được ngân
hàng thanh toán khi tới hạn ghi trên mặt kỳ phiếu. Ngoài ra ngân hàng thương mại
còn có thể vay ở Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức tái chiết khấu hoặc tái cầm
cố các thương phiếu chứng từ có giá. Vay của các ngân hàng thương mại, các tổ

chức tín dụng khác thông qua thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Ngân hàng thương
mại cũng có thể vay ở ngân hàng nước ngoài hoặc chi nhánh ngân hàng nước
ngoài. Vậy các ngân hàng thương mại đi vay khi nào?
- Ngân hàng vay để đáp ứng nhu cầu khả năng thanh khoản của ngân hàng.
Vì hoạt động chủ yếu và thường xuyên của ngân hàng là nhận tiền gửi và với
trách nhiệm hoàn trả cho khách hàng khi khách hàng có nhu cầu rút tiền để sử
dụng. Do vậy có những trường hợp số tiền dự trữ và số tiền mà ngân hàng nhận
được trước đó trong ngày ít hơn số tiền mà khách hàng rút ra thì ngân hàng sẽ gặp
khó khăn trong việc thanh toán tiền cho khách hàng, nghĩa là ngân hàng thiếu tiền
trả cho khách hàng.Vậy ngân hàng phải đi vay.
- Ngân hàng vay hộ cho khách hàng: Vì hoạt động cơ bản của ngân hàng là tài trợ
cho nền kinh tế nên khi có khách hàng có nhu cầu vay vốn ngân hàng và đảm bảo
các yêu cầu mà ngân hàng đề ra thì ngân hàng sẽ cho vay. Chẳng hạn: với những
khoản vay với số lượng lớn, thời gian dài mà ngân hàng lại không muốn dùng toàn
bộ số tiền mình có để đầu tư cho dự án này ( rủi ro cao) vì như thế sẽ mất đi toàn
bộ những cơ hội đầu tư khác. Vì vậy ngân hàng sẽ thay mặt khách hàng phát hành
trái phiếu nhằm thu gom tiền trong nền kinh tế để phục vụ cho dự án. Người ta chỉ
phát hành trái phiếu vừa đủ số tiền mà dự án cần dùng và trong một thời hạn bằng
thời gian tồn tại của dự án.
- Ngân hàng vay để cho vay: Hầu như toàn bộ số tiền trong lưu thông đã trở thành
tiền gửi tại các ngân hàng, nghĩa là các ngân hàng chia nhau nắm giữ lượng tiền
trong lưu thông. Để tăng lượng tiền gửi của mình, các ngân hàng thường tăng lãi
suất để thu hút các khoản tiền gửi ở các ngân hàng khác chảy về. Nhưng thực tế
khi một ngân hàng tăng lãi suất tiền gửi, để tránh sự chảy vốn các ngân hàng khác
cũng sẽ đồng loạt tăng lãi suất lên làm chi phí ngân hàng tăng lên mà lượng tiền
gửi lại thay đổi không đáng kể. Do vậy khi thiếu vốn để tài trợ cho các dự án mà
ngân hàng cho là có hiệu quả thì ngân hàng sẽ thực hiện chính sách đi vay. Do tính
chất hoạt động không đồng đều giữa các ngân hàng về huy động vốn và sử dụng
vốn nên những ngân hàng thiếu vốn có thể vay vốn ở những ngân hàng thừa vốn
chưa sử dụng hết. Mặt khác khi ngân hàng dự đoán được sự gia tăng về nhu cầu tín

×