Vai trò của vốn và hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
I. NHỮNG NGHIỆP VỤ CƠ BẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Định nghĩa Ngân hàng Thương mại.
Lịch sử đã ghi nhận sự hình thành và phát triển của ngành Ngân hàng được
quyết định bởi quá trình phát triển của các quan hệ hàng hoá- tiền tệ. Đồng
thời cũng còn những yếu tố khác có ảnh hưởng quyết định đến cấu trúc và sự
phát triển của hệ thống ngân hàng; như chế độ pháp quyền, điều kiện chiến
tranh và tình trạng khủng hoảng kinh tế, tài chính...
Từ thời cổ đại, ở những nước có nền thương mại phát triển sớm đã xuất
hiện những nhóm thương nhân chuyên nghề kinh doanh các dịch vụ tiền tệ
nhưng chưa có một cơ cấu tổ chức nào được coi như một ngân hàng theo đúng
chức danh của nó. Trong nhiều thế kỷ của thời trung cổ, nghề kinh doanh này
đã phải trải qua bao nỗi thăng trầm bởi chiến tranh tàn khốc, không thể phát
triển được. Phải cho đến đầu thế kỷ thứ 12, khi chiến tranh đã dịu bớt, kinh tế
hàng hoá đã có bước phát triển, nhất là khu vực Tây Âu. Khi đó, một tổ chức
được mệnh danh là ngân hàng được thành lập ở Venise nước Ý vào năm 1171,
tuy về thực chất chỉ là một tổ chức tài chính được thiết lập để thực hiện sự tài
trợ cho chiến tranh, nhưng nội dung hoạt động của nó đã bao hàm cả nghiệp
vụ ngân hàng.
Cho đến đầu thế kỷ 15, một số tổ chức kinh doanh tiền tệ được thành lập
được xem như những ngân hàng thực thụ: Ngân hàng Barcelone, Ngân hàng
Valenee của Tây Ban Nha. Những tổ chức này đã thực hiện các nghiệp vụ nhận
tiền ký thác, cấp tín dụng, chuyển ngân và làm các nghiệp vụ thu- chi tiền cho
khách hàng với ý nghĩa là những nghiệp vụ kinh doanh cơ bản.
Sự phát triển của Ngân hàng thương mại phải kể từ thời kỳ phục hưng, và
đặc biệt là từ khoảng thế kỷ 17 cho đến nay. Đây là thời kỳ kinh tế hàng hoá
phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ, nền thương mại không ngừng mở rộng, các
quan hệ hàng hoá- tiền tệ phát triển bao trùm đời sống kinh tế- xã hội đã tạo
ra những tiền đề kinh tế cho sự hình thành và phát triển nghề Ngân hàng.
Ở Việt nam, trong bước chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mọi người được tự do kinh doanh
theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, các hình
thức sở hữu có thể hỗn hợp đan xen với nhau hình thành các tổ chức kinh
doanh đa dạng. Các doanh nghiệp không phân biệt quan hệ sở hữu đều tự chủ
kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước pháp luật. Theo
hướng đó, nền kinh tế hàng hoá phát triển tất yếu sẽ tạo ra những tiền đề cần
thiết và đòi hỏi sự ra đời của nhiều loại hình ngân hàng và các tổ chức tín
dụng. Từ năm 1986, hoà vào công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của đất
nước theo sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, hệ thống ngân hàng được tổ
chức lại theo Nghị định 53/HĐBT được tách ra làm hai cấp: Ngân hàng Nhà
nuớc đảm nhận công tác phát hành tiền và điều tiết lưu thông tiền tệ, còn chức
năng kinh doanh được thực hiện bởi các Ngân hàng Thương mại.
Năm 1991, sự ra đời của các Ngân hàng Thương mại cổ phần cùng các
Ngân hàng Thương mại quốc doanh đã góp phần rất lớn vào công cuộc phát
triển đất nước. Luật “Tổ chức tín dụng” của Việt nam ban hành vào ngày
12/12/1997 đã định nghĩa Ngân hàng Thương mại như sau:
“Ngân hàng Thương mại là một tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động
ngân hàng là một hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội
dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
2. Những nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng Thương mại.
Ngân hàng Thương mại là một tổ chức tài chính trung gian, hoạt động kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng giống
như một doanh nghiệp thương mại, đều hướng đến mục đích cuối cùng là tối
đa hoá lợi nhuận. Ngân hàng Thương mại tìm kiếm lợi nhuận bằng cách đi vay
và cho vay lại. So với các doanh nghiệp thương mại dịch vụ khác thì hàng hoá
của Ngân hàng Thương mại là một loại hàng hoá đặc biệt, đó là tiền vốn. Giá
cả của loại hàng hoá này biểu hiện ra bên ngoài là các mức lãi suất huy động
hoặc lãi suất cho vay, nó chịu tác động bởi quan hệ cung - cầu vốn trên thị
trường và trên cơ sở khoản lợi nhuận đạt được khi đưa vốn vay vào sản xuất
kinh doanh. Vì vậy lợi nhuận chủ yếu của hoạt động ngân hàng sẽ là khoản
chênh lệch giữa chi phí trả lãi huy động với thu nhập từ lãi cho vay. Để có
hàng hoá kinh doanh, ngân hàng phải đưa ra một giá mua hợp lý cũng như đa
dạng các hình thức huy động.
Đồng thời ngân hàng cũng đa dạng hoá các hình thức cho vay nhằm phân
tán giảm thiểu rủi ro. Với vị thế kinh doanh Ngân hàng Thương mại thực hiện
các dịch vụ trung gian hưởng hoa hồng. Ngày nay, hệ thống Ngân hàng
Thương mại phát triển mạnh mẽ, tham gia sâu rộng vào tất cả các lĩnh vực
kinh tế xã hội. Sự đa dạng và phong phú các nghiệp vụ kinh doanh đã làm cho
Ngân hàng Thương mại trở thành một tổ chức kinh doanh không thể thiếu
trong tiến trình phát triển kinh tế.
2.1. Nghiệp vụ nhận tiền gửi:
Đây là một hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại. Ngân hàng nhận
được các khoản tiền gửi của khách hàng dưới các hình thức tiền gửi không kỳ
hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Ngân hàng
nhận tiền gửi của cá nhân, của tổ chức và các doanh nghiệp. Ngân hàng phải
hoàn trả gốc và lãi cho khách hàng khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu
cầu sử dụng đến rút tiền ở ngân hàng.
2.2. Nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng:
Nguồn vốn huy động sau khi đã thực hiện nghiệp vụ ngân quỹ (nghiệp vụ
liên quan đến việc điều hành ngân quỹ của ngân hàng nhằm duy trì năng lực
thanh toán bình thường), sẽ được sử dụng để cho vay. Nghiệp vụ cho vay là
nghiệp vụ đặc trưng nhất của Ngân hàng Thương mại. Nó tạo ra hình thức tín
dụng ngân hàng và ngân hàng sẽ tiến hành phân phối có trọng điểm nguồn vốn
đã hình thành trong nghiệp vụ huy động, điều tiết vốn từ nơi thừa đến nơi
thiếu, bổ sung vốn cho sản xuất kinh doanh. Đối với ngân hàng, đây là nghiệp
vụ quan trọng nhất, sử dụng phần lớn nguồn vốn và tạo ra thu nhập chủ yếu.
Dựa vào tính chất và hình thức cho vay nghiệp vụ tín dụng được phân
thành:
2.2.1. Căn cứ vào mục đích:
- Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản nhà ở, đất đai.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung
vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và
dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp.
- Thuê mua và các loại khác.
2.2.2. Căn cứ vào thời hạn cho vay.
- Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn dưới 12 tháng, chủ yếu
được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động và các nhu cầu chi tiêu ngắn
hạn của các doanh nghiệp.
- Cho vay trung hạn: Theo quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam thì loại cho vay này có thời hạn từ 1 đến 3 năm.
Tín dụng trung hạn thường sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải
tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất, xây dựng các dự án
mới có quy mô nhỏ với thời hạn thu hồi vốn nhanh.
- Cho vay dài hạn: Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 3 năm
(Việt nam).
Loại tín dụng này thường để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như: xây dựng
nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp
mới.
2.2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
- Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc sự bảo lãnh của bên thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào sự uy tín của
bản thân khách hàng.
- Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng nhưng phải
có tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
2.2.4. Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng.
- Cho vay bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được
cung cấp bằng tiền. Đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng và được
thực hiện bằng các kỹ thuật như tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời
vụ,...
- Cho vay bằng tài sản: là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và đa
dạng, ví dụ như tài trợ thuê mua.
2.2.5. Căn cứ vào phương pháp hoàn trả.
- Cho vay trả góp: là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi
theo định kỳ.
- Cho vay hoàn trả theo yêu cầu.
2.2.6. Ngoài các loại cho vay trên, ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ bảo
lãnh cho khách hàng bằng uy tín của mình. Đối với loại nghiệp vụ này, ngân
hàng không phải cung cấp tiền, nhưng khi người được bảo lãnh không thực
hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng thì ngân hàng phải thay thế để thực hiện
nghĩa vụ thanh toán. Vì thế, nghiệp vụ này còn được gọi là tín dụng bằng chữ
ký. Tín dụng bằng chữ ký bao gồm: tín dụng chấp nhận, tín dụng chứng từ, bảo
lãnh của ngân hàng.
2.3. Nghiệp vụ đầu tư :
Ngân hàng tham gia vào đầu tư, mua bán chứng khoán trên thị trường
chứng khoán nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận từ lợi tức chứng khoán và từ
chêch lệch thị giá chứng khoán mua bán trên thị trường.
Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện hùn vốn, liên doanh qua đó trực tiếp góp
vốn vào các doanh nghiệp để thành lập công ty, xí nghiệp mới.
2.4. Nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại.
Các ngân hàng có thể tham gia mua bán ngoại tệ, huy động vốn ngoại tệ
nhằm đáp ứng nhu cầu của đầu tư cho vay cũng như kiếm lời. Việc kinh doanh
ngoại tệ còn góp phần thúc đẩy trong công tác thanh toán quốc tế, tài trợ cho
xuất nhập khẩu,...
2.5. Các hoạt động dịch vụ khác của ngân hàng:
- Dịch vụ chuyển tiền: Ngân hàng theo sự uỷ nhiệm của khách hàng sẽ
chuyển tiền để đáp ứng nhu cầu chi dùng của họ. Có hai phương thức chuyển
tiền là chuyển tiền bằng điện và chuyển tiền bằng thư.
- Thu chi hộ tiền hàng: Theo những lệnh uỷ nhiệm thu hoặc uỷ nhiệm chi,
ngân hàng sẽ tiến hành trích tiền trên tài khoản tiền gửi của khách hàng
chuyển trả tiền hàng hoá, dịch vụ đã nhận hoặc thực hiện thu hộ tiền hàng khi
nhận được chứng từ khách hàng nhờ thu hộ...
- Nghiệp vụ uỷ thác: Là nghiệp vụ mà ngân hàng thực hiện theo sự uỷ thác
của khách hàng trong việc quản lý tài sản, chuyển giao tài sản thừa kế, bảo
quản chứng khoán, vàng bạc, giấy tờ có giá... để hưởng hoa hồng.
- Mua bán hộ: Theo sự uỷ nhiệm của khách hàng ngân hàng thực hiện
nghiệp vụ phát hành hộ trái phiếu hoặc chứng khoán cho các công ty, hoặc
phát hành trái khoán Chính phủ. Thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng có được
một khoản thu nhập dưới hình thức hoa hồng phát hành. Ngân hàng có thể
tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường theo lệnh của khách hàng với
tư cách là một trung gian môi giới trên thị trường tiền tệ và thị trường chứng
khoán.
II. VAI TRÒ CỦA VỐN ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Vốn của Ngân hàng thương mại.
1.1. Khái niệm về vốn.
Vốn của các ngân hàng thương mại phần lớn là các khoản tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi trong sản xuất kinh doanh được gửi vào ngân hàng với những mục
đích khác nhau. Ngân hàng đóng vai trò tập trung nguồn vốn nhàn rỗi trong
nền kinh tế để chuyển đến các nhà đầu tư có nhu cầu về vốn, thúc đẩy nền kinh
tế phát triển. Vốn và các hoạt động về huy động vốn quyết định trực tiếp đến
sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại.
Vốn đóng vai trò chi phối và quyết định đối với việc thực hiện các chức năng
của ngân hàng thương mại.
1.2. Cơ cấu vốn của ngân hàng thương mại.
1.2.1. Vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu là vốn tự có của ngân hàng, nó là vốn điều lệ khi ngân hàng
mới đi vào hoạt động và được bổ sung thường xuyên. Vốn điều lệ phải lớn hơn
hoặc bằng vốn pháp định do ngân hàng nhà nước trung ương quy định. Vốn
điều lệ quy định cho một ngân hàng sẽ tuỳ thuộc vào quy mô và hoạt động của
nó. Tuỳ theo loại hình ngân hàng mà vốn điều lệ được hình thành có thể khác
nhau. Vốn điều lệ của ngân hàng có nguồn gốc hình thành do ngân sách nhà
nước cấp phát ban đầu nếu là ngân hàng thương mại quốc doanh, còn nếu là
ngân hàng thương mại cổ phần thì sẽ do các cổ đông đóng góp.
Các quỹ dự trữ của ngân hàng: Được coi là nguồn vốn tự có và được bổ
sung hằng năm từ lợi nhuận ròng của ngân hàng. Theo khoản 1 điều 87 luật
các tổ chức tín dụng thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997 quy định về việc
trích lập các quỹ từ lợi nhuận, các ngân hàng thương mại phải tiến hành trích
lập các quỹ:
- Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Được trích lập hằng năm theo tỷ lệ 5%
trên tổng lợi nhuận sau thuế hằng năm tới mức tối đa do Ngân hàng Nhà nước
quy định.
- Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro : Để dự phòng và bù đắp thiệt hại có nguy cơ
ăn mòn vốn do những rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, các ngân
hàng được trích từ lợi nhuận ròng hằng năm theo tỷ lệ 10% cho tới khi bằng
100% vốn điều lệ.
Hai quỹ này bắt buộc phải trích lập tại các tổ chức tín dụng, không được
dùng các quỹ này để trả lợi tức cổ phần hoặc chuyển ra nước ngoài.
Mặt khác, với tư cách là một đơn vị kinh doanh, ngân hàng còn tiến hành
trích lập các quỹ từ lợi nhuận thu được:
- Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng.
- Quỹ phúc lợi, khen thưởng.
Các quỹ này tỷ lệ trích lập theo quyết định của Đại hội cổ đông hoặc theo chỉ
đạo của Nhà nước.
Vốn riêng của ngân hàng được dùng để mua sắm tài sản cố định, các
phương tiện cần thiết cho hoạt động kinh doanh ngân hàng, nhưng không quá
50% vốn tự có, để tài trợ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng và được sử
dụng để hùn vốn liên doanh, mua cổ phần...
Vốn tự có và các quỹ so với tổng số vốn hoạt động của ngân hàng chỉ chiếm
một phần nhỏ.
1.2.2. Vốn huy động.
Các khoản tiền gửi loại này không thuộc sở hữu của ngân hàng nhưng ngân
hàng được quyền sử dụng đối với những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi này.
Đây là khoản vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn. Các hoạt
động sử dụng vốn tồn tại và phát triển được là nhờ nguồn vốn huy động này.
1.2.2.1. Vốn tiền gửi của khách hàng.
Đây là khoản vốn hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, chiếm tỷ
trọng cao nhất trong nguồn vốn. Tuy nhiên, một bộ phận đáng kể trong vốn
tiền gửi này luôn luôn biến động, do vậy khi sử dụng ngân hàng luôn phải dự
trữ để đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả. Dựa vào yếu tố thời gian và tính
chất của những khoản tiền gửi, tiền gửi của khách hàng có hai loại: Tiền gửi
kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn.
- Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi có thể rút ra theo yêu cầu của
người gửi tiền mà không tôn trọng một kỳ hạn ký thác nào. Đây là khoản tiền
gửi thường xuyên biến động ngân hàng không thể định ra kế hoạch sử dụng
trước được mà chỉ dựa vào kinh nghiệm quản lý, ngân hàng có thể tận dụng ở
một mức độ cho phép. Mục đích của người gửi tiền là sử dụng những dịch vụ
trung gian thanh toán của ngân hàng thương mại như giữ hộ, thu chi hộ,...
Ngân hàng không phải trả lãi hoặc có trả lãi nhưng với một mức lãi suất rất
thấp chỉ mang tính chất tượng trưng. Kinh nghiệm trong quản lý ngân hàng
cho thấy mặc dù tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của từng khách hàng có biến
động do khách hàng thường xuyên có những khoản thu và những khoản chi,
nhưng trên tài khoản tổng hợp luôn có số “dư có” bình quân tương đối ổn
định. Vì vậy ngân hàng có thể động viên những khoản vốn tạm thời nhàn rỗi
trên các tài khoản không kỳ hạn làm nguồn vốn kinh doanh.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi tiền
chỉ được rút ra khi đến thời hạn quy định. Đây là bộ phận tiền huy động mang
tính chất ổn định và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tiền huy động từ khách
hàng. Ngân hàng sử dụng chủ yếu để cho vay có kỳ hạn. Chính điểm thuận lợi
này mà ngân hàng phải trả lãi cao vì mục đích của người gửi tiền là lợi
nhuận.
1.2.2.2. Vốn vay.
Ngoài việc huy động tiền gửi theo các hình thức truyền thống, ngân hàng
thương mại có thể bổ sung vốn hoạt động của mình bằng cách đi vay từ các tổ
chức và các tầng lớp dân cư thông qua phát hành trái phiếu hoặc kỳ phiếu
ngân hàng, nhưng phải được Ngân hàng Nhà nước chấp nhận, Kỳ phiếu ngân
hàng được phát hành rộng rãi. Những người mua kỳ phiếu ngân hàng sẽ trực
tiếp cho ngân hàng vay với lãi suất cố định thông báo trước. Các tờ giấy nhận
nợ này sẽ được ngân hàng thanh toán khi tới hạn ghi trên mặt kỳ phiếu. Ngoài
ra ngân hàng thương mại còn có thể vay ở Ngân hàng Nhà nước dưới hình
thức tái chiết khấu hoặc tái cầm cố các thương phiếu chứng từ có giá. Vay của
các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác thông qua thị trường
tiền tệ liên ngân hàng. Ngân hàng thương mại cũng có thể vay ở ngân hàng
nước ngoài hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Vậy các ngân hàng thương
mại đi vay khi nào?
- Ngân hàng vay để đáp ứng nhu cầu khả năng thanh khoản của ngân hàng.
Vì hoạt động chủ yếu và thường xuyên của ngân hàng là nhận tiền gửi và
với trách nhiệm hoàn trả cho khách hàng khi khách hàng có nhu cầu rút tiền
để sử dụng. Do vậy có những trường hợp số tiền dự trữ và số tiền mà ngân
hàng nhận được trước đó trong ngày ít hơn số tiền mà khách hàng rút ra thì
ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán tiền cho khách hàng, nghĩa
là ngân hàng thiếu tiền trả cho khách hàng.Vậy ngân hàng phải đi vay.
- Ngân hàng vay hộ cho khách hàng: Vì hoạt động cơ bản của ngân hàng là
tài trợ cho nền kinh tế nên khi có khách hàng có nhu cầu vay vốn ngân hàng và
đảm bảo các yêu cầu mà ngân hàng đề ra thì ngân hàng sẽ cho vay. Chẳng hạn:
với những khoản vay với số lượng lớn, thời gian dài mà ngân hàng lại không
muốn dùng toàn bộ số tiền mình có để đầu tư cho dự án này ( rủi ro cao) vì
như thế sẽ mất đi toàn bộ những cơ hội đầu tư khác. Vì vậy ngân hàng sẽ thay
mặt khách hàng phát hành trái phiếu nhằm thu gom tiền trong nền kinh tế để
phục vụ cho dự án. Người ta chỉ phát hành trái phiếu vừa đủ số tiền mà dự án
cần dùng và trong một thời hạn bằng thời gian tồn tại của dự án.
- Ngân hàng vay để cho vay: Hầu như toàn bộ số tiền trong lưu thông đã trở
thành tiền gửi tại các ngân hàng, nghĩa là các ngân hàng chia nhau nắm giữ
lượng tiền trong lưu thông. Để tăng lượng tiền gửi của mình, các ngân hàng
thường tăng lãi suất để thu hút các khoản tiền gửi ở các ngân hàng khác chảy
về. Nhưng thực tế khi một ngân hàng tăng lãi suất tiền gửi, để tránh sự chảy
vốn các ngân hàng khác cũng sẽ đồng loạt tăng lãi suất lên làm chi phí ngân
hàng tăng lên mà lượng tiền gửi lại thay đổi không đáng kể. Do vậy khi thiếu
vốn để tài trợ cho các dự án mà ngân hàng cho là có hiệu quả thì ngân hàng sẽ
thực hiện chính sách đi vay. Do tính chất hoạt động không đồng đều giữa các
ngân hàng về huy động vốn và sử dụng vốn nên những ngân hàng thiếu vốn có
thể vay vốn ở những ngân hàng thừa vốn chưa sử dụng hết. Mặt khác khi ngân
hàng dự đoán được sự gia tăng về nhu cầu tín dụng trong tương lai mà nguồn
vốn thì có xu hướng tăng không đáp ứng đủ nhu cầu vốn sử dụng trong thời kỳ
tới thì ngân hàng cũng sẽ đi vay.
- Ngân hàng vay để giảm chi phí nguồn tiền cho giai đoạn sau: Vào cuối kỳ
hạch toán, nếu các chủ ngân hàng dự tính được thu nhập của kỳ đó lớn nghĩa
là kỳ đó họ phải chịu thuế nhiều. Nếu họ cũng dự tính được kỳ sau họ sẽ có
những khoản chi phí lớn thì họ có thể phát hành kỳ phiếu ngắn hạn trả lãi
trước nhằm tăng chi phí cho kỳ này và giảm chi phí cho kỳ sau.
1.2.2.3. Vốn tiếp nhận.
Ngày nay, hệ thống ngân hàng thương mại được tổ chức theo mô hình của
tổng công ty và các công ty con gồm ngân hàng mẹ và hệ thống các chi nhánh
ngân hàng trực thuộc. Có một phương thức huy động vốn được sử dụng rất