Tải bản đầy đủ (.pdf) (209 trang)

Luận án Tiến sĩ Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước: Công tác tuyên giáo của Đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 209 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ VĂN HIẾU

CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CỦA ĐẢNG BỘ XÃ
Ở CÁC TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

HÀ NỘI - 2020


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ VĂN HIẾU

CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CỦA ĐẢNG BỘ XÃ
Ở CÁC TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

Mã số: 62 31 02 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS Trương Thị Thông

HÀ NỘI - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận án
này là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích
dẫn đầy đủ theo quy định.
TÁC GIẢ

Lê Văn Hiếu


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

7

1.1. Các công trình khoa học trong nước

7

1.2. Các công trình khoa học nước ngoài

20


1.3. Khái quát kết quả của những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
và những vấn đề luận án sẽ tập trung giải quyết

25

CHƯƠNG 2: CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CỦA ĐẢNG BỘ XÃ Ở CÁC
TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

29

2.1. Khái quát về các tỉnh biên giới phía Bắc và đảng bộ xã các tỉnh biên giới
phía Bắc

29

2.2. Công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc khái niệm, nội dung, phương thức, vai trò

48

CHƯƠNG 3: CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CỦA ĐẢNG BỘ XÃ Ở CÁC
TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ
KINH NGHIỆM

64

3.1. Thực trạng công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc

64


3.2. Nguyên nhân và kinh nghiệm

115

CHƯƠNG 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG
CƯỜNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CỦA ĐẢNG BỘ XÃ Ở CÁC TỈNH
BIÊN GIỚI PHÍA BẮC ĐẾN NĂM 2030

127

4.1. Phương hướng tăng cường công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các
tỉnh biên giới phía Bắc đến năm 2030

127

4.2. Những giải pháp tăng cường công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các
tỉnh biên giới phía Bắc đến năm 2030

141

KẾT LUẬN

166

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

167

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


168

PHỤ LỤC

183


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

BCV, TTV

Báo cáo viên, tuyên truyền viên

BTVTU

Ban Thường vụ Tỉnh ủy

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CTTT

Công tác tư tưởng


CTTG

Công tác tuyên giáo

HĐND

Hội đồng nhân dân

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

TCCSĐ

Tổ chức cơ sở đảng

UBND

Ủy ban nhân dân

WTO

Tổ chức Thương mại Thế giới


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Trang
Sơ đồ 2.1: Mô hình ban tuyên vận đảng ủy xã


53

Sơ đồ 2.2: Mô hình ban tuyên giáo đảng ủy xã

55


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ thực tiễn
xây dựng Đảng, lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và tham khảo
kinh nghiệm của các Đảng Cộng sản trên thế giới, Đảng khẳng định, để Đảng
vững mạnh phải xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức,
trong đó xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng là nội dung quan trọng định hướng,
soi đường, dẫn lối cho mọi hoạt động của Đảng; trong công tác tư tưởng (CTTT)
thì công tác lý luận, công tác tuyên giáo (CTTG) có vai trò đặc biệt quan trọng.
Đúng như C.Mác đã chỉ rõ: “Lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất một khi
nó thâm nhập vào quần chúng” [117, tr.25]. V.I.Lênin đã từng khẳng định:
“Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng [108,
tr.30]; chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng
làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong” [107, tr.32], Đảng Cộng sản không chỉ nắm
vững lý luận tiên phong, mà còn phải trang bị cho quần chúng nhân dân lý luận
tiên phong đó. Với vai trò như vậy, CTTG có ảnh hưởng rất lớn đến sự thành bại
của cách mạng.
Nhận thức sâu sắc vai trò, tầm quan trọng CTTT, lý luận, trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã quan tâm lãnh đạo và tổ chức thực hiện có hiệu quả
công tác xây dựng Đảng nói chung, CTTG nói riêng, góp phần to lớn vào thắng lợi
chung của cách mạng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững

chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trước yêu cầu, nhiệm vụ cách
mạng trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH) đất nước, công tác xây dựng Đảng nói chung, CTTG của Đảng nói riêng
trong những năm qua còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém như Văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XII đã khẳng định:
“Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận chưa cao. Chậm khắc
phục có hiệu quả những hạn chế của công tác tư tưởng như thiếu sắc bén,
chưa thuyết phục. Đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hoà


2

bình” của các thế lực thù địch, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” còn bị động, hiệu quả chưa cao. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới. Việc triển khai
thực hiện nội dung các nghị quyết, chỉ thị, chủ trương của Đảng về rèn
luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, nâng cao năng lực, trình độ của cán
bộ, đảng viên chưa thực sự tích cực, đồng bộ, thường xuyên, một số nơi
thực hiện chưa nghiêm túc...” [73, tr.127].
Để khắc phục hiệu quả những hạn chế, yếu kém trên đây, đòi hỏi sự quan
tâm của Đảng, của toàn hệ thống chính trị và sự nỗ lực của hệ thống tuyên giáo từ
Trung ương đến cơ sở đóng một vai trò quan trọng vào thành công của công tác xây
dựng Đảng nói chung, CTTG của Đảng nói riêng.
Đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc có vị trí rất quan trọng của đất nước
cả về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh quốc gia - là “phên dậu” của đất nước ở
vùng biên giới, biên cương Tổ quốc nên Đảng phải thường xuyên quan tâm lãnh
đạo xây dựng các tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ), chính quyền và hệ thống chính trị
nơi đây trong sạch, vững mạnh, trong đó cần quan tâm làm tốt CTTG trong giai
đoạn cách mạng hiện nay; bởi vì CTTG là lĩnh vực trọng yếu của công tác xây dựng
Đảng về chính trị, tư tưởng, góp phần quan trọng vào việc hình thành cương lĩnh,

đường lối chính trị đúng đắn của Đảng; truyền bá hệ tư tưởng, chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho quần chúng nhân dân; phát
huy tinh thần yêu nước, tính sáng tạo của quần chúng nhân dân nhằm biến chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thành phong trào hành động
cách mạng. Bên cạnh đó, CTTG còn thể hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với các lĩnh
vực văn hóa, văn nghệ và khoa giáo, đảm bảo phát triển các lĩnh vực đó theo đúng
cương lĩnh, đường lối của Đảng trong từng thời kỳ. Chính vì vậy, yêu cầu cấp thiết
trước hết là phải củng cố, xây dựng TCCSĐ trong sạch, vững mạnh, trong đó
CTTG ở cơ sở có vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xây dựng TCCSĐ
trong sạch, vững mạnh.


3

Trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường;
tình hình trong nước, trong các tỉnh đặt ra nhiều khó khăn thách thức. Chính vì vậy,
đặt ra yêu cầu và nhiệm vụ của các đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc là lãnh
đạo nhân dân thực hiện thắng lợi mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
và pháp luật của Nhà nước. Trong đó, nổi bật là việc lãnh đạo nhân dân tiến hành
đường lối CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở các tỉnh biên giới phía Bắc; lãnh
đạo nhân dân thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn
mới; lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia; đấu tranh
chống lại hoạt động buôn lậu, buôn bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới; lãnh đạo đấu
tranh chống lại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.... Tình hình
thực tiễn đặt ra yêu cầu phải tăng cường CTTG của đảng bộ xã, CTTG phải đổi mới
nội dung, phương thức cho sát tình hình thực tiễn, phù hợp từng đối tượng cụ thể.
Bên cạnh đó, xây dựng đội ngũ cán bộ tuyên giáo có bản lĩnh chính trị vững vàng,
tâm huyết, trách nhiệm với công việc, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ
chính trị của địa phương.
Tuy nhiên, so với yêu cầu và nhiệm vụ công cuộc đổi mới và bảo vệ Tổ quốc

những năm tới, CTTG của các đảng bộ xã còn nhiều hạn chế, bất cập, nhất là sự
lúng túng trong nội dung, phương thức tiến hành CTTG; cơ cấu tổ chức bộ máy ban
tuyên giáo; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tuyên giáo... và hệ quả là trong việc thực hiện
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước có mặt còn
chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Chính vì vậy, trong quá trình đẩy
mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, yêu cầu bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ... ở các tỉnh biên giới phía Bắc trong giai đoạn mới
bên cạnh những thuận lợi thì vẫn còn không ít những khó khăn, thách thức đòi hỏi
các Đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc phải tăng cường hơn nữa CTTG.
Với cách tiếp cận trên, tác giả chọn đề tài “Công tác tuyên giáo của đảng bộ
xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ,
chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước.


4

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về CTTG của đảng
bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc, luận án đề xuất phương hướng và các giải
pháp khả thi tăng cường CTTG của đảng bộ xã các tỉnh biên giới phía Bắc
đến năm 2030.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, tổng quan các công trình khoa học tiêu biểu trong nước và nước
ngoài liên quan trực tiếp đến đề tài luận án; chỉ ra những kết quả, xác định những
vấn đề luận án kế thừa và tiếp tục nghiên cứu.
Hai là, làm rõ những vấn đề lý luận về CTTG của đảng bộ xã ở các tỉnh biên
giới phía Bắc gồm khái niệm, vị trí, vai trò, đặc điểm, nội dung, phương thức tiến
hành CTTG…
Ba là, khảo sát, đánh giá thực trạng CTTG của đảng bộ xã ở các tỉnh biên

giới phía Bắc, chỉ rõ những ưu, khuyết điểm, nguyên nhân, kinh nghiệm.
Bốn là, đề xuất phương hướng và những giải pháp tăng cường CTTG của
đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc đến năm 2030.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là CTTG của đảng bộ xã ở các tỉnh biên
giới phía Bắc giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu các hoạt động
CTTG của đảng bộ xã các tỉnh biên giới phía Bắc giai đoạn hiện nay.
- Về thời gian khảo sát: Luận án tiến hành khảo sát, đánh giá CTTG của đảng
bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc từ năm 2010 đến nay, phương hướng, giải pháp
đề xuất có giá trị đến năm 2030.
- Về không gian nghiên cứu: Luận án tiến hành khảo sát CTTG tại 5 tỉnh Lào
Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh với tổng số 815 xã.


5

4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương và đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam về CTTG được thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết đại hội Đảng, nghị
quyết các hội nghị Trung ương…
4.2. Cơ sở thực tiễn
- Cơ sở thực tiễn của luận án là các báo cáo tổng kết CTTG từ năm 2010
đến nay.
- Kết quả khảo sát thực trạng CTTG của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía
Bắc từ năm 2010 đến nay.

4.3. Phương pháp nghiên cứu
- Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về CTTG.
- Luận án sử dụng các phương pháp cụ thể như phương pháp lịch sử, logic,
phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học, trực tiếp
trao đổi…
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Điểm mới của luận án được thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
Một là, luận án làm rõ đặc điểm chủ thể lãnh đạo CTTG của đảng bộ xã ở
các tỉnh biên giới phía Bắc.
Hai là, luận án đưa ra khái niệm CTTG của đảng bộ xã ở các tỉnh biên
giới phía Bắc.
Ba là, luận án rút ra được một số kinh nghiệm CTTG của đảng bộ xã ở các
tỉnh biên giới phía Bắc
Bốn là, luận án đề xuất những giải pháp tăng cường CTTG của đảng bộ xã ở
các tỉnh biên giới phía Bắc đến năm 2030.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Kết quả luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học - thực tiễn cho việc
tăng cường CTTG của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc.


6

- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp
ủy đảng, nhất là ở cơ sở.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, học tập
và giảng dạy tại các trường chính trị tỉnh, thành phố, trung tâm bồi dưỡng chính trị
cấp huyện.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội

dung của luận án gồm 4 chương, 9 tiết.


7

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC TRONG NƯỚC

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về xây dựng tổ chức đảng
Luận án tiến sĩ Lịch sử, “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng nông thôn vùng cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước” của tác giả Nguyễn Đức Ái [1]. Luận án góp phần hệ thống
hóa các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng về vị trí và vai trò của TCCSĐ; những nội dung cơ bản của CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn; đặc điểm, vai trò của các TCCSĐ nông thôn vùng cao phía
Bắc thuộc 3 tỉnh Cao Bằng, Sơn La và Lai Châu. Đồng thời, luận án chỉ ra các giải
pháp tương đối toàn diện và có tính khả thi nhằm nâng cao khả năng lãnh đạo, sức
chiến TCCSĐ nông thôn vùng cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước.
Đề tài khoa học cấp Bộ “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng và chất lượng đảng viên” của tác giả Nguyễn Ngọc Thịnh [147].
Đề tài luận giải những nội dung về mặt lý luận của TCCSĐ và đảng viên như khái
niệm TCCSĐ, đảng viên; chức năng, nhiệm vụ, vị trí và vai trò... Trên cơ sở nghiên
cứu thực tế, nhóm tác giả đề tài đã nêu những ưu điểm, hạn chế liên quan đến
TCCSĐ, đảng viên, nguyên nhân của thực trạng, trong đó chủ yếu là do nhận thức
về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và chất lượng đội ngũ đảng viên
chưa cao. Đề tài nêu ra những giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của TCCSĐ và
chất lượng đội ngũ đảng viên. Những nội dung trên có giá trị tham khảo cho nghiên

cứu sinh trong việc đề ra những giải pháp nâng cao chất lượng các đảng bộ xã.
Đề tài khoa học cấp Bộ “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng cấp xã ở các tỉnh miền núi Tây Bắc nước ta - Thực trạng và giải
pháp” của tác giả Nguyễn Việt Phương [139]. Đề tài khẳng định TCCSĐ ở cơ sở
có vị trí, vai trò và tầm quan trọng trong việc lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ
chính trị ở địa phương, nhất là đối với các tỉnh miền núi ở nước ta. Trên cơ sở


8

đánh giá thực trạng ưu điểm, hạn chế về năng lực lãnh đạo của TCCSĐ ở cấp xã,
đề tài đã nêu ra những giải pháp tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của TCCSĐ cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc.
Công trình “Xây dựng Đảng Cộng sản Việt nam trong sạch, vững mạnh
trong tình hình mới, thực tiễn và bài học kinh nghiệm” của Hội đồng lý luận Trung
ương [96]. Bài viết nêu lên bốn nhóm giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của Đảng, trong đó có nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính trị,
tư tưởng. Cốt lõi của nhóm giải pháp này là tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nhằm nâng cao khả năng nhận thức, bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên; đấu tranh làm thất bại âm mưu
và hoạt động “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch, phòng chống “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng. Giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng, tạo sự
đồng thuận trong xã hội.
Cuốn sách “Nâng cao chất lượng đảng bộ xã trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn” của tác giả Dương Trung Ý
[178]. Nội dung cuốn sách đã khẳng định CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là
nhiệm vụ hết sức quan trọng góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
nhân dân, đóng góp vào thành công chung của đường lối CNH, HĐH đất nước. Tác
giả khẳng định, đảng bộ xã có vai trò rất quan trọng trong hệ thống tổ chức của
Đảng, cấp xã là nơi trực tiếp thực hiện và vận dụng đúng đắn mọi chủ trương của

Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Tác giả đã làm rõ vị trí, vai trò của xã và đảng bộ xã;
chất lượng đảng bộ xã - Quan niệm và tiêu chí đánh giá; thực trạng, nguyên nhân và
kinh nghiệm; tác giả đề ra phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao chất
lượng các đảng bộ xã.
Công trình “Tình hình mới và những vấn đề đang đặt ra trong công tác xây
dựng Đảng ở Việt Nam - Phương hướng và giải pháp” của tác giả Tạ Ngọc Tấn.
Tác giả nhấn mạnh để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đáp
ứng yêu cầu của tình hình, thì cần phải “nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
tư tưởng, lý luận..., tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính
chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng; tuyên truyền, học tập


9

chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước” [96, tr.63-64].
Cuốn sách “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên” của tác giả Võ Văn Đức, Đinh
Ngọc Giang [83]. Nội dung cuốn sách khẳng định: Một là, cơ sở lý luận và thực tiễn
về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và chất lượng đội ngũ
cán bộ, đảng viên. Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các
TCCSĐ, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên thực trạng, kinh nghiệm (qua khảo
sát tại các tỉnh Bắc Giang, Cao Bằng, Hà Giang, Hòa Bình, Lạng Sơn). Ba là, cuốn
sách đưa ra giải pháp nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo của TCCSĐ, chất lượng
đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về công tác tư tưởng
Luận án tiến sĩ Lịch sử, “Chất lượng công tác tư tưởng của tổ chức cơ sở
đảng (cấp xã) vùng đồng bào dân tộc ít người ở các tỉnh Bắc Trung Bộ giai đoạn
hiện nay” của tác giả Cao Văn Định [78]. Tác giả nêu lên các quan niệm về CTTT,
chất lượng CTTT của TCCSĐ (cấp xã). Tác giả đã phân tích, làm rõ được thực

trạng CTTT của các TCCSĐ cấp xã từ năm 1986 đến nay, những vấn đề đặt ra và
đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng CTTT
của TCCSĐ cấp xã vùng đồng bào dân tộc ít người ở các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Cuốn sách “Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng”
của tác giả Hà Ngọc Hợi [97]. Cuốn sách đã khẳng định được thực trạng CTTT của
Đảng, trên cơ sở đó tác giả làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra yêu cầu
phải đổi mới CTTT. Cuốn sách đã đưa ra những tiêu chí để đánh giá chất lượng,
hiệu quả, giải pháp nâng cao chất lượng CTTT, nhất là nâng cao chất lượng công
tác tuyên truyền, cổ động để tuyên truyền và vận động các tầng lớp nhân dân thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị đề ra.
Bài viết “Kết hợp hai chiều trong công tác tư tưởng ở cơ sở” của tác giả
Nguyễn Khắc Bộ [53] đã khẳng định hai vế “Dân biết” và “Đảng biết” không thể
tách rời nhau, bởi mọi chủ trương, đường lối của Đảng cũng như chính sách, pháp
luật của Nhà nước cần được tuyên truyền tới cơ sở để mọi người dân được biết,
được thảo luận dân chủ để đi tới thống nhất, thì khi thực hiện mới thành công… Để


10

làm tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thì CTTT phải có
sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, nhất là cấp uỷ, tổ chức bộ máy tiến hành
CTTT, của mọi cán bộ, đảng viên.
Đề tài khoa học cấp Bộ, “Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng của cấp ủy
xã miền núi phía Bắc hiện nay” của tác giả Triệu Quang Tiến [151]. Đề tài nêu ra
những yếu tố tác động đến CTTT ở nông thôn miền núi phía Bắc; Vai trò, nhiệm vụ
CTTT của Đảng và nhiệm vụ CTTT của các cấp ủy xã miền núi phía Bắc. Tác giả
khẳng định được những nội dung chủ yếu, phương hướng và những giải pháp nâng
cao hiệu quả CTTT cấp ủy xã miền núi phía Bắc.
Đề tài khoa học cấp Bộ, “Tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh và một số suy
nghĩ về công tác tuyên truyền hiện nay” của tác giả Lương Khắc Hiếu [87]. Đề tài

làm rõ được tư tưởng Hồ Chí Minh về tuyên truyền, công tác tuyên truyền (chủ thể,
đối tượng, nội dung, cách thức tuyên truyền); tác giả làm rõ phong cách sử dụng
ngôn ngữ khi nói, khi viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dựa trên tư tưởng, phong
cách Hồ Chí Minh, tác giả đề xuất giải pháp đổi mới công tác tuyên truyền theo
hướng cụ thể, thiết thực.
Đề tài khoa học cấp Bộ, “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác tư
tưởng trong thời kỳ mới” của tác giả Nguyễn Danh Tiên [149]. Tác giả đã luận giải
được quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về CTTT
trong tình hình mới, những vấn đề đặt ra với CTTT trong thời kỳ mới. Tác giả đã
làm rõ thực trạng quá trình Đảng chỉ đạo CTTT; một số thành tựu, hạn chế, bài học
kinh nghiệm. Chương 3: Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp nâng cao sự lãnh
đạo của Đảng đối với CTTT trong tình hình hiện nay.
Công trình “Nguyên lý công tác tư tưởng - tập I và tập II” của tác giả Lương
Khắc Hiếu [88]. Cuốn sách đã làm rõ những vấn đề quan trọng của CTTT như chủ
thể, đối tượng, nội dung, mục đích, chức năng, nhiệm vụ và vai trò của CTTT trong
đời sống xã hội. Tác giả đưa ra những giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả của
CTTT: Trước hết cần tạo điều kiện môi trường thuận lợi về chính trị tư tưởng, kinh
tế, văn hoá, xã hội... cho CTTT. Hai là, chú trọng đến đối tượng, nội dung, mục
đích, phương thức tiến hành CTTT cho phù hợp...


11

Đề tài khoa học cấp cơ sở, “Xử lý tình huống trong công tác tư tưởng, dân
vận của Đảng” của tác giả Đỗ Ngọc Ninh [134]. Tác giả khẳng định CTTT và công
tác dân vận có mối liên hệ mật thiết với nhau, trên có sở đó làm rõ những tình
huống CTTT, công tác dân vận diễn ra ở một số tỉnh thành từ năm 1998 đến năm
2009. Tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn như: Quan niệm về tình
huống, tình huống CTTT, công tác dân vận; đặc điểm của tình huống CTTT, công
tác dân vận; quan niệm, nguyên tắc, phương châm, phương pháp xử lý tình huống

CTTT, dân vận của Đảng…Đồng thời đề xuất tình huống có thể xảy ra về CTTT,
dân vận trong những năm tiếp theo và đề xuất cách xử lý. Kết quả nghiên cứu của
đề tài có giá trị cho cấp uỷ, cán bộ và đảng viên trong xử lý tình huống CTTT.
Cuốn sách “Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới” của tác
giả Phạm Tất Thắng [145]. Tác giả đã phân tích được vấn đề lý luận của CTTT như
chủ thể, đối tượng, nội dung, khái niệm tư tưởng và CTTT của Đảng. Tác giả nêu ra
những giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả về nội dung, phương pháp tiến
hành. Tác giả nhấn mạnh trong tuyên truyền thi đua yêu nước cần hướng tới tuyên
truyền tấm gương điển hình tiên tiến, những người tốt, việc tốt cụ thể, thiết thực,
không hình thức...
Cuốn sách “Công tác tư tưởng (sách chuyên khảo)” của tác giả Đào Duy
Quát [141]. Nội dung của cuốn sách gồm 2 chương đã làm rõ được những vấn đề về
khái niệm, hệ thống, cấu trúc và đối tượng, phương pháp nghiên cứu CTTT; mục
đích, chức năng và nhiệm vụ của CTTT; vai trò của CTTT trong sự nghiệp đổi mới;
nguyên tắc, phương châm, giáo dục tư duy lý luận, chính trị - tư tưởng, kinh tế…
Nội dung đấu tranh tư tưởng, đặc biệt cuốn sách khẳng định vai trò của đội ngũ báo
cáo viên (BCV), tuyên truyền viên (TTV) trong việc tuyên truyền và bảo vệ Đảng.
Tác giả nhấn mạnh cần xây dựng đội ngũ cán bộ cho CTTT, cơ sở vật chất tiên tiến,
hệ thống tổ chức và phương thức hoạt động của ban tuyên giáo; hoạt động kiểm tra
hiệu quả của CTTT…
Cuốn sách “Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng ở cơ sở” của
các tác giả Ngô Huy Tiếp, Đinh Ngọc Giang [152]. Cuốn sách đã làm rõ khái niệm
về “nâng cao”, “chất lượng”, “công tác tư tưởng ở cơ sở”, trong đó cuốn sách đề


12

cập đến vị trí, vai trò và nội dung công tác tuyên truyền miệng ở cấp cơ sở. Các tác
giả làm rõ những nội dung, hình thức, phương châm thực hiện công tác tuyên
truyền miệng.

Bài viết “Một số vấn đề trong đổi mới công tác tư tưởng, lý luận” của tác
giả Phạm Tất Thắng [146]. Tác giả khẳng định CTTT, lý luận có vị trí, vai trò đặc
biệt quan trọng trong hệ thống tổ chức và hoạt động của chính Đảng, trong quá
trình tổ chức, vận động cách mạng, tiến tới giành chính quyền cũng như trong xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa... Nhận thấy tầm quan trọng đó, tác
giả đề xuất giải pháp đổi mới CTTT, lý luận của Đảng.
Cuốn sách “Những vấn đề lý luận về công tác tư tưởng của Đảng hiện nay”
của tác giả Ngô Huy Tiếp [153]. Nội dung cuốn sách khẳng định CTTT góp phần
xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng, chính trị. Tác giả chỉ rõ bản chất CTTT của
Đảng là một hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức của Đảng đối với các hoạt động
tư tưởng. Theo tác giả CTTT được cấu thành bởi ba bộ phận, đó là: Công tác lý
luận; văn hóa - văn nghệ; tuyên truyền, cổ động.
Công trình “Nâng cao tính thuyết phục của công tác tư tưởng trước những
đòi hỏi mới của sự nghiệp cách mạng ở nước ta” của tác giả Phạm Văn Linh [113]
đã nêu lên vai trò, các bộ phận cấu thành CTTT; mối quan hệ giữa nội dung và hình
thức; chủ thể và khách thể và quan hệ giữa nội dung, hình thức với chủ thể tác động
tới khách thể. Tác giả khẳng định trong CTTT, tính thuyết phục và tính chiến đấu
có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tác giả đã chỉ ra những đóng góp cũng như
hạn chế của CTTT trong những chặng đường đã qua, đồng thời chỉ ra 6 nhiệm vụ
trong giai đoạn mới.
Công trình “Một số yêu cầu cơ bản quy định tính thuyết phục trong công tác
tư tưởng của Đảng” của tác giả Hoàng Quốc Bảo [50]. Tác giả chỉ ra CTTT của
Đảng chịu sự tác động của những yếu tố như sau: Một là, tính thuyết phục trong
CTTT chịu sự chi phối, tác động của mục đích CTTT. Hai là, tính thuyết phục của
CTTT chịu sự chi phối, tác động của đối tượng CTTT. Ba là, tính thuyết phục trong
CTTT chịu sự tác động, chi phối của nội dung CTTT. Tác giả khẳng định các yếu tố
nêu trên tự nó không thể tác động, chi phối tính thuyết phục của CTTT mà phải


13


thông qua hoạt động của chủ thể CTTT. Để đảm bảo và không ngừng nâng cao tính
thuyết phục trong CTTT của Đảng cần xây dựng tiêu chuẩn của người cán bộ làm
CTTT và cần có cơ chế, chính sách đãi ngộ phù hợp để tuyển chọn người có tâm, có
tầm, có trí, có đức vào hoạt động trong CTTT.
Cuốn sách “Công tác tư tưởng trong thời kỳ đổi mới” của tác giả Đào Duy
Tùng. Tác giả đi sâu nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, dành nhiều thời gian xuống cơ
sở, tiếp xúc trực tiếp với nhân dân, học hỏi kinh nghiệm và lắng nghe ý kiến của
dân. Cuốn sách khẳng định: CTTT là một khoa học và một nghệ thuật. Là “một
khoa học” - CTTT của Đảng có nhiệm vụ nghiên cứu lý luận, phát triển một cách
sáng tạo và làm cho phong phú lý luận học thuyết Mác - Lênin. Là “một nghệ
thuật” - các “binh chủng” của CTTT phải bám sát thực tiễn, thông qua các hoạt
động của mình trang bị lý luận cách mạng tiên tiến cho quần chúng, biến nó thành
lý tưởng và niềm tin, thành sự giác ngộ sâu sắc và hành động cách mạng để nhân
nguồn sức mạnh nội lực thành một lực lượng vật chất vô địch, đưa mọi chủ trương,
đường lối của Đảng vào thực tiễn cuộc sống [169, tr.375-376].
Cuốn sách chuyên khảo, “Xử lý tình huống trong công tác tư tưởng (sách
chuyên khảo)”của tác giả Mai Đức Ngọc [129]. Cuốn sách đã phân tích làm rõ nội
hàm khái niệm CTTT; phân tích nội dung, biểu hiện, nguyên nhân và cách thức
nhận dạng, yêu cầu và phương pháp tiếp cận quy trình, giải pháp xử lý các tình
huống trong CTTT. Từ đó cung cấp kiến thức, kỹ năng cho cán bộ lãnh đạo, quản
lý trong việc chủ động xử lý có hiệu quả các tình huống trong CTTT.
Luận án tiến sĩ chuyên ngành Chính trị học, “Đổi mới công tác tuyên truyền
của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê
Mai Trang [166]. Tác giả đã làm rõ khái niệm “tuyên truyền”, “công tác tuyên
truyền” và “công tác tuyên truyền của Đảng”. Tác giả chỉ ra ưu điểm, hạn chế công
tác tuyên truyền trong điều kiện hội nhập quốc tế ở Việt Nam; trên cơ sở chỉ những
hạn chế, yếu kém và dự báo thời cơ, thách thức, tác giả đề ra quan điểm và giải
pháp đổi mới công tác tuyên truyền (giải pháp nâng cao nhận thức của Đảng về vị
trí, vai trò của công tác tuyên truyền; giải pháp về thể chế; giải pháp về xây dựng

đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất - kỹ thuật).


14

Cuốn sách “Cơ sở lý luận công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam
(sách chuyên khảo)” của tác giả Lương Khắc Hiếu [90]. Nội dung cuốn sách đã làm
rõ khái niệm, phạm trù về các yếu tố, các bộ phận cấu thành của CTTT. Cuốn sách
còn đi sâu nghiên cứu lý luận về các hình thái, các bộ phận của CTTT. Tác giả làm
rõ được công tác tuyên truyền và hoạt động của BCV, TTV; công tác giáo dục lý
luận chính trị và giáo dục truyền thống cách mạng; các tổ chức và sinh hoạt, hội họp
của các tổ chức; các thiết chế văn hóa và hoạt động của các thiết chế văn hóa; các
phương tiện thông tin đại chúng...
Công trình, “Tính thuyết phục của công tác tư tưởng”, (2017) của tác giả
Nguyễn Đắc Hưng [99]. Tác giả khẳng định, tính thuyết phục của CTTT là sự
thuyết phục trên cả 3 phương diện: Quan điểm, lập trường và kỹ năng (năng lực
thuyết phục); đồng thời, được thể hiện trên ba hình thái, ba bộ phận cơ bản, đó là:
công tác lý luận, công tác giáo dục lý luận, công tác cổ động, làm cho chúng ngày
càng hoàn thiện, thấm sâu vào tư tưởng của mọi đối tượng, động viên mọi người
tham gia cách mạng. Để nâng cao tính thuyết phục, CTTT cần phải chú ý đến nội
dung quan trọng sau: Một là, cần phải hiểu biết rõ nội hàm và bản chất CTTT, đồng
thời đánh giá đúng thực trạng CTTT, thực trạng niềm tin, đạo đức, lối sống của các
tầng lớp nhân dân trong xã hội. Hai là, để giữ vững và mở rộng mặt trận tư tưởng
của Đảng đòi hỏi CTTT phải nâng cao tính chiến đấu chống lại quan điểm sai trái,
thù địch, bám sát thực tiễn, sát đối tượng. Ba là, trong bối cảnh bùng nổ thông tin
như hiện nay, khi làm CTTT cần nắm thông tin đa chiều, kết hợp thông tin từ trên
xuống, thông tin từ dưới lên. Bốn là, cách thức chủ yếu của hoạt động tư tưởng là
viết và nói; do đó, muốn thuyết phục cán bộ, đảng viên phải viết đúng theo quan
điểm của Đảng, đúng bản chất của sự vật, hiện tượng.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu về công tác tuyên giáo

Cuốn sách, “Nghiệp vụ tuyên giáo (dành cho cán bộ tuyên giáo các cấp)”
của tác giả Ngô Văn Thạo [144]. Tác giả khẳng định CTTG là sự thống nhất biện
chứng giữa CTTT và công tác khoa giáo; CTTG chỉ các hoạt động tham mưu, chỉ
đạo, kiểm tra của tổ chức đảng về lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và khoa giáo. Cuốn
sách làm rõ vai trò, nguyên tắc, nội dung, phương châm và nhiệm vụ của CTTG ở


15

cơ sở; chỉ ra những việc mà cán bộ tuyên giáo cấp xã cần tiến hành thực hiện. Cuốn
sách là cẩm nang về bồi dưỡng nghiệp vụ CTTG cơ sở.
Cuốn sách “Nghiên cứu lý luận phục vụ công tác tuyên giáo” của tác giả Đỗ
Khánh Tặng [142]. Nội dung cuốn sách chủ yếu tập trung vào hai vấn đề chính:
Một là, tư tưởng, đạo đức, tác phong, lời nói và việc làm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn soi sáng lý luận và thực tiễn CTTG. Hai là, cuốn sách đã đề cập đến chuyên đề
lý luận, thực tiễn về CTTG. Tác giả khẳng định, CTTG là một nghề của hoạt động
chính trị và xã hội phức tạp. Tác giả chỉ ra được mối quan hệ tương hỗ giữa CTTT
với công tác dân vận; những nội dung chủ yếu CTTG cấp huyện, cấp xã và mối
quan hệ giữa chúng; làm rõ được thế mạnh của văn học - nghệ thuật phục vụ
CTTG, phẩm chất đạo đức và năng lực công tác của đội ngũ cán bộ tuyên giáo...
Bài viết “Làm gì để đổi mới công tác tuyên giáo” của tác giả Hà Đăng [77]
đã làm rõ những việc cần làm để đổi mới CTTG: Phải đổi mới tư duy về CTTG; đổi
mới phương thức và phong cách làm CTTG; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ của đội ngũ cán bộ làm CTTG; đổi mới cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động và
có chính sách khuyến khích thích hợp đối với cán bộ tuyên giáo.
Công trình “Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác
tuyên giáo” của tác giả Lê Hồng Anh [3] đã chỉ rõ thực trạng CTTG hiện nay. Tác
giả khẳng định những thành công đã đạt được có sự đóng góp to lớn của CTTG
trong việc góp phần nâng cao nhận thức, hành động của nhân dân vào sự lãnh đạo
của Đảng. Dựa trên cơ sở những hạn chế của CTTG, tác giả đưa ra một số giải pháp

nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả CTTG của Đảng.
Công trình “Nâng cao chất lượng công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư
luận xã hội phục vụ công tác tuyên giáo của Đảng” của tác giả Lâm Phương Thanh
[143]. Bài viết khẳng định công tác nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội là công việc
quan trọng nhằm nắm bắt tình hình tư tưởng của nhân dân về những vấn đề, sự kiện
có tính thời sự, đặc biệt là các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước...
Đồng thời, tác giả chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân trong thực hiện công tác
nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội, từ đó đề ra 5 nhiệm vụ CTTG cần tập trung giải
quyết nhằm nâng cao hiệu quả của công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu và định
hướng dư luận xã hội.


16

Công trình “Tăng cường đổi mới công tác báo cáo viên, tuyên truyền miệng
đáp ứng yêu cầu tình hình mới” của tác giả Bùi Thế Đức [79]. Tác giả khẳng định
công tác BCV, tuyên truyền miệng có vị trí, vai trò quan trọng, đóng góp rất lớn vào
những thành công của đường lối đổi mới đất nước; tác giả đề cấp đến những khó
khăn mà tình hình chính trị, kinh tế thế giới cùng với những hạn chế nội tại của nền
kinh tế đất nước đối với CTTG. Bài viết đã chỉ ra 6 giải pháp đổi mới CTTG nhằm
đáp ứng yêu cầu cách mạng đặt ra trong thời kỳ mới.
Công trình “Nhân rộng mô hình, cách làm sáng tạo trong công tác tuyên
giáo ở cơ sở” của tác giả Phạm Thu Hà [84]. Bài viết đã đề cập đến một vài mô
hình, cách làm sáng tạo trong CTTG ở một số xã, phường ở tỉnh Lào Cai theo mô
hình tuyên vận đã sắp xếp lại về tổ chức, nội dung, phương thức, cách thức thực
hiện CTTG tại cơ sở theo hướng tinh gọn, giảm đầu mối, đây là điều chưa từng có
trong tiền lệ, là một nét đột phá trong CTTG cơ sở tại tỉnh Lào Cai.
Công trình “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên giáo, đáp ứng yêu
cầu của tình hình mới” của các tác giả Trần Doãn Tiến, Trần Viết Lưu [150]. Bài
viết đã nêu những nhận định của Hội nghị Toàn quốc tổng kết công tác tuyên giáo

năm 2014, làm rõ thành tựu và hạn chế của CTTG trên các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội... từ đó khẳng định được vai trò của CTTG trong việc thực hiện
chủ trương, đường lối của Đảng; các tác giả đã nêu ra những giải pháp thiết thực, cụ
thể để nâng cao chất lượng, hiệu quả CTTG và nêu lên nội dung trọng tâm của
CTTG trong năm 2015.
Cuốn sách “Công tác tuyên giáo trước yêu cầu mới” của tác giả Bùi Thế
Đức. Nội dung cuốn sách đã làm rõ những yêu cầu đối với việc xây dựng đội ngũ
cán bộ tuyên giáo cần đảm bảo các tiêu chí về phẩm chất, năng lực cơ bản: Thứ
nhất, cán bộ tuyên giáo phải có bản lĩnh chính trị, tư tưởng vững vàng, phẩm chất
đạo đức, lối sống trong sáng, giản dị, phải có “tâm” và “tầm”. Thứ hai, cán bộ thực
hiện CTTG phải có tinh thần hăng say, nhiệt huyết với nghề. Thứ ba, cán bộ, đảng
viên tiến hành CTTG phải bám sát thực tiễn và gắn bó mật thiết với các tầng lớp
nhân dân. Thứ tư, cán bộ tuyên giáo cần có tác phong làm việc khoa học [80, tr.5558]. Bên cạnh đó, tác giả khẳng định CTTG cần tiếp tục đấu tranh chống lại âm
mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của thế lực phản động.


17

Công trình “Tiếp tục đổi mới công tác tuyên giáo, đáp ứng yêu cầu xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” của tác giả Mai Văn Ninh [135]. Bài viết
khẳng định muốn đổi mới CTTG đòi hỏi phải triển khai toàn diện, đồng bộ nhiều
nội dung. Trong đó, cần tập trung vào 5 nhiệm vụ trọng tâm: (1) CTTT phải luôn đi
liền thực tiễn phát triển kinh tế, ổn định đời sống xã hội. (2) Đổi mới công tác quán
triệt, tuyên truyền thực hiện các nghị quyết của Đảng theo tinh thần đúng người,
đúng việc. (3) Phát huy sức mạnh tổng hợp, đồng bộ của các lực lượng, các phương
pháp, thường xuyên, kiên quyết đấu tranh chống lại quan điểm sai trái, thù địch. (4)
CTTG phải luôn đảm bảo tính khách quan, tính chiến đấu và thuyết phục cao. (5)
Quan tâm chăm lo đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ CTTG.
Bài viết có giá trị tham khảo tốt đối với luận án trong việc đề ra giải pháp nâng cao
CTTG của đảng bộ xã.

Cuốn sách “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tuyên giáo trong giai đoạn hiện nay”
của Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Nội dung cuốn sách nêu lên những giải
pháp góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên: Một là, tiếp tục hoàn
thiện chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ CTTG phù hợp với yêu cầu đặt ra trong
tình hình mới. Hai là, trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cần đổi mới nội dung,
chương trình. Ba là, công tác luân chuyển cán bộ tuyên giáo cần được thực hiện phù
hợp qua đó góp phần rèn luyện cán bộ qua thực tiễn cách mạng. Bốn là, ban hành
và thực hiện một số chế độ, chính sách phù hợp, nhất là đối với đội ngũ cán bộ
chuyên trách. Năm là, xây dựng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị có kiến thức
chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm thực tiễn [94, tr.509-513]...
Công trình “Một số yếu tố tác động đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
tuyên giáo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Bùi Thị Kim Hậu [85].
Bài viết đã làm rõ được 4 yếu tố tác động chính: Một là, tình hình thuận lợi, khó
khăn trong nước tạo ra những cơ hội và thách thức đan xen. Hai là, sự lãnh đạo của
Đảng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tuyên giáo.
Ba là, bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức và lối sống; năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ của những người làm công tác đào tạo, bồi dưỡng là nhân tố
quan trọng tác động trực tiếp đến công tác đào tạo cán bộ.


18

Công trình “Cán bộ tuyên giáo và việc đào tạo nghề tuyên giáo” của tác giả
Nguyễn Minh Tuấn [168]. Tác giả khẳng định cán bộ tuyên giáo là người thực hiện
nhiệm vụ thuyết phục, cảm hóa người khác tin tưởng và quyết tâm theo đuổi mục
tiêu, con đường chính trị mang lại lợi ích trước mắt và lâu dài cho giai cấp, dân tộc.
Bài viết khẳng định để đào tạo nghề tuyên giáo, cần xây dựng và thực hiện 5 tiêu
chuẩn: Một là, bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của
Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Hai là, cán bộ tuyên giáo phải có đạo
đức cách mạng, lối sống giản dị, trong sáng. Ba là, cán bộ tuyên giáo phải có kiến

thức lý luận chính trị vững chắc. Bốn là, cán bộ tuyên giáo phải có phong cách công
tác dân chủ, khoa học, lý luận và thực tiễn phải đi liền với nhau, nói đi đôi với làm.
Năm là, cán bộ tuyên giáo phải chủ động tham mưu, dự báo giỏi.
Công trình “Toàn cầu hóa và những vấn đề đặt ra đối với công tác tuyên
giáo ở nước ta hiện nay” của tác giả Phạm Văn Linh [114] đã khẳng định toàn cầu
hóa mang lại nhiều cơ hội, đồng thời Việt Nam phải đối mặt với những thách thức
to lớn, đòi hỏi phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, bồi dưỡng và giáo dục
con người nhằm nâng cao ý thức, phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc ở mỗi
người dân. Chính vì vậy, CTTG cần tập trung thực hiện những nội dung quan trọng:
Một là, tập trung làm tốt công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức cho các tầng
lớp nhân dân. Hai là, công tác tuyên truyền cần đặc biệt chú ý làm rõ mối quan hệ
giữa hội nhập quốc tế và phát huy nội lực.
Luận án tiến sĩ chuyên ngành Chính trị học, “Đổi mới tổ chức và hoạt động
của ban tuyên giáo đảng ủy cấp xã ở nước ta hiện nay” của tác giả Phạm Văn Hiến
[86]. Tác giả đã làm rõ vấn đề lý luận, thực trạng về tổ chức và hoạt động của ban
tuyên giáo đảng ủy cấp xã. Khái quát được kết quả đạt được, hạn chế của ban tuyên
giáo đảng uỷ cấp xã; chỉ ra nguyên nhân trong tổ chức và hoạt động của ban tuyên
giáo ở nước ta từ năm 2011 đến nay. Dựa trên cơ sở thực tiễn, tác giả đề ra các giải
pháp chủ yếu đổi mới tổ chức và hoạt động của ban tuyên giáo đảng ủy cấp xã ở
nước ta hiện nay.
Công trình “Quảng Ninh đổi mới nội dung, phương thức công tác báo cáo
viên, tuyên truyền miệng” của tác giả Phạm Hồng Cẩm [58]. Bài viết khẳng định


19

trong những năm qua, công tác củng cố đội ngũ BCV, TTV được các cấp ủy đảng
đặc biệt coi trọng. Tác giả khẳng định, trong phương pháp truyên truyền các BCV
không chỉ sử dụng phương pháp truyền thống mà còn sử dụng các cở sở vật chất, kỹ
thuật hiện đại, trình chiếu bằng hình ảnh, góp phần nâng cao tính thuyết phục, hiệu

quả trong công tác tuyên truyền, nhất là tổ chức hội nghị trực tuyến đã góp phần
nắm bắt kịp thời diễn biến tư tưởng của nhân dân trong việc thực hiện các nhiệm vụ
chính trị của địa phương. Tác giả khẳng định 4 nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện để
đổi mới nội dung và phương thức tuyên truyền miệng trong tình hình mới.
Công trình (2018) “Cách nâng cao hiệu quả tuyên truyền miệng” của tác giả
Lương Khắc Hiếu [91]. Bài viết khẳng định, yếu tố ngôn ngữ là công cụ quan trọng
nhất bảo đảm cho cán bộ tuyên truyền, BCV thực hiện mục đích hoạt động của
mình. Để tuyên truyền hiệu quả người BCV phải sử dụng hiệu quả một số cách
như: Sử dụng ngôn ngữ nói, dùng phương tiện trực quan và kết hợp với phương tiện
ngôn ngữ, sử dụng con số, số liệu thực tế, trả lời câu hỏi khi thực hiện đối thoại... để
người nghe dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo.
Công trình “Nâng cao tính chủ động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ tuyên
giáo” của tác giả Võ Văn Thưởng [148]. Bài viết khẳng định những nội dung quan
trọng mà CTTG cần thực hiện: Một là, công tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng
phải được đổi mới về nội dung, hình thức học tập. Hai là, cải tiến và nâng cao hơn
nữa các hội nghị giao ban, hội nghị BCV... Ba là, nâng cao chất lượng và tính chủ
động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ tuyên giáo trong công tác tham mưu, đề xuất, giải
quyết những vấn đề cấp thiết đặt ra. Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
quá trình thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng.
Công trình “Cần nhận thức đúng về công tác tuyên giáo” của tác giả Lương
Ngọc Vĩnh [176] đã phân biệt giữa CTTG với CTTT, CTTG với cơ quan tuyên
giáo. Tác giả đã phân biệt được nội dung CTTG qua các thời kỳ lãnh đạo cách
mạng của Đảng. Đặc biệt, tác giả đưa ra quan niệm CTTG là toàn bộ các hoạt động
tư tưởng của Đảng, bao gồm xây dựng, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước đến các tầng lớp nhân dân; đồng thời, bảo đảm sự lãnh đạo vững chắc của
Đảng đối với các lĩnh vực văn hóa - văn nghệ và khoa giáo.



×