Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Chất lượng đội ngũ đảng viên là người dân tộc thiểu số của các đảng bộ xã ở tỉnh kon tum trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (748.89 KB, 82 trang )

LUẬN VĂN:
Chất lượng đội ngũ đảng viên là người dân tộc
thiểu số của các đảng bộ xã ở tỉnh Kon Tum
trong giai đoạn hiện nay

MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên luôn là một nhiệm vụ quan
trọng trong công tác xây dựng Đảng, là nhiệm vụ chủ yếu và thường xuyên của mỗi tổ chức
cơ sở đảng (TCCSĐ), quyết định đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của toàn Đảng nói
chung. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng là do các đảng viên tổ chức nên, đảng viên tốt thì
Đảng mới mạnh. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã khẳng định điều đó; do đó, Đảng phải
chăm lo công tác xây dựng Đảng, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
Những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư có nhiều
chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.
Nhiều cấp ủy đảng đã nhận thức rõ hơn vị trí, vai trò quan trọng của công tác đảng viên
và việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, chỉ đạo thực hiện đồng bộ các mặt công
tác đảng viên. Do vậy, đội ngũ đảng viên ở cơ sở được tăng về số lượng và chất lượng,
trình độ, kiến thức các mặt được nâng lên.
Cách mạng nước ta đang trong thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, thực hiện mục tiêu; “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội
(CNXH) với những cơ hội và thách thức mới. Tình hình và nhiệm vụ cách mạng to lớn
đó đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, khó khăn đòi hỏi Đảng nói chung, đội ngũ đảng viên
của Đảng nói riêng phải không ngừng đổi mới, chỉnh đốn, nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực mới đáp ứng được vai trò lãnh đạo.
Kon Tum là một tỉnh miền núi vùng cao, nằm ở phía bắc Tây Nguyên, là địa bàn
chiến lược của cả nước. Tỉnh Kon Tum được tái lập năm 1991, hiện có 8 huyện, 1 thành
phố, với 97 xã, phường, thị trấn, gồm 822 thôn, làng, tổ dân phố, trong đó có 51 xã (53%)


được hưởng Chương trình 135 của Chính phủ. Dân số toàn tỉnh khoảng trên 400.000
người (dân tộc thiểu số (DTTS) chiếm 52%), đồng bào theo đạo khoảng 40%. Điều kiện
kinh tế - xã hội của tỉnh còn nhiều khó khăn; trình độ dân trí thấp, an ninh chính trị còn
tiềm ẩn những nhân tố phức tạp; bọn phản động bên ngoài luôn ráo riết lôi kéo, kích
động, lừa mị một bộ phận đồng bào DTTS vượt biên trái phép, nhằm làm mất ổn định
chính trị trên địa bàn. Trong điều kiện đó, Tỉnh ủy Kon Tum xác định tập trung xây dựng,
củng cố hệ thống chính trị (HTCT) cơ sở trong sạch, vững mạnh, đặc biệt là xây dựng đội


ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn bảo đảm có đủ bản lĩnh và kiến thức lãnh đạo, triển khai
thắng lợi nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở địa phương, trong
đó chú trọng công tác nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là người DTTS đáp ứng yêu
cầu của nhiệm vụ chính trị.
Trong nhiệm kỳ lần thứ XIII, Đảng bộ tỉnh Kon Tum đã tập trung thực hiện các
nghị quyết của Trung ương về củng cố HTCT ở cơ sở, chú trọng công tác xây dựng
Đảng. Ngày 19-6-2002 Ban Thường vụ Tỉnh ủy Kon Tum đã ban hành Chương trình số
32-CTr/TU “về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường,
thị trấn”, trong đó coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên cơ sở theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII và Kết luận Hội nghị Trung ương 4 (khóa IX)
về đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Những năm gần đây, tỉnh Kon Tum đã quan tâm phát triển đội ngũ đảng viên và
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là người DTTS để đội ngũ đảng viên của tỉnh góp
phần tích cực vào việc giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, cải thiện được đời
sống nhân dân, bảo đảm được an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Tuy
nhiên, so với yêu cầu và nhiệm vụ mới, công tác này của đảng bộ tỉnh Kon Tum còn
nhiều bất cập, chất lượng đội ngũ đảng viên là người DTTS còn bộc lộ nhiều yếu kém,
hạn chế. Một bộ phận đảng viên, trong đó có cả đảng viên là người DTTS ở các đảng bộ
xã, phai nhạt lý tưởng, mất sức chiến đấu, hách dịch, cửa quyền, gia trưởng, ức hiếp
dân... ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng. Vì sao có thực trạng trên và làm thế nào để
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là người DTTS ở các đảng bộ xã của tỉnh Kon

Tum là một vấn đề rất cần được đi sâu nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tác
giả lựa chọn vấn đề “Chất lượng đội ngũ đảng viên là người dân tộc thiểu số của các
đảng bộ xã ở tỉnh Kon Tum trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn thạc sĩ chuyên
ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều những nghị quyết, chỉ thị, báo cáo tổng kết, đánh giá của Đảng về
công tác xây dựng Đảng và vấn đề xây dựng đội ngũ đảng viên, nâng cao chất lượng đội
ngũ đảng viên. Đây là vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu với những


cấp độ và cách tiếp cận khác nhau. Đặc biệt, gần đây có nhiều công trình khoa học của
các nhà khoa học, các học viên nghiên cứu một số vấn đề có liên quan đến đề tài như:
- GS, TS Lê Hữu Nghĩa (chủ biên): “Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ
dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên”, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001.
- PGS,TS Tô Huy Rứa và PGS,TS Trần Khắc Việt (đồng chủ biên): "Làm người
cộng sản trong giai đoạn hiện nay", Nxb CTQG, Hà Nội, 2003.
- PGS,TS Phạm Hảo và TS Trương Minh Dục (đồng chủ biên): “Một số vấn đề
về xây dựng hệ thống chính trị ở Tây Nguyên”, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003.
- PGS,TS Tô Huy Rứa, PGS,TS Nguyễn Cúc và PGS,TS Trần Khắc Việt (đồng
chủ biên): “Giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi nước
ta hiện nay”, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003.
- GS, TS Mạch Quang Thắng (chủ biên): “Vấn đề đảng viên và phát triển đảng
viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội, 2006.
- PGS,TS Phạm Hảo (chủ biên): “Một số giải pháp góp phần ổn định và phát
triển ở Tây Nguyên hiện nay”, Nxb CTQG, Hà Nội, 2007.
- Đặng Đình Phú: “Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các xã, phường,
ven đô trong công cuộc đổi mới hiện nay”, Luận án Phó tiến sĩ, 1996, Học viện
CTQG Hồ Chí Minh.
- Cao Thị Thanh Vân: “Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở nông thôn

đồng bằng sông Hồng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước”, Luận
án Tiến sĩ, 2002, Học viện CTQG Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Văn Giang: “Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên vùng có đồng bào
tôn giáo ở các tỉnh ven biển đồng bằng Bắc Bộ trong giai đoạn hiện nay”, Luận án Tiến
sĩ, 2003, Học viện CTQG Hồ Chí Minh.
- Mã Điền Cư: “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các đảng bộ xã có đông
đồng bào Chăm ở các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận giai đoạn hiện nay”, luận văn Thạc
sĩ, 2006, Học viện CTQG Hồ Chí Minh.


- Đàm Thiện Cầu: “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ ở các bản
thuộc huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng giai đoạn hiện nay”, luận văn Thạc sĩ, 2006, Học
viện CTQG Hồ Chí Minh.
Các công trình nêu trên đã nghiên cứu vấn đề chất lượng đội ngũ đảng viên và
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở nhiều góc độ, phạm vi khác nhau. Tuy nhiên,
chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về “chất lượng đội ngũ đảng viên là người
dân tộc thiểu số của các đảng bộ xã ở tỉnh Kon Tum trong giai đoạn hiện nay".
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề chất lượng đội
ngũ đảng viên là người DTTS của các đảng bộ xã ở tỉnh Kon Tum; từ đó, đề xuất những
giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là người DTTS
của các đảng bộ xã ở tỉnh Kon Tum trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ: Làm rõ đặc điểm, vai trò đội ngũ đảng viên là người DTTS của các
đảng bộ xã ở tỉnh Kon Tum trong giai đoạn hiện nay.
- Xây dựng quan niệm và tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ đảng viên là người
DTTS của các đảng bộ xã ở Kon Tum trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng chất lượng đội ngũ đảng viên là người DTTS của các
đảng bộ xã ở tỉnh Kon Tum từ năm 2005 đến nay; chỉ ra được những nguyên nhân, rút ra
những kinh nghiệm trong công tác đảng viên đối với đội ngũ đảng viên là người DTTS
của các đảng bộ xã ở tỉnh Kon Tum trong thời gian qua.

- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội
ngũ đảng viên là người DTTS của các đảng bộ xã ở tỉnh Kon Tum trong giai đoạn hiện
nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng: Đề tài tập trung nghiên cứu chất lượng đội ngũ đảng viên là người
DTTS của các đảng bộ xã ở tỉnh Kon Tum trong giai đoạn hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ nghiên cứu chất lượng đội ngũ đảng viên là
người DTTS đang sinh hoạt tại các đảng bộ xã ở tỉnh Kon Tum trong thời gian từ năm
2005 đến nay và đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
là người DTTS của các đảng bộ xã ở tỉnh Kon Tum đến năm 2020.


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về xây dựng Đảng nói chung, về
vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên nói riêng, đồng thời kế thừa kết quả nghiên
cứu của các công trình khoa học có liên quan đã được công bố.
Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn dựa trên
cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn,
sử dụng các phương pháp lô-gích và lịch sử, phân tích và tổng hợp, kết hợp giữa điều tra
và khảo sát, đặc biệt coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Góp phần hình thành quan niệm đúng đắn về nội dung và tiêu chí đánh giá chất
lượng đội ngũ đảng viên là người DTTS của các đảng bộ xã ở tỉnh Kon Tum trong giai
đoạn hiện nay.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng và nêu ra những phương hướng, giải pháp
chủ yếu có tính khả thi nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là người DTTS của các
đảng bộ xã ở tỉnh Kon Tum trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể giúp các cấp ủy đảng ở các đảng bộ xã
thuộc tỉnh Kon Tum nghiên cứu, vận dụng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên;

dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy trong trường chính trị tỉnh và các
trung tâm bồi dưỡng chính trị các huyện và thành phố Kon Tum.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


Chương 1
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ CỦA
CÁC ĐẢNG BỘ XÃ Ở TỈNH KON TUM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY –
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. XÃ, CÁC ĐẢNG BỘ XÃ VÀ ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN LÀ NGƯỜI DÂN
TỘC THIỂU SỐ CỦA CÁC ĐẢNG BỘ XÃ Ở TỈNH KON TUM HIỆN NAY – VAI
TRÒ, ĐẶC ĐIỂM
1.1.1. Xã, các đảng bộ xã ở tỉnh Kon Tum hiện nay
1.1.1.1. Đặc điểm địa lý - tự nhiên
Kon Tum là tỉnh được tái lập sau khi tách từ tỉnh Gia Lai - Kon Tum (tháng 101991). Tỉnh Kon Tum nằm ở vùng cao biên giới cực Bắc Tây Nguyên, với diện tích
9.661 km2; phía Bắc tiếp giáp tỉnh Quảng Nam, có chiều dài ranh giới 142 km; phía Nam
giáp với tỉnh Gia Lai, có chiều dài ranh giới 203 km; phía Đông giáp tỉnh Quảng Ngãi, có
chiều dài ranh giới 746 km; phía Tây giáp với hai nước Lào và Cam pu chia có chung
275 km đường biên giới [11, tr. 18]. Vì thế, Kon Tum đã trở thành “mái nhà Đông
Dương”. Đây là một trong những địa bàn có một vị trí quan trọng về kinh tế và quốc
phòng.
Về địa hình, phần lớn lãnh thổ tỉnh Kon Tum nằm ở khối Kon Tum thượng, tức là
ở phía Tây Trường Sơn với hướng thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây.
Nhìn chung, địa hình ở đây đa dạng: đồi núi, cao nguyên và vùng thung lũng xen kẽ
nhau; trong đó, đồi núi chiếm khoảng 2/5 diện tích toàn tỉnh, có độ dốc 150 trở lên, với
đỉnh Ngọc Linh cao 2.598 m, ngọn Ngọc Krinh cao (2066 m), ngọn cao Bồng Sơn (1939
m). Địa hình núi cao liền dải phân bố chủ yếu ở phía Bắc và Đông Bắc tỉnh Kon Tum

(Đăk Glei, Đăk Tô). Mặt địa hình phân cắt hiểm trở tạo thành các thung lũng hẹp, khe,
suối. Địa hình đồi tập trung chủ yếu ở vùng Sa Thầy, xen giữa vùng đồi là dãy núi Chư
Mô Ray. Địa hình thung lũng nằm dọc theo con sông Pô Cô đi về phía Nam của tỉnh, có
nhiều chỗ bề mặt phẳng như thành phố Kon Tum và thung lũng sông Sa Thầy được hình
thành giữa các dãy núi kéo dài về phía Đông chạy dọc biên giới Việt Nam - Cam pu chia.


Tỉnh có cao nguyên Kon Plong nằm giữa dãy An Khê (tỉnh Gia Lai) và dãy Ngọc Linh (Kon
Tum) với độ cao 1.100 - 1.300 m phát triển theo hướng Tây Bắc - Đông Nam [11, tr. 19].
Về khí hậu, Kon Tum thuộc vùng nhiệt đới gió mùa, hằng năm có hai mùa rõ rệt:
Mùa mưa chủ yếu bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 năm
sau với hướng gió thịnh hành theo hướng Đông Bắc dễ xảy ra cháy rừng [11, tr. 23].
Về sông ngòi, chủ yếu là các sông suối bắt nguồn từ phía Bắc của tỉnh, thường có
lòng dốc, thung lũng hẹp, nước chảy xiết bao gồm các hệ thống đầu nguồn sông Ba và hệ
thống sống Sê San. Hệ thống sông Sê San bao gồm các con sông Đăk Bla (thành phố Kon
Tum) và sông Pô Cô dài 320 km với nhiều con suối lớn, tạo thuận lợi cho việc thiết lập
các công trình thủy điện và thủy lợi phục vụ cho sản xuất và phát triển kinh tế [11, tr. 2324].
Về đất đai và rừng, tỉnh có tổng diện tích 966.100 ha đất đai, trong đó nông nghiệp
là 155.262 ha, đất lâm nghiệp 616.054 ha, đất chuyên dùng 5.704 ha [11, tr. 20]. Diện
tích rừng tự nhiên của Kon Tum còn khoảng 616.054 ha, với độ che phủ 61% (bao gồm:
rừng sản xuất 324.856 ha, rừng phòng hộ 290.766 ha, rừng đặc dụng 432 ha); với các
kiểu rừng chính như rừng cây lá kim, rừng lá nhiệt đới hỗn hợp cây lá rộng, rừng lá ẩm
nhiệt đới cho thảm thực vật và động vật ở đây phong phú và đa dạng [11, tr. 25-26].
Tuy có địa hình hiểm trở, song Kon Tum lại giàu tiềm năng kinh tế. Đồng thời,
Kon Tum là địa bàn có vị thế chiến lược về an ninh biên giới, một trọng điểm mà các thế
lực thù địch đã và đang âm mưu thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" thông qua vấn
đề dân tộc và tôn giáo. Điều đó đang đặt ra yêu cầu việc xây dựng HTCT ở cơ sở nông
thôn không chỉ phải tập trung mọi nguồn lực khai thác tiềm năng, mà còn phải vững
mạnh về chính trị, quốc phòng - an ninh và khả năng xử lý nhạy bén, hiệu quả đối với
những diễn biến phức tạp trong thực tiễn.

1.1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Kon Tum là tỉnh có nhiều thành phần dân tộc nhất ở Tây Nguyên. Theo kết quả
điều tra dân số, dân số của Kon Tum là 421.243 người ngày 01-4-2009 bao gồm 28 dân
tộc cùng chung sống, trong đó có 6 dân tộc bản địa (Xê-Đăng, Ba Na, Brâu, Giẻ-Triêng,
Gia rai, Rơmâm) chiếm 53,94% dân số của tỉnh, đã từng sinh sống từ lâu đời ở vùng này.
Trước đây, ở Kon Tum cũng như Tây Nguyên nổi lên hiện tượng phân bố dân cư ở mỗi


làng, buôn, Plây... là một dân tộc (hay nhóm địa phương); còn việc trong một làng có hai
hay nhiều tộc người khác nhau thì rất ít hoặc hầu như không có. Từ khi người (Việt) đến
với Kon Tum và cả Tây Nguyên, cùng với quá trình di dân nhằm điều hòa, phân bố lại cư
dân và lao động trong phạm vi cả nước để phát triển kinh tế, văn hóa, bức tranh phân bố
dân cư giữa các thành phần dân tộc trong tỉnh có sự thay đổi lớn. Tính chất cư trú xen kẽ
ngày càng tăng lên, nhất là những nơi thuận lợi cho làm ăn sinh sống. Vì thế, ngày nay ở
Kon Tum mang nét đặc trưng của địa bàn hợp nhiều nguồn dân cư khác nhau có đặc
điểm đa sắc tộc, với sự đan xen về địa bàn cư trú giữa các tộc người. Tính chất xen cư
này rất phổ biến không chỉ ở địa bàn cấp xã, mà còn ở cấp độ làng. Đặc điểm này, một
mặt, đặt ra yêu cầu có tính đặc thù: trong quá trình cơ cấu cán bộ trong HTCT ở cơ sở
nông thôn phải tính đến cơ cấu dân tộc, đến việc cán bộ cơ sở phải nắm vững các ngôn
ngữ dân tộc bản địa; mặt khác, đội ngũ cán bộ cấp xã phải đặc biệt quan tâm đến việc rèn
luyện khả năng nhạy bén với các vấn đề dân tộc, biết giải quyết nhanh và có hiệu quả khi
có xích mích và mâu thuẩn dân tộc xảy ra ở địa phương, củng cố khối đoàn kết các dân
tộc.
Ngày nay, Kon Tum là một địa bàn có sự đan xen, nhiều tầng nấc về phương thức
và trình độ sản xuất, có cả lạc hậu lẫn tiên tiến cùng tồn tại khá rõ rệt. Các cư dân bản địa
còn chịu ảnh hưởng chủ yếu bởi phương thức sản xuất lạc hậu, nương rẫy, săn bắt, hái
lượm, với trình độ tổ chức quản lý còn giản đơn, trong đó phương thức canh tác phát
rừng làm rẫy mang tính thuần nông độc canh cây lúa. Những nhân tố đó ảnh hưởng lớn
đến năng lực tư duy và khả năng tổ chức thực tiễn của người cán bộ dân tộc bản địa hiện
nay. Theo dòng lịch sử, các thế hệ của từng thành phần dân tộc - tùy theo điều kiện riêng

của mình, - đã cần cù, chịu khó, tiếp thu những phương pháp và kỹ thuật tiến bộ của dân
tộc Kinh. Đặc biệt, gần đây áp dụng các thành tựu khoa học - công nghệ theo đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta, nhân dân tỉnh Kon Tum đã và đang thúc đẩy nền
sản xuất ngày càng phát triển, cơ cấu kinh tế vườn - rừng - trang trại... đang có chiều
hướng tăng nhanh, phù hợp xu hướng chung của nền kinh tế thị trường.
Có thể nói, đặc điểm của sự đan xen, nhiều tầng nấc về phương thức và trình độ
sản xuất nơi đây một mặt, tạo ra cơ hội tốt trong việc nâng cao trình độ sản xuất đối với
đồng bào các dân tộc; mặt khác, nếu sự lãnh đạo của cấp ủy đảng không vững vàng, sự


quản lý của chính quyền cơ sở bị buông lõng thì đây cũng chính là mảnh đất cho những
hiện tượng tiêu cực lây lan và gây tác hại, cản trở không nhỏ đến sự nghiệp đổi mới
HTCT ở cơ sở nông thôn tỉnh Kon Tum.
1.1.1.3. Đặc điểm văn hóa và tâm lý truyền thống
Đặc điểm của tỉnh có đa dân tộc cùng chung sống đã tạo cho Kon Tum một diện
mạo phong phú và đa dạng cả về tộc người và về văn hóa. Ngày nay, bên cạnh việc sử
dụng rộng rãi tiếng Việt thì tiếng nói và chữ viết của dân tộc bản địa được khuyến khích
phát triển ngày một phong phú và đa dạng đáp ứng nhu cầu biểu đạt về nhiều lĩnh vực
khác nhau trong giao tiếp, đặc biệt là tiếng Xêđăng, Bana, Giẻ Triêng phát triển mạnh.
"Hiện tượng sử dụng song ngữ, đa ngữ ở từng khu vực, làng bản thậm chí trong từng gia
đình cũng là một thực tế hiện nay ở nhiều vùng dân tộc... Hiện tượng vay mượn từ, nhất là từ
về chính trị, xã hội, khoa học của tiếng dân tộc từ tiếng phổ thông cũng là một thực tế đáng
lưu ý hiện nay" [25, tr. 145]. Hơn nữa, cư dân bản địa có nguồn gốc lâu đời và quan hệ
văn hóa sâu sắc với nhiều dân tộc anh em khác.
Có thể nói, sự dung hòa các sắc thái văn hóa của từng dân tộc anh em sống trên
mảnh đất này tạo thành phẩm cách đặc trưng cho người dân Kon Tum. Nói đến văn hóa
Tây Nguyên nói chung và Kon Tum nói riêng là nói đến các trường ca, văn hóa cồng
chiêng, kiến trúc văn hóa nhà mồ, nhà rông,... Tất cả những cái đó đã được kết tinh lại
trong quá trình lao động sáng tạo và đấu tranh của cư dân bản địa Kon Tum đối với tự
nhiên, xã hội qua hàng thiên niên kỷ. Nó có ý nghĩa khẳng định cội nguồn dân tộc, thể

hiện lòng yêu quê hương, yêu thiên nhiên, hướng con người tới sự đoàn kết gắn bó, yêu
thương nhau và vươn tới ước vọng nhân bản... Những yếu tố ấy cũng đặt ra yêu cầu phải
đảm bảo xây dựng khối đoàn kết cộng đồng đa sắc tộc ổn định và phát triển là một trong
những mục tiêu quan trọng mà hoạt động của HTCT ở cơ sở nông thôn hướng đến.
Trước đây, với trình độ sản xuất thấp kém, vốn tri thức còn hạn chế, chưa hiểu hết
về quy luật của vũ trụ, trình độ tư duy chưa phát triển, các cư dân bản địa Kon Tum chưa
lý giải được một cách khoa học về các hiện tượng tự nhiên, còn bị động trước sức mạnh
của tự nhiên. Vì thế, trong tâm tưởng, trong các lễ hội, phong tục tập quán còn in đậm
niềm tin, khát vọng vào thế giới thần linh theo quan niệm "vạn vật hữu linh" (tín ngưỡng


đa thần giáo), thái độ và ứng xử của người dân tộc bản địa dễ rơi vào tâm lý thụ động,
bảo thủ làm hạn chế tính sáng tạo, năng động của mỗi con người và cộng đồng.
Trước khi bước vào xã hội hiện đại, tổ chức xã hội duy nhất của cư dân bản địa
Kon Tum chỉ tồn tại duy nhất là làng, với một phức hợp văn hóa gồm khu dân cư, kho
thóc, nhà rông, máng nước, đất canh tác, rừng, sông suối, nghĩa địa... Chế độ tự quản
trong làng vận hành trên cơ sở luật tục. Đó là những quy tắc xã hội, chỉ dẫn cách đối nhân
xử thế, xác định hành vi tội phạm theo truyền thống văn hóa của cư dân. Ở mỗi dân tộc
và từng làng đều có luật tục riêng của mình. Sự hình thành phép ứng xử của đồng bào
trước thiên nhiên, trước xã hội và với bản thân mình chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của
bản thân và những quy định của luật tục. Luật tục trong thời kỳ tiền công nghiệp là công
cụ điều hành và quản lý xã hội hữu hiệu. Tuy nhiên, trong thời kỳ củng cố và phát triển
của pháp luật, thì luật tục trở thành công cụ tự quản tồn tại song song với pháp luật và sự
tác động của luật tục đối với đời sống cộng đồng cũng có sự thay đổi tùy thuộc vào tác
động mạnh yếu của pháp luật. Ngày nay, luật định mang tính chất pháp quy của toàn xã
hội nước ta được phổ biến rộng rãi. Nhưng, bên cạnh những quy định chung, đồng bào
các dân tộc ở các huyện của tỉnh Kon Tum vẫn bảo lưu nhiều nét riêng về tập quán
truyền thống văn hóa tiến bộ, biểu hiện trong việc dàn xếp và hòa giải những bất đồng
trong quan hệ xã hội. Vì thế, "ở nước ta, cùng với nhiều yếu tố tác động khác cho đến
nay, luật tục đang chuyển sang vị trí, vai trò chủ yếu, bổ sung, hỗ trợ cho pháp luật ở

những quan hệ xã hội không cơ bản, trong nhiều trường hợp, đồng bào dân tộc thiểu
số sử dụng các quy chuẩn luật tục vì sự thiết thực, cụ thể, hợp lý của chúng" [50, tr.
167] Đương nhiên, giữa tập quán pháp và luật tục của mỗi buôn, bản với luật pháp
chung của cả nước có nhiều điểm chênh lệch, đòi hỏi những người quản lý và điều
hành phải có sự kết hợp hài hòa sao cho vừa kế thừa được những nhân tố hợp lý của
luật tục, lại vừa thực hiện nghiêm minh luật pháp chung của Nhà nước [25, tr. 234].
Thực tiễn Tây Nguyên nói chung và Kon Tum nói riêng, đã và đang đòi hỏi đội
ngũ cán bộ của HTCT ở cơ sở nông thôn phải thông thạo tiếng nói, phong tục, tập quán,
tâm lý, truyền thống của các dân tộc trên địa bàn; có khả năng "biết nghe dân nói, biết nói
cho dân nghe". Đồng thời, họ phải biết kết hợp nhuần nhuyễn pháp luật với "luật gia" và


"luật tục" trong quản lý xã hội; biết đối thoại với mọi tầng lớp nhân dân về các lĩnh vực
của đời sống xã hội theo đúng quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Trong truyền thống dân tộc bản địa Tây Nguyên - Kon Tum ở mỗi làng, việc điều
hành mọi việc theo luật tục do Hội đồng già làng, đứng đầu là chủ làng. Phổ biến ở các
dân tộc Kon Tum, chức chủ làng là do dân bầu lên thông qua cuộc họp chung ở nhà rông.
Ở các dân tộc có số dân đông như Xê - đăng, Ba Na, Giẻ Triêng, bên cạnh chủ làng còn
có hội đồng già làng bao gồm những người đàn ông có uy tín, sức khỏe, minh mẫn, hoạt
bát, giao thiệp rộng, có đạo đức, thương yêu dân làng, thông hiểu lễ nghi phong tục tập
quán, luật tục, lịch sử làng, giàu kinh nghiệm sản xuất... Trên cương vị của mình, chủ
làng và già làng là người tối cao đảm nhiệm việc quyết định những vấn đề quan trọng cả
đối nội lẫn đối ngoại của làng; cả trong sinh hoạt kinh tế lẫn sinh hoạt xã hội và đời sống
tinh thần với tư cách là người đại diện tinh thần của dân làng, thực thi nhiệm vụ do dân
làng giao phó. Từ đó, vị trí vai trò của già làng như một biểu tượng tinh thần với chức
năng chủ yếu của ông là một trung tâm đoàn kết, hòa giải, giữ gìn truyền thống, là tấm
gương mẫu mực để giáo dục các thế hệ của cộng đồng. Có thể nói, nhiều giá trị thiết thực
ở uy tín của già làng vẫn phù hợp ở việc tuyển chọn, xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở
cơ sở có được phẩm chất như vậy trong điều kiện hiện nay.
Tóm lại, những đặc điểm mang tính đặc thù nêu trên, tác động và chi phối rất

mạnh đến HTCT cơ sở cấp xã của tỉnh Kon Tum.
1.1.1.4. Xã, các đảng bộ xã ở tỉnh Kon Tum hiện nay
Kon Tum là một tỉnh ở miền núi, vùng cao, biên giới cực Bắc Tây Nguyên, có 8
huyện, một thành phố với 10 phường, 06 thị trấn và 81 xã (04 xã thuộc khu vực I, 31 xã
thuộc khu vực II và 46 xã thuộc khu vực III; 10 xã tiếp giáp với biên giới Lào và
Campuchia). Trừ các phường, thị trấn và một số xã thuộc thành phố Kon Tum có diện
tích trung bình, địa hình bằng phẳng, dân cư đông, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
tương đối thuận lợi, hầu hết các xã còn lại ở tỉnh Kon Tum có diện tích rộng, địa hình
chia cắt, dân cư thưa thớt, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội yếu kém và không đồng bộ.
Đây cũng là nơi có nhiều đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào theo đạo sinh sống.
Dân số đến nay khoảng 404.470 người. Với địa hình rộng lớn và đa dạng, có đồi núi, cao
nguyên và vùng thung lũng xen kẽ nhau. Trong đó đồi núi chiếm 2/5 diện tích toàn tỉnh.


Do đó, xã, phường, thị trấn của tỉnh Kon Tum có đặc điểm riêng là rộng, dân cư thưa thớt
(35 người/km2), địa hình phức tạp, điều kiện đi lại hết sức khó khăn. Với điều kiện địa lý
như trên ảnh hưởng đến việc đề ra chủ trương cũng như việc quản lý phát triển kinh tế,
chính trị - xã hội, an ninh quốc phòng.
Toàn Đảng bộ tỉnh hiện có 79 xã có Đảng bộ cơ sở, 02 xã có chi bộ cơ sở, không
còn xã nào không có chi bộ. Từ ngày tái thành lập tỉnh đến nay, Đảng bộ tỉnh Kon Tum
luôn quan tâm củng cố, xây dựng HTCT vững mạnh đáp ứng nhiệm vụ chính trị trong
từng giai đoạn. Tỉnh ủy đã ban hành và chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương đem lại hiệu
quả cao như Chỉ thị 10-CT/TU năm 1994, sau đó là Nghị quyết 01-NQ/TU năm 1996 về
việc các sở, ban, ngành kết nghĩa với các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn
đến nay tiếp tục phát huy tác dụng. Đặc biệt, từ việc xác định đúng vị trí, vai trò quan
trọng của cơ sở xã, phường, thị trấn, Tỉnh ủy có Nghị quyết chuyên đề về củng cố, xây
dựng HTCT ở xã, phường, thị trấn. Qua tổng kết cho thấy, HTCT cơ sở từng bước được
củng cố, xây dựng. Quán triệt Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX, Ban Thường vụ Tỉnh
ủy đã chỉ đạo cơ quan tham mưu xây dựng chương trình hành động thực hiện để đổi mới
và nâng cao chất lượng hoạt động của HTCT cơ sở xã, phường, thị trấn.

Trong xây dựng, củng cố HTCT cơ sở vững mạnh, Tỉnh ủy Kon Tum đặc biệt chú
trọng xây dựng đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn bảo đảm có đủ bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức và kiến thức lãnh đạo, triển khai thắng lợi nghị quyết của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước ở địa phương, trong đó quan tâm đặc biệt đến công tác
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là người DTTS đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ
chính trị.
Cuối năm 2008, tỉnh Kon Tum có 56 đảng bộ xã được xếp loại đạt trong sạch,
vững mạnh trên tổng số 97 đảng bộ xã, phường, thị trấn được đánh giá xếp loại, chiếm
54,32 %; có 31 đảng bộ xã hoàn thành nhiệm vụ, chiếm 30,07 %; có 01 đảng bộ xã yếu
kém, chiếm 0,97 %. (xem phụ lục 6).
Tất cả các xã, phường, thị trấn đều thành lập đảng bộ cơ sở, mỗi thôn, làng, tổ
dân phố đều có chi bộ đảng lãnh đạo. Các cấp ủy cơ sở được kiện toàn, sinh hoạt đảng
từng bước đi vào nền nếp, việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở các đảng bộ các xã
ngày càng có chất lượng, hiệu quả cao hơn. Các đảng bộ, chi bộ ở nhiều xã đã chú trọng


và thực hiện khá tốt các quy chế dân chủ ở cơ sở. Công tác xây dựng Đảng và quản lý địa
bàn dân cư ngày càng được các chi bộ thôn, làng, tổ dân phố tiến hành trôi chảy, thuận
lợi. Nhìn chung, các đảng bộ xã đã có sự chuyển biến tích cực cả về kiện toàn tổ chức và
hoạt động, bước đầu mang lại một số kết quả đáng được ghi nhận:
Hầu hết các tổ chức đảng và đảng viên ở các xã đã nhận thức đúng và thực hiện tốt
chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở, quán triệt sâu sắc quan điểm “lãnh đạo
phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm và xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”, gắn
xây dựng, củng cố tổ chức đảng với thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương; xây
dựng và thực hiện quy chế làm việc của đảng ủy, làm cho hoạt động phối hợp giữa tổ
chức đảng và các tổ chức khác trong HTCT ở xã ngày một nền nếp hơn.
Nhiều đảng bộ xã lãnh đạo thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ lãnh đạo phát triển
kinh tế - xã hội như các chương trình: xóa đói giảm nghèo; chuyển dịch cơ cấu kinh tế;
đổi mới giống cây trồng, vật nuôi; áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật; thực hiện tốt
chương trình khuyến nông, khuyến công, chương trình “ba giảm, ba tăng”; chương

trình liên kết 4 nhà (nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà nông và nhà khoa học), đem lại
giá trị kinh tế cao trên đơn vị diện tích. Nhiều mô hình sản xuất kinh doanh mới có
hiệu quả và các điển hình tiên tiến đã xuất hiện, các công trình phúc lợi công cộng
như: điện, đường, trường, trạm, trụ sở làm việc, nhà văn hóa xã, tụ điểm văn hóa thôn,
làng ngày một tăng. Chương trình xã hội hóa các công trình phúc lợi ngày càng được
nhân dân đồng tình ủng hộ.
Đa số các đảng bộ xã, các chi bộ trực thuộc xã đã duy trì khá tốt nền nếp sinh hoạt;
các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng được giữ vững, dân chủ được mở rộng cả trong nội bộ
đảng và ngoài xã hội. Kỷ luật, kỷ cương được tăng cường; khắc phục được tình trạng mất
đoàn kết ở một số chi đảng bộ.
Các tổ chức đảng ở các xã thường xuyên theo dõi và lãnh, chỉ đạo việc đẩy mạnh
thực hiện xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Từng
bước tập trung giải quyết những vấn đề nổi cộm, bức xúc, những việc tiêu cực tồn đọng
trước đây ở các xã, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới. Kết quả là,
những vụ thưa kiện, khiếu nại của nhân dân ngày càng giảm, tình hình an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội được giữ vững và tăng cường.


Đến nay, đa số các Đảng ủy xã đã cải tiến một bước công tác quản lý, giáo dục
đảng viên. Nhiều đảng bộ xã đã cố gắng trong việc thực hiện nghiêm túc quy định về
những điều đảng viên không được làm; giới thiệu đảng viên thường xuyên giữ mối liên
hệ với chi ủy, đảng ủy cả nơi làm việc và nơi ở, gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân
nơi cư trú.
Bộ máy chính quyền ngày càng hoạt động có hiệu quả, tổ chức, thực hiện các
chương trình kế hoạch ngày càng nhanh nhạy.
Hội đồng nhân dân xã ngày càng bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa
phương, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, các đại biểu Hội đồng nhân dân xã đã
nhận thức rõ và thực hiện tốt hơn nhiệm vụ, chức năng và trách nhiệm của mình.
Uỷ ban nhân dân (UBND) các xã từng bước được củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ
máy. Chủ tịch, phó chủ tịch UBND xã đa số trẻ, trình độ học vấn, trình độ chính trị,

chuyên môn bước đầu được nâng lên. Cán bộ chuyên môn được bố trí, sắp xếp ổn định và
phát huy tác dụng tốt hơn. Công tác quản lý hành chính, điều hành các công việc của
UBND có tiến bộ khá rõ nét.
Các tổ chức Mặt trận, đoàn thể quần chúng đã cụ thể hóa chủ trương, chỉ đạo cấp
trên và xây dựng được các chương trình, kế hoạch công tác thích ứng, tích cực phát động
các phong trào hành động cách mạng đạt kết quả tốt, số lượng đoàn viên, hội viên ngày
càng tăng lên.
Nhiều cán bộ chủ chốt các xã trưởng thành từ thực tiễn phong trào cách mạng của
quần chúng, gắn bó với sản xuất và đời sống nhân dân, được quần chúng nhân dân tín
nhiệm. Nhiều Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch UBND xã bước đầu được đào tạo bằng nhiều
hình thức, nhất là các khóa tại chức về chương trình cao cấp lý luận và đại học chính trị.
Theo báo cáo của các ban chuyên môn của Tỉnh ủy hiện nay đa số các Bí thư Đảng ủy,
Chủ tịch UBND xã đảm đương tốt nhiệm vụ và thể hiện tốt vai trò nòng cốt, trung tâm
đoàn kết xây dựng đảng bộ, có trách nhiệm và tích cực trong lãnh đạo, chỉ đạo và điều
hành các công việc, góp phần làm trong sạch và nâng cao chất lượng, hiệu quả các tổ
chức trong HTCT của các xã.
Nhìn chung, HTCT các xã ở Kon Tum hiện đang có những bước phát triển khá
vững chắc, đã thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò lãnh, chỉ đạo, là nơi trực tiếp đưa chủ


trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, góp
phần tạo nên thành quả khá toàn diện, kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội cơ bản giữ được ổn định; đời sống vật chất và văn hoá tinh thần
có chiều hướng được nâng lên, bộ mặt nông thôn mỗi lúc một thêm khởi sắc.
1.1.2. Vai trò, đặc điểm của đội ngũ đảng viên là người dân tộc thiểu số của
các đảng bộ xã ở tỉnh Kon Tum
1.1.2.1. Vai trò của đội ngũ đảng viên là người dân tộc thiểu số của các đảng bộ
xã ở tỉnh Kon Tum
Tất cả các TCCSĐ cấp xã nói chung và từng đảng bộ cơ sở ở các xã tỉnh Kon Tum
nói riêng đều có vị trí là những tổ chức nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị, đơn vị

chiến đấu trực tiếp của Đảng, có trách nhiệm làm cầu nối liền giữa Đảng và quần chúng
nhân dân ở các xã đó. Nói cụ thể là, các tổ chức đảng này được Đảng - cụ thể là Đảng bộ
tỉnh Kon Tum - giao trách nhiệm thay mặt Đảng bộ trực tiếp liên hệ với đông đảo các
tầng lớp nhân dân trong toàn tỉnh. Theo đó, các TCCSĐ ở đây có vai trò là những đơn vị
cơ sở có trách nhiệm trực tiếp tiếp thu tất cả những thông tin về những tư tưởng, tình
cảm, tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu của tuyệt nhân dân ở các xã, trực tiếp nắm bắt, nghiên
cứu, thực trạng tình hình mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội tại các địa bàn nông thôn của
tỉnh. Để trực tiếp giải quyết và kịp thời phản ánh lên các cơ quan lãnh đạo cấp trên của
Đảng. Đồng thời, các tổ chức đảng này có vai trò là những người quán triệt, tiếp thu tất
cả những quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính quyền các cấp và biến chúng thành phong
trào hành động cách mạng của quần chúng tại các cơ sở đó, làm cho chúng được thực thi
trong thực tiễn. Trong quá trình đưa chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà
nước các cấp đi vào cuộc sống, các tổ chức đảng này còn có trách nhiệm trực tiếp truyền
đạt đến các đối tượng nhân dân xã mình những quan điểm, chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước các cấp. Bên cạnh đó, các tổ chức đảng ở đây còn
có trách nhiệm trực tiếp triển khai, thực hiện tất cả các mặt công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, xây dựng đội ngũ đảng viên tại các đảng bộ xã mình theo chức năng, nhiệm vụ do
Điều lệ Đảng quy định, do các cấp ủy cấp trên giao cho. Các đảng bộ cơ sở này còn là
một trong những nguồn cung cấp quan trọng về đội ngũ cán bộ đã được đào luyện kỹ


năng lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn cho các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước các
cấp.
Trên cơ sở vị trí và vai trò của các đảng bộ xã tỉnh Kon Tum như trên, có thể xác
định vai trò cụ thể của đội ngũ đảng viên đang hoạt động ở các đảng bộ xã này như sau:
Một là, từng đảng viên - với tư cách là những người được tổ chức đảng phân công
thực hiện các nhiệm vụ được giao - trực tiếp liên hệ với các đối tượng nhân dân, nắm bắt
và xử lý tất cả những thông tin về mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, về những nhu cầu
bức xúc, tâm tư, nguyện vọng chính đáng và hợp pháp của tuyệt đại bộ phận nhân dân

nơi địa bàn mình phụ trách. Qua đó, họ phản ánh, báo cáo trực tiếp với chi bộ, đảng bộ cơ
sở những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Mặt khác, từng đảng viên truyền đạt các
quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đến
với nhân dân. Như vậy, từ việc: tiếp thu và xử lý những thông tin về thực trạng tình hình
địa phương, về tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và phản ánh đến lãnh đạo Đảng và
Nhà nước các cấp; đến việc quán triệt, tiếp thu tất cả các thông tin về lãnh đạo, chỉ đạo và
hướng dẫn của Đảng và chính quyền các cấp trên, xử lý và truyền đạt những tiếp thu đó
về địa phương, đơn vị mình có hiệu quả… - tất cả những công việc đó đều được quyết
định bởi chính tinh thần trách nhiệm và năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ đảng
viên ở tại các đảng bộ, chi bộ của các xã đó.
Hai là, đội ngũ đảng viên là người trực tiếp đưa các chỉ thị, nghị quyết của Đảng
và Nhà nước các cấp thành chương trình hành động, kế hoạch công tác của xã, của các
đoàn thể trong xã. Mỗi đảng viên đều có cương vị công tác nhất định. Các đảng viên làm
công tác đảng có vai trò đưa các nghị quyết của cấp ủy cấp trên thành nghị quyết của
Đảng bộ, chi bộ. Các đảng viên trong các cơ quan chính quyền có vai trò cụ thể hóa, thể
chế hóa các nghị quyết của Đảng thành kế hoạch công tác, chương trình hành động của
chính quyền xã. Các đảng viên tham gia Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân truyền
đạt, lãnh đạo các tổ chức này hoạt động theo đúng chủ trương của Đảng. Đối với tỉnh
Kon Tum, vai trò này đối với đội ngũ đảng viên có mặt khó khăn, phức tạp hơn so với
đảng viên ở các nơi khác. Nhiều đảng viên, nhất là đảng viên là người DTTS trình độ văn
hóa có hạn, hiểu biết xã hội còn nhiều hạn chế, lại chủ yếu suy nghĩ theo kiểu kinh
nghiệm chủ nghĩa. Trong khi đó, đồng bào các dân tộc luôn tin tưởng, kỳ vọng vào đảng


viên, có gì chưa biết, chưa hiểu, họ hỏi đảng viên; đảng viên nói là đồng bào cho đó là
tiếng nói của Đảng và của Chính phủ.
Ba là, đội ngũ đảng viên ở đây không chỉ có trách nhiệm tổ chức lãnh đạo, chỉ
đạo, hướng dẫn, tuyên truyền, vận động, cỗ vũ và lôi cuốn quần chúng tham gia các
hoạt động cách mạng, mà còn có vai trò hành động tiên phong, gương mẫu trước quần
chúng, bằng việc xung kích, đi đầu trong tất cả các phong trào cách mạng của quần

chúng. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với đội ngũ đảng viên hoạt động ở các xã vùng
sâu, vùng xa, vùng dân tộc miền núi - nơi đa số quần chúng lao động đời sống còn rất
nhiều khó khăn, trình độ nhiều mặt còn rất thấp, nhận thức các vấn đề chủ yếu bằng
kinh nghiệm, tư duy cụ thể, bằng cách làm theo người hướng dẫn. Đảng viên là người
DTTS hướng dẫn đồng bào DTTS có hiệu quả rất cao.
Bốn là, đội ngũ đảng viên có vai trò, trách nhiệm trực tiếp tham gia tất cả các mặt
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng các đơn vị, cơ sở. Đội ngũ đảng viên tham
gia sinh hoạt chi bộ, đấu tranh thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng,
giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, tham gia các mặt công tác đảng viên như:
phân công, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng đảng viên; quản lý, kiểm tra, phân tích chất
lượng đảng viên; tham gia xây dựng chi bộ, đảng bộ trong sạch, vững mạnh; tổ chức vận
động quần chúng đóng góp, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và các tổ
chức mặt trận, đoàn thể nhân dân. Đảng viên còn vận động, tổ chức, tạo mọi điều kiện
thuận lợi để quần chúng được thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của công dân, phát huy
đầy đủ quy chế dân chủ ở cơ sở cấp xã, đấu tranh có hiệu quả với các hiện tượng sai trái,
tiêu cực, lãng phí, quan liêu tham nhũng trong đội ngũ cán bộ, đội ngũ đảng viên, nhất là
những đảng viên là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở cơ sở.
Năm là, đội ngũ đảng viên thay mặt tổ chức đảng, tổ chức chính quyền và nhân
dân đề xuất những ý kiến, đề đạt những nguyện vọng của cơ sở lên các cấp có thẩm
quyền. Căn cứ những ý kiến và nguyện vọng đó, các cơ quan Đảng và Nhà nước cấp trên
kịp thời bổ sung, điều chỉnh chủ trương, chính sách cho phù hợp. Đồng bào DTTS ở Kon
Tum thường có tâm lý e dè, ngại tiếp xúc với cán bộ lãnh đạo, mặc dù có nhiều tâm tư,
bức xúc hoặc có sáng kiến tốt. Hơn ai hết, đội ngũ đảng viên là người DTTS có điều kiện


gần gũi đồng bào, được đồng bào thổ lộ hết mọi suy nghĩ của mình, hiểu rõ tâm tư của
đồng bào, từ đó có căn cứ xác đáng để phản ánh với tổ chức đảng cơ sở và cấp trên…
Do đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã ở tỉnh Kon Tum có vị trí và vai trò rất
quan trọng như đã nêu trên, nên một trong những nội dung đặc biệt quan trọng công tác
xây dựng Đảng ở các đảng bộ các xã ở đây là phải thường xuyên nâng cao chất lượng đội

ngũ đảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao trong tình hình mới.
1.1.2.2. Đặc điểm của đội ngũ đảng viên là người dân tộc thiểu số của các đảng
bộ xã ở tỉnh Kon Tum
Trong những năm gần đây, tỉnh Kon Tum tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ dân
tộc trong HTCT, nhất là HTCT ở cơ sở. Trên cơ sở các nghị quyết, chỉ thị của Trung
ương Đảng, Tỉnh ủy đã ban hành nhiều chủ trương để xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS ở
các cấp, các ngành, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ cách mạng mới. Do
đó, đội ngũ cán bộ DTTS ngày một tăng về số lượng và được nâng cao về chất lượng.
Tổng số đảng viên là người DTTS của các đảng bộ xã ở tỉnh Kon Tum tính đến
ngày 31-12-2008 là 4.641 đảng viên, chiếm tỷ lệ 29,8 % so với tổng số đảng viên trên
toàn tỉnh (15.566 đảng viên). Đây là một tỷ lệ khá đối với vùng dân tộc - miền núi Tây
Nguyên, điều kiện tự nhiên vừa có mặt thuận lợi lại xen lẫn không ít những khó khăn,
nhất là đối với tỉnh duy nhất hiện nay của Tây Nguyên có đồng bào các DTTS chiếm quá
nửa dân số (53,94 %). Trong khi số cán bộ, công chức từ cấp huyện trở lên là người các
DTTS chỉ chiếm 16,06 % tổng số cán bộ, công chức cùng cấp, nhưng ở cấp cơ sở thì tỷ lệ
này 61,61 %. Đa số cán bộ có trình độ văn hóa cấp phổ thông cơ sở và trung học cơ sở
(chiếm 87 %); trình độ chuyên môn đại học, cao đẳng chiếm một tỷ lệ hết sức nhỏ (1,3%),
chưa qua đào tạo chiếm 92,2% (xem phụ lục 11).
Năm 2005, Kon Tum có 1.301 đảng viên nữ, chiếm 0,34% tổng số đảng viên là
người DTTS của tỉnh, đến năm 2008 lượng nữ đảng viên lên đến 1.578 đảng viên, chiếm
0,34% tổng số đảng viên là người DTTS của tỉnh. (xem phụ lục 11).
Năm 2008 còn tới 2.692 đảng viên có trình độ phổ thông cơ sở trở xuống chiếm
0,58% so với tổng số đảng viên là người DTTS toàn tỉnh. Số đảng viên này chủ yếu sống
và làm việc ở các xã nông thôn. Hiện nay, số đảng viên đã được học qua chương trình
cao cấp và đại học chính trị là 46 người chiếm 0,009% tổng số đảng viên của tỉnh, trong


đó đa số thuộc diện cán bộ lãnh đạo chủ chốt đương chức của cấp xã; họ theo học chủ
yếu các lớp tại chức và đa phần học trong mười năm trở lại đây. Còn về trình độ chuyên
môn: cao đẳng và đại học là 60 người, chiếm 0,01% so tổng số đảng viên là người DTTS

của tỉnh (xem phụ lục 11).
Đội ngũ đảng viên là người DTTS thuộc các đảng bộ xã ở đây có một số đặc điểm
chủ yếu như sau:
Một là, hầu hết được rèn luyện và trưởng thành trong phong trào cách mạng của
quần chúng ở cơ sở, nhất là phong trào nông dân các xã của tỉnh Kon Tum. Dù họ được
phân công công tác trong tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận và đoàn thể hay ở các tổ
chức kinh tế, văn hóa - xã hội ở cơ sở, nhưng tất cả đều có những điểm rất chung là: đều
sinh ra, lớn lên chủ yếu ở nông thôn; cuộc sống của họ gắn bó chặt chẽ với thôn, bản,
làng; có sự ràng buộc khá chặt chẽ bởi quan hệ họ hàng quyến thuộc. Vì vậy, họ là những
người nắm rất vững tâm tư, nguyện vọng của nhân dân lao động ở các xã, nhất là nông
dân. Thông qua sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của đảng bộ, chi bộ ở đó, họ thực sự là
những chiếc cầu trực tiếp nối liền Đảng với dân, giữa TCCSĐ với các cấp trên của Đảng.
Đó cũng là một trong những cơ sở khách quan để họ có thể thực sự trở thành những đại
biểu trung thành lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động sống ở các xã của tỉnh Kon
Tum.
Hai là, do trưởng thành trực tiếp từ thực tiễn, nhất là ở những vùng, khu vực đặc biệt
khó khăn, nên đảng viên là người DTTS ít được đào tạo qua trường lớp một cách bài bản và
có hệ thống, Do họ xuất thân từ nông dân, nên trình độ nhận thức của họ nhìn chung là thấp;
cách nghĩ, cách nhìn nhận vấn đề thường không sâu; phương pháp nhận thức và hành động
chủ yếu dựa trên kinh nghiệm, nên hiệu quả công tác không cao, tính thuyết phục của công
tác tư tưởng thấp. Có thể nói, cả trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị, chuyên môn,
nghiệp vụ của một bộ phận khá đông đảng viên ở đây nhìn chung là hạn chế, còn một
khoảng cách khá xa mới có thể theo kịp trình độ của đảng viên người Việt và đáp ứng đòi
hỏi của thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Đáng suy nghĩ hơn là, mặc dù trình độ mọi mặt của
đảng viên là người DTTS còn hạn chế, nhưng một số lớn ngại học tập, nâng cao trình độ, tự
bằng lòng với trình độ hiện tại; một số có nguyện vọng học thêm, nhưng hoặc là không có


điều kiện (bận việc nhà, trường lớp ở xa), hoặc thiếu kiến thức, bằng cấp để học lên bậc
cao hơn.

Ba là, đội ngũ đảng viên ở đây phần đông vào Đảng từ sau năm 1975. Chỉ còn một
số đảng viên trưởng thành trước năm 1975, còn tham gia sinh hoạt đảng và sinh sống ở
đây. Nếu ở các đảng bộ thị trấn, phường trong tỉnh số đảng viên cao tuổi hoặc đã nghỉ
hưu khá đông, thì ở các đảng bộ xã ở Kon Tum còn quá ít đảng viên cao tuổi đời, nhiều
tuổi đảng. Thực tế đó tạo cho các đảng bộ các xã ở Kon Tum vừa có thuận lợi là tỷ lệ
đảng viên trẻ hoạt động ở các đảng bộ xã cao, nhưng cũng có khó khăn do thiếu sự dìu
dắt, giúp đỡ của thế hệ đảng viên lớn tuổi.
Bốn là, có khá đông đảng viên đang được giữ những trọng trách ở cơ sở, nhất là
cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở các xã, không thật yên tâm làm việc lâu dài ở cơ sở.
Nhiều người trong số họ tìm mọi cách để được làm việc ở cấp trên. Thực tế nhiều năm
qua cho thấy, những đảng viên có năng lực, có triển vọng đều tính chuyện lên cơ quan
cấp trên công tác. Trong khi đó, cán bộ ở cấp trên lại thường rất ngại xuống công tác, làm
việc ở cơ sở, do nhiều lý do khách quan, chủ quan khác nhau. Trừ một số trường hợp cá
biệt, còn phần đông đảng viên buộc phải xuống làm việc ở cơ sở do không còn cách để
chọn lựa, chứ ít thấy đảng viên tự giác, tự nguyện, xung phong xuống làm việc ở các xã.
Đây là thực trạng đang làm cho sự thiếu hụt cán bộ giỏi ngày càng thường xuyên hơn ở
các xã của Kon Tum, nhất là những vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
1.1.2.3. Nguồn phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số của các đảng bộ
xã ở tỉnh Kon Tum
Xuất phát từ những đặc điểm trên, từ ngày tái thành lập tỉnh đến nay, Đảng bộ tỉnh
Kon Tum luôn quan tâm củng cố, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh đáp ứng nhiệm
vụ chính trị trong từng giai đoạn. Việc tăng cường công tác phát triển đảng viên, làm cho
đội ngũ đảng viên tiếp tục được bổ sung cả về số lượng và chất lượng; phát triển đảng
viên mới đều ở các khu vực, đã chú trọng phát triển đảng viên là nữ, là người DTTS, là
đoàn viên thanh niên, trong lực lượng công nhân ở các lâm, nông trường, ở những nơi
còn ít hoặc “trắng” đảng viên.
Công tác tạo nguồn phát triển Đảng được chú trọng hơn, nhiều cấp ủy huyện và
cấp xã tiến hành đánh giá, phân tích chất lượng quần chúng cảm tình Đảng của từng chi



bộ, đảng bộ; tăng cường công tác giáo dục, chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và
quần chúng nhân dân, nhất là chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước, với việc
tiếp tục thực hiện Chỉ thị 23-CT/TW của Ban Bí thư “Về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên
truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới”; tuyên truyền, giáo dục làm
cho nhân dân thấy rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, từ đó nâng
cao cảnh giác cách mạng, không nghe, không làm theo sự xúi giục, lôi kéo của kẻ xấu.
Hầu hết các cấp ủy, tổ chức đảng đã tiến hành phân công đảng viên ở khu vực dân
cư phụ trách nhóm hộ, nhóm hộ đã kịp thời phát hiện những nhân tố tích cực, xây dựng
lực lượng cốt cán ở thôn, làng và xem đây là nguồn cơ bản phát triển Đảng. Phần lớn
những quần chúng đưa vào nguồn được lựa chọn chặt chẽ, là những người tiêu biểu, đủ
tiêu chuẩn theo quy định của Điều lệ Đảng và Quy định 57-QĐ/TW của Bộ Chính trị
khóa X.
Tính từ đầu nhiệm kỳ đến tháng 6-2008, toàn Đảng bộ đã kết nạp được 2.735 đảng
viên, đạt 78,14% so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XIII Đảng bộ tỉnh đề ra (chỉ tiêu trên
3.500). Trong đó, số kết nạp đảng viên ở cấp xã (tính từ tháng 4-2006) có 1.325 đồng chí,
chiếm 48,45% tổng số đảng viên được kết nạp; trong số 1.325 đảng viên kết nạp ở cấp
xã, có 904 đồng chí (chiếm 68,22%) là nguồn phát triển Đảng ở thôn, làng, tổ dân phố;
trong đó, nguồn tại chỗ để xóa thôn, làng chưa có đảng viên chiếm 13,27% và 16,81% để
xóa thôn, làng chưa có tổ chức đảng. [6, tr. 3].
Công tác phát triển đảng viên mới tập trung ở những nơi thuận lợi, chưa có giải
pháp hữu hiệu phát triển ở vùng dân tộc, vùng có đạo… dẫn đến còn nhiều thôn làng, tổ
dân phố “trắng” đảng viên, “trắng” tổ chức đảng. Một số nơi, chưa xác định tốt kết nạp
đảng viên là nhiệm vụ thường xuyên, còn e dè, né trách kết nạp Đảng ở vùng trọng điểm,
nơi có đông đồng bào DTTS theo đạo, vẫn còn tình trạng tổ chức đảng nhiều năm không
kết nạp hoặc kết nạp đảng viên ít. Một số cấp ủy viên, đảng viên chưa thực hiện tốt
nhiệm vụ phát triển Đảng. Một số đảng viên được điều chuyển, tăng cường về nơi chưa
có hoặc có ít đảng viên chưa nhiệt tình, thiếu năng động thực hiện nhiệm vụ được giao.
1.2. CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU
SỐ CỦA CÁC ĐẢNG BỘ XÃ Ở TỈNH KON TUM HIỆN NAY – QUAN NIỆM VÀ
TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ



1.2.1. Quan niệm về chất lượng đảng viên là người dân tộc thiểu số của các
đảng bộ xã ở tỉnh Kon Tum
1.2.1.1. Chất lượng đảng viên
Khái niệm chất lượng
Chất lượng luôn là vấn đề quan trọng nhất trong đánh giá các sự vật, quá trình và
con người, nhưng chất lượng vẫn là một khái niệm khó định nghĩa và đến nay vẫn có
những cách hiểu không hoàn toàn nhất quán, do xuất phát từ những góc độ tiếp cận khác
nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ biên soạn Nhà xuất bản Đà Nẵng
phát hành năm 1999, chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một
sự vật, sự việc. Như vậy, chất lượng có thể được hiểu: thứ nhất, là tổng hợp những phẩm
chất, tính chất (thuộc tính tạo nên cái giá trị của một con người, một sự vật, hiện tượng);
thứ hai, những phẩm chất đó đáp ứng đến đâu những yêu cầu đặt ra. Nói cách khác, chất
lượng là sự phù hợp với các tiêu chuẩn (tiêu chí, thông số kỹ thuật) được quy định trước
đó.
Quan niệm về đảng viên
Khái niệm “đảng viên” bao hàm hai mặt: cá nhân một con người mang danh hiệu
đảng viên và một thành viên của Đảng (của một tổ chức đảng cụ thể và của toàn Đảng
nói chung). Người đảng viên chỉ xứng đáng với danh hiệu cao quý của mình khi làm tròn
bổn phận trên cả hai tư cách đó, nhờ vào cả sự phấn đấu của bản thân lẫn sự giúp đỡ, tạo
điều kiện của tổ chức đảng.
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là những chiến sĩ cách mạng tiên phong, ưu tú,
tự nguyện, tự giác gắn kết chặt chẽ với nhau trong tổ chức đảng, dựa trên sự giác ngộ lý
tưởng cộng sản, sự tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt và hoạt động
của Đảng - đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục
đích, lý tưởng của Đảng, phấn đấu vì một nước Việt Nam độc lập, dân chủ và giàu mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, thực hiện thành công CNXH và cuối cùng là chủ nghĩa
cộng sản.



Vì vậy, người muốn trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam cần hiểu rõ các
điều kiện được xét để kết nạp vào Đảng, tự giác và nỗ lực phấn đấu, rèn luyện để đáp ứng
đầy đủ các tiêu chuẩn, điều kiện cần thiết đó.
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam cần hiểu rõ tư cách người đảng viên để
không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, luôn luôn xứng đáng với danh hiệu người đảng viên
cộng sản.
Khái niệm chất lượng đảng viên
Từ khái niệm chất lượng nói chung có thể hiểu, chất lượng đảng viên là tổng
hợp của bốn yếu tố: phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ học vấn và năng
lực hoạt động thực tiễn đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn của người đảng viên cộng sản.
Trong đó:
Phẩm chất chính trị của đảng viên là tổng hợp các đặc tính cá nhân về chính trị,
bao gồm ý thức chính trị và hành vi chính trị của người đảng viên. Ý thức chính trị của
đảng viên là sự giác ngộ về lý tưởng cộng sản; sự hiểu biết, tin và sẵn sàng làm theo.
Giác ngộ chính trị của đảng viên là sự hiểu biết, tin tưởng và sẵn sàng phấn đấu hy sinh
vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân. Để có sự giác ngộ chính trị,
người đảng viên phải trải qua quá trình tu dưỡng (tức là quá trình tự nhận thức), quá trình
rèn luyện trong thực tiễn đấu tranh cách mạng một cách bền bỉ, lâu dài để xây dựng và
củng cố niềm tin, từ đó sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ được Đảng giao. Sự giác ngộ về
chính trị là cơ sở để hình thành ý thức chính trị và nuôi dưỡng ý chí cách mạng của người
đảng viên. Ý thức chính trị là điều kiện tiên quyết và quyết định hành vi chính trị của đảng
viên.
Hành vi chính trị là hành động mang tính chất chính trị, trong các hoạt động
chính trị của người đảng viên. Trong mọi lĩnh vực công tác, chiến đấu, lao động và
học tập, đảng viên phải luôn hành động một cách có ý thức, có mục đích đúng đắn
và rõ ràng. Họ luôn là người gương mẫu đi đầu trong thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; tích cực tuyên truyền, vận
động nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị và đấu tranh với những biểu hiện

tiêu cực về chính trị.


Trong thực tiễn, khi đánh giá phẩm chất chính trị của đảng viên thường tập trung
vào ba yếu tố sau: sự giác ngộ chính trị; bản lĩnh chính trị, thể hiện ở lòng trung thành,
đức hy sinh và sự kiên định lập trường vô sản; vai trò tiên phong, gương mẫu trong thực
hiện nhiệm vụ.
Phẩm chất đạo đức của người đảng viên bao gồm ý thức đạo đức và hành vi đạo
đức. Ý thức đạo đức được hiểu là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương
tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng... và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành
vi ứng xử giữa cá nhân với tổ chức và xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội.
Theo đó, ý thức đạo đức của đảng viên là những quan niệm của đảng viên về chuẩn mực
sống, chuẩn mực quan hệ xã hội giữa người và người; về tốt và xấu, thiện và ác, chân thật
và giả dối... Những quan niệm đó được khái quát thành hệ thống quy tắc đối nhân xử thế
và hình thành hệ quan điểm về các phẩm chất đạo đức. Ý thức đạo đức của đảng viên là ý
thức đạo đức cộng sản, ý thức đạo đức XHCN.
Ý thức đạo đức bao gồm tri thức về giá trị và định hướng giá trị đạo đức, tình cảm
và lý tưởng đạo đức, ý chí đạo đức. Trong ý thức đạo đức, tình cảm đạo đức có vị trí đặc
biệt quan trọng. Bởi vì, một khi không có tình cảm đạo đức thì mọi quan niệm, mọi chuẩn
mực, mọi định hướng giá trị về đạo đức đều không thể chuyển thành hành vi đạo đức.
Hành vi đạo đức là được biểu hiện của ý thức đạo đức thông qua các hành vi ứng
xử thực tế của con người theo niềm tin đạo đức trong mối quan hệ giữa người với người
dưới hình thức trực tiếp lẫn hình thức gián tiếp.
Hành vi đạo đức của đảng viên là hành động của người đảng viên trước cái tốt và
cái xấu; cái đúng, cái sai; cái thiện, cái ác, trong các hoàn cảnh cụ thể khác nhau, do ý
thức đạo đức và thái độ đạo đức quy định. Thái độ đạo đức là thái độ yêu hay ghét, ủng
hộ hay phê phán đối với cái thiện, cái ác; cái đẹp, cái xấu; cái tiến bộ, cái lạc hậu...; là
thái độ đối với đồng chí, đồng nghiệp, gia đình, bạn bè và quần chúng... Thái độ và hành
vi đạo đức khi được thiết lập ổn định thì trở thành một bộ phận trong lối sống của đảng
viên. Lối sống là cung cách sinh hoạt, hoạt động, ứng xử đã ổn định, trở thành đặc điểm

riêng (hay phong cách riêng) của cá nhân; là phần biểu hiện rõ nét nhất đạo đức cá nhân.
Do vậy, khi nhận xét, đánh giá phẩm chất đạo đức đảng viên phải chú trọng xem xét lối
sống của họ và thường là nhìn nhận qua lối sống của từng đảng viên.


×