Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN một số biện pháp nâng cao khả năng viết chữ đẹp cho học sinh lớp một

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.2 KB, 21 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH XUÂN – HÀ NỘI
TRƯỜNG TIỂU HỌC THANH XUÂN TRUNG
-------------------------------------------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG VIẾT CHỮ
ĐẸP CHO HỌC SINH LỚP 1

MÔN: TIẾNG VIỆT

Tên tác giả : Bùi Thị Mỳ
Chức vụ

: Giáo viên Tiểu học
(Tài liệu có kèm theo đĩa CD)

NĂM HỌC 2011 - 2012


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Là một người giáo viên đặc biệt là giáo viên Tiểu học chắc hẳn ai cũng
nhận thức được tầm quan trọng của chữ viết trong hoạt động giáo dục. Người
xưa có câu: “Nét chữ - nết người”. Song việc rèn chữ viết cho học sinh như thế
nào? Biện pháp để nâng cao khả năng viết chữ đẹp cho học sinh ra sao? Thì
không phải người giáo viên nào cũng quan tâm đến.
Viết chữ đẹp không chỉ là mong muốn của người giáo viên đối với học
sinh mà còn là mơ ước, nguyện vọng, là mong muốn của tất cả mọi người.
Nhưng hiện nay số lượng học sinh viết chữ đẹp có thể nói là còn khá khiêm tốn.
Có rất nhiều bậc phụ huynh còn kêu ca phàn nàn về chữ viết của con em mình.
Có em học hết lớp 5, lớp 9, hoặc hết lớp 12 vào Đại học, chữ xấu đến mức


không thể chấp nhận được. Trong các kì thi số học sinh bị điểm kém do nguyên
nhân chữ viết và trình bày tùy tiện cẩu thả chiếm một tỉ lệ không nhỏ. Vì sao
như vậy?
- Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay, một số bậc cha mẹ vì
mải lo làm ăn, củng cố địa vị xã hội nên ít có thời gian chăm lo đến con cái. Việc
chăm lo đến những chuyện ăn, uống, sinh hoạt, học tập của trẻ thay vì cha mẹ
chăm sóc con đã được “chuyển giao” cho những người giúp việc gia đình,
những “gia sư”… và một thực tế đáng buồn khác đó là phần lớn yêu cầu của họ
đối với gia sư là nâng cao chất lượng giỏi văn, toán, ngoại ngữ cho học sinh,
không mấy ai yêu cầu gia sư giành một buổi trong tuần đã rèn chữ cho con em
họ. Đồng thời quan điểm dùng vi tính thay cho việc soạn thảo văn bản bằng tay
cũng là quan điểm của không ít gia đình có kinh tế hiện nay.
- Sử dụng không đồng bộ về bút viết: Cách đây 10-20 năm phần lớn học
sinh tiểu học chỉ sử dụng loại bút tre chấm mực, ưu điểm của loại bút này là nét
chữ mềm, để viết được nét thanh nét đậm, trong loại bút này để gây bẩn vở, tay,
áo… nên đã dần dần được thay đổi bằng các loại bút khác như bút bi, bút dạ
kim, bút bi nước và ưu điểm là: sạch, Nhược điểm: cứng và không thể hiện được
nét thanh nét đậm.
2


- Sử dụng không đồng bộ về vở viết: vở viết ngày nay giấy mỏng, chất
lượng kém, viết bị nhòe, dòng kẻ chưa phù hợp lắm với chương trình giảng dạy,
giáo viên vừa phải luyện trên vở tập viết qui định vừa phải hướng dẫn học sinh
viết vở ôli điều đó khiến việc rèn chữ trở nên mất thời gian mà hiệu quả đạt
được còn hạn chế.
- Đội ngũ giáo viên, giáo viên tiểu học nói chung và giáo viên đầu cấp nói
riêng đặc biệt phải quan tâm tới chữ viết của mình nhất là chữ viết trên bảng và
trong vở học sinh đó chính là tiêu chuẩn để học sinh làm theo.
Là một giáo viên tiểu học dạy lớp một nhiều năm tôi rất băn khoăn về

những vấn đề còn tồn tại trên. Vì thế tôi chọn và thực hiện nghiên cứu đề tài
“Một số biện pháp nâng cao khả năng viết chữ đẹp cho học sinh lớp một” ở
địa bàn trường Tiểu học Thanh Xuân Trung – Quận Thanh Xuân- Thành phố Hà
Nội., nhằm tìm hiểu và đưa ra một số biện pháp mong rằng chất lượng viết chữ
của học sinh ngày càng đẹp hơn, giúp trẻ yêu tiếng mẹ đẻ hơn.
II. MỤC ĐÍCH - NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI:
Khi thực hiện đề tài này tôi muốn thông qua việc khả sát tình hình thực tế
dạy tập viết ở nhà trường để đưa ra những ý kiến đề xuất, những giải pháp khắc
phục tồn tại, khó khăn nâng cao hiệu quả giờ dạy tập viết ở lớp một nói riêng và
ở tiểu học nói chung.
Để đạt mục đích nghiên cứu đề tài chỉ đi sâu tìm hiểu về cơ sở khoa học
của việc thực hiện phân môn tập viết ở tiểu học, tìm hiểu các phương pháp giảng
dạy đã được vận dụng trong thực tế ở giờ tập viết lớp một. Từ đó đưa ra những
biện pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của việc rèn viết chữ đẹp cho học sinh.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Trong quá trình thực hiện đề tài tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp tìm hiểu tài liệu.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
- Phương pháp thống kê đối chiếu.
- Phương pháp phối hợp giữ các phương pháp để rút ra kinh ngiệm và tiến
hành dạy thực nghiệm, dạy đối chiếu để kiểm tra đánh giá.
3


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. VỊ TRÍ CỦA VIỆC DẠY TẬP VIẾT Ở TIỂU HỌC
1. Tập viết là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở
tiểu học. Phân môn tập viết trang bị cho học sinh bộ chữ cái La tinh và những
yêu cầu kỹ thuật để sử dụng bộ chữ cái đó trong học tập và giao tiếp. Với ý

nghĩa này, tập viết không những có quan hệ mật thiết với chất lượng học tập các
môn khác mà còn góp phần rèn luyện một trong những kỹ năng hàng đầu của
việc học tiếng Việt trong nhà trường - kỹ năng viết chữ. Nếu viết chữ đúng mẫu
rõ ràng, tốc độ nhanh thì học sinh có điều kiện ghi chép bài học tốt, như vậy kết
quả học tập sẽ cao hơn. Viết xấu, tốc độ chậm sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới chất
lượng học tập.
2. Học vần, tập đọc giúp cho việc rèn năng lực đọc thông, tập viết giúp
cho việc rèn năng lực viết thạo. Để làm chủ tiếng nói về mặt văn tự, người học
phải rèn cho mình năng lực đọc thông viết thạo văn tự đó. Hai năng lực này có
quan hệ mật thiết với nhau. Học sinh học tiếng Việt phải đọc thông viết thạo chữ
quốc ngữ. Đây chính là điểm khác biệt giữa người được học tiếng Việt.
3. Tập viết là phân môn có tính chất thực hành. Trong chương trình không
có tiết học lý thuyết, chỉ có các tiết rèn luyện kỹ năng. Tính chất thực hành có
mục đích của việc dạy học tập viết cũng góp phần khẳng định vị trí quan trọng
của phân môn này ở trường tiểu học.
Ngoài ra tập viết còn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện học sinh
những phẩm chất đạo đức tốt như, tính cẩn thận, tinh thần kỷ luật, khiếu thẩm
mỹ.
II. NHIỆM VỤ CỦA PHÂN MÔN TẬP VIẾT
Phân môn tập viết ở tiểu học truyền đạt cho học sinh những kiến thức cơ
bản về chữ viết, kỹ thuật viết chữ. Trong các tiết tập viết, học sinh nắm bắt được
các trí thức cơ bản về cấu tạo bộ chữ la tinh ghi âm tiếng Việt, sự thể hiện bộ
chữ cái này trên bảng, vở… đồng thời được hướng dẫn các yêu cầu kỹ thuật viết
nét chữ, chữ cái, viết từ và câu…
4


Viết chữ trong phân môn tập viết thuộc giai đoạn đầu của kỹ năng viết.
Giai đoạn đầu của quá trình viết chữ trong phân môn này dòn trọng tâm vào việc
dạy viết chữ cái và liên kết chữ cái để ghi tiếng. Ở những lớp trên và giai đoạn

cuối lớp 1, song song với việc rèn chữ viết chữ cái viết hoa, học sinh còn được
rèn viết văn bản. Viết văn bản là viết chính tả ở các thể loại tập chép, nghe- viết
và nhớ - viết. Học sinh nhìn một đoạn mẫu và chép, cao hơn là nhớ lại một đoạn
văn, đoạn thơ đã học và chép lại.
Nhiệm vụ của phân môn tập viết gồm hai phần việc liên quan chặt
chẽ với nhau:
Về trí thức: Dạy học sinh những khái niệm cơ bản về đường kẻ, dòng kẻ,
tọa độ chữ viết, tên gọi các nét chẽ, cấu tạo chữ cái, vị trí dấu thanh, dấu phụ,
các khai niệm liên kết nét chữ hoặc liên kết chữ cái… Từ đó hình thành ở các
em những biểu tượng về hình dáng, độ cao, sự cân đối, tính thẩm mỹ của chữ
viết.
- Về kỹ năng: Dạy học sinh các thao tác viết chữ từ đơn giản đến phức
tạp, bao gồm kỹ năng viết nét, liên kết nét tạo thành chữ cái và liên kết chữ cái
tạo chữ ghi tiếng, đồng thời giúp các em xác định khoảng cách, vị trí, cỡ chữ
trên vở kẻ ô li để hình thành kỹ năng viết đúng mẫu, rõ ràng và cao hơn là viết
nhanh, đẹp.
Ngoài ra tư thế ngồi viết, cách cầm bút, đặt vở, cách trình bày bài viết
cũng là một kỹ năng đặc thù của việc dạy tập viết mà giáo viên cần thường
xuyên quan tâm.
III. NHỮNG CƠ SỞ CỦA VIỆC DẠY TẬP VIẾT
* Để dạy tập viết một cách có mục đích, có kế hoạch người dạy cần
tuân thủ một số nguyên tắc sau:
1. Nguyên tắc đảm bảo sự phối hợp đồng bộ của các bộ phận cơ thể
tham gia vào việc viết chữ:
Quá trình tập viết có quan hệ đến nhiều bộ phận trong cơ thể học sinh. Tư
thế ngồi viết có quan hệ đến cả ngón tay, bàn tay và cánh tay. Hình dáng, kích
thước chữ trong vở tập viết có quan hệ đến mắt các em…
5



Viết tập viết không đảm bảo các quy định được xây dựng trên cơ sở khoa
học sẽ để lại nhiều di hại suốt đời cho học sinh: mắt cận thị do ngồi viết ở nơi
thiếu ánh sáng, hoặc cúi đầu sát vở, cột sống bị vẹo, lưng gù, phổi bị ảnh hưởng
… do ngồi không đúng tư thế. Vì vậy khi hướng dẫn học sinh tập viết cần coi
việc phối hợp đồng bộ các bộ phận cơ thể là một nguyên tắc đặc thù.
Kỹ năng viết của học sinh chỉ thực sự có được khi có sự phối hợp đồng bộ
của các bộ phận cơ thể. Việc đánh giá sản phẩm chữ viết cần phải được kết hợp
với việc theo dõi quá trình viết của các em. Chu trình viết chữ của trẻ thực chất
là quá trình vận động của việc viết bằng toàn thân đến việc viết bằng ba ngón
tay một cách thoải mái, chủ động…
2. Nguyên tắc coi việc dạy tập viết là dạy hình thành một kỹ năng.
Việc rèn luyện kỹ năng đòi hỏi người học phải tri giác chính xác sản
phẩm, nắm vững các thao tác kỹ thuật và kiện trì lặp đi lặp lại các thao tác đó.
Chữ viết tiếng Việt là hệ thống chữ cái La tinh ghi âm, mỗi nhóm chữ cái có
những đặc điểm riêng, nên quy trình thực hiện các thao tác ở từng nhóm cũng
không giống nhau. Do đó khi rèn luyện kỹ năng viết chữ cho học sinh phải nắm
được hình dáng, đặc điểm từng chữ cái, các thao tác viết các nhóm chữ cái và
từng chữ (thao tác viết nhóm chữ nét cong khác thao tác viết nhóm chữ nét
khuyết…) và phải luyện tập liên tục nhiều lần trên vở tập viết.
Để hình thành kỹ năng viết chữ cho học sinh, việc dạy tập viết phải trải
qua hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: Giai đoạn này hình thành và xây dựng biểu tượng về chữ
viết, giúp các em hiểu và ghi nhớ được hình dáng, kích thước, quy trình viết
từng chữ cái. Các hiểu biết này giúp học sinh viết chữ một cách tự giác. Nhờ vậy
kết quả đạt được sẽ nhanh và chức chắn hơn.
Giai đoạn 2: Đây là giai đoạn củng cố, hoàn thiện biểu tượng về chữ viết
thông qua các hình thức luyện chữ viết. Giai đoạn này hướng dẫn các em luyện
viết các chữ cái, liên kết các chữ để luyện viết từ cao hơn là luyện viết câu ứng
dụng.


6


* Muốn dạy tập viết đạt hiệu quả cao ngoài việc tuân thủ hai nguyên
tắc trên giáo viên cần chủ ý vận dụng một số phương pháp dạy tập viết sau:
1. Phương pháp trực quan:
Giáo viên khắc sâu biểu tượng về chữ cho các em bằng nhiều con đường:
kết hợp mắt nhìn, tai nghe, tay luyện. Điều này giúp các em chủ động phân tích
hình dáng , kích thước và cấu tạo mẫu chữ, tìm sự giống nhau và khác nhau của
chữ cái đang học với chữ cái đã học trước đó trong cùng một nhóm bằng thao
tác so sánh tương đồng.
Mẫu thức là thức trực quan ở tất cả các bài tập viết. Đây là điều kiện đầu
tiên để các em viết đúng. Có các hình thức chữ mẫu: chữ mẫu in sẵn, chữ phóng
to trên bảng, chữ mẫu trong vở tập viết, hộp chữ mẫu. Tiêu chuẩn của chữ mẫu
là phải đúng mẫu chữ quy định rõ ràng và đẹp.
2. Phương pháp đàm thoại gợi mở:
Giáo viên dẫn dắt học sinh tiếp xúc với các chữ sẽ học bằng một hệ thống
câu hỏi, từ việc hỏi về các nét cấu tạo chữ cái, độ cao, kích thước chữ cái… vai
trò của người giáo viên ở đây là người tổ chức hướng dẫn học sinh phân tích câu
tạo chữ cái, chuẩn bị cho giai đoạn luyện tập viết chữ tiếp theo.
3. Phương pháp luyện tập thực hành
Việc hướng dẫn học sinh luyện tập thực hành phải tiến hành từ thấp đến
cao giúp học sinh dễ tiếp thu. Lúc đầu là việc viết đúng hình dáng, cấu tạo, kích
thước các cỡ chữ, sau đó là viết đúng dòng và đúng tốc độ quy định, việc rèn
luyện kỹ năng viết chữ phải được tiến hành đồng bộ ở trường cũng như ở nhà, ở
phân môn tập viết cũng như ở các phân môn của bộ môn Tiếng Việt và các môn
học khác. Cần lưu ý các hình thức luyện tập cơ bản sau:
- Tập viết chữ (chữ cái, chữ số, từ ngữ, câu) trên bảng lớp. Hình thức tập
viết chữ trên bảng đen có tác dụng kiểm tra sự tiếp thu cách viết chữ và bước
đầu đánh giá kĩ năng viết chữ của học sinh.

Hình thức này thường sử dụng khi kiểm tra bài chữ hoặc sau bước giải
thích cách viết chữ, bước luyện tập viết chữ ở lớp. Qua đó giáo viên phát hiện

7


chỗ sai của học sinh (hình dáng, kích thước, viết các nét…) để uốn nắn chung
cho cả lớp hoặc đánh giá cho điểm.
- Tập viết chữ vào bảng con của học sinh:
Học sinh luyện tập viết chữ bằng phấn trên bảng con trước khi tập viết
vào vở. Khi sử dụng bảng con giáo viên cần hướng dẫn các em cả cách lau bảng
từ trên xuống, cách sử dụng và bảo quản phấn, cách lau tay khi viết để giữ vệ
sinh và nên tận dụng hai mặt bảng khi viết. Đối với lớp một cần phải có mẫu
trình bày bảng con từng nội dung để học sinh nhìn đó mà viết theo.
- Luyện tập viết chữ trong vở tập viết:
Để học sinh sử dụng có hiệu quả ở tập viết, giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ
nội dung và yêu cầu về kỹ năng của từng bài viết. Đảm bảo tốt các công việc
trên sẽ giúp các em viết bài tốt hơn ở những dòng sau.
- Luyện tập viết chữ khi học các môn khác:
Cần tận dụng việc viết bài học, bài làm ở các môn học khác để học sinh
tập viết. Đối với lớp một nói riêng, bậc tiểu học nói chung, sự nghiêm khắc của
giáo viên về chất lượng chữ viết ở tất cả các môn học là cần thiết. Có như thế,
việc luyện viết chữ mới được củng cố đồng bộ, thường xuyên. Việc làm này đòi
hỏi giáo viên ngoài những hiểu biết về chuyên môn còn cần có sự kiên trì, cẩn
thận lòng yêu nghề mến trẻ.

8


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG RÈN LUYỆN VIẾT CHỮ

ĐỐI VỚI HỌC SINH LỚP 1
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu này, tôi đã tiến hành điều tra thực tế tại
một số lớp 1 - Trường Tiểu học Thanh Xuân Trung, Thành phố Hà Nội. Trường
có 19 lớp với 850 học sinh. Là một trường mới thành lập nhưng có rất nhiều
những ưu điểm:
1. Thuận lợi:
- Cơ sở vật chất khang trang, trường nằm trên trục đường lớn, có đầy đủ
khu hiệu bộ, nhà thể chất, sân chơi rộng rãi.
- Dưới sự lãnh đạo và quan tâm của ban giám hiệu trường 2 năm liền
trường đạt danh hiệu trường tiên tiến.
- Đội ngũ giáo viên nhiệt tình với công việc quan tâm tới học sinh.
- Đa số phụ huynh nhiệt tình với công việc xã hội hoá giáo dục, chăm lo
con em mình.
2. Khó khăn:
- Chất lượng học sinh không đồng đều, học sinh ở nhiều nơi chuyển đến.
- Một số phụ huynh làm nghề tự do nên sự quan tâm của con còn hạn chế.
Mặc dù vậy qua quá trình tìm hiểu, điều tra thực tiễn (về hiện trạng giảng
dạy giờ tập viết nói chung và ở lớp một nói riêng, bằng các hình thức và phương
pháp khác nhau: dự giờ, trắc nghiệm, phỏng vấn, quan sát… tôi đã thu thập tổng
kết một số kinh nghiệm dẫn đến thực trạng như sau:
1. Quan điểm của giáo viên về giờ tập viết:
Nhìn chung giáo viên tiểu học đều coi trọng giờ tập viết, họ cho rằng đây
là một tiết khó, dạy thường ít đạt yêu cầu, thời gian cho tiết dạy thường không
đảm bảo, tốc độ viết của học sinh nhanh song thường mắc lỗi khi viết (khoảng
cách nét chữ, độ rộng hẹp của con chữ…)
2. Cách tiến hành một giờ tập viết thông thường:
Qua tìm hiểu thực tế, giáo viên dạy lớp một và các lớp khác đều có câu trả
lời chung là cách tiến hành một giờ dạy tập viết là ghi toàn bộ phần bài cần viết
lên bảng, hướng dẫn quy trình viết chữ hoa theo từng nét và qua ba bước (trên
chữ mẫu, giảng và viết trên khung chữ to, giảng và viết trên khung bài viết) học

sinh quan sát và luyện tập trên bảng con, rồi trên vở.
9


Qua tìm hiểu và dự giờ ở lớp một, tôi thấy hiện nay nhìn chung giờ tập
viết được dạy theo trình tự sau:
2.1. Kiểm tra bài cũ
2.2. Bài mới
* Hướng dẫn viết chữ hoa
- Giáo viên đưa ra chữ mẫu, phân tích cấu tạo của chữ, độ cao, chiều rộng.
- Giáo viên hướng dẫn cách viết và viết trên khung chữ to.
- Giáo viên hướng dẫn cách viết và viết lại vào bài viết trên bảng.
- Học sinh nhắc lại cấu tạo chữ và quy trình viết.
- Luyện viết vào bảng con.
- Nhận xét một số bài học sinh viết (cả đúng và sai)
* Hướng dẫn viết từ, câu ứng dụng:
- Hướng dẫn cách viết bằng cách tô lên trên chữ mẫu.
- Viết mẫu lần 2.
- Luyện tập bảng con.
- Nhận xét sửa lỗi sai của bạn về cấu tạo, hình dáng, nét viết nối, dấu
thanh, dấu phụ.
2.3. Học sinh trình bày vào vở
2.4. Củng cố
- Dựa vào các bài đã chấm điểm tại lớp, giáo viên nhận xét chữ viết của
học sinh.
- Giáo viên có thể phân tích và viết lại những chữ mà học sinh viết sai.
2.5. Hướng dẫn về nhà:
- Học sinh hoàn thành nốt phần luyện viết trong vở Tập viết.3. Những
phương pháp giáo viên thường sử dụng.
Hiện nay, ở tiểu học đã và đang sử dụng các phương pháp như trực quan,

đàm thoại gợi mở, thuyết trình, luyện tập.
3. Những phương pháp giáo viên thường sử dụng:
Hiện nay, ở tiểu học đã và đang sử dụng các phương pháp như trực quan,
đàm thoại gợi mở, thuyết trình, luyện tập.

10


CHƯƠNG 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG VIẾT CHỮ
ĐẸP CHO HỌC SINH LỚP MỘT
Từ sự nghiên cứu cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận trên, tôi nhận thấy thực
tế dạy học hiện nay chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của xã hội. Vì
thế để khắc phục những hạn chế, phát huy những ưu điểm có ở thực tế tôi xin
đưa ra một số biện pháp với mong muốn là có thể nâng cao hiệu quả khả năng
viết chữ đẹo của học sinh lớp một nói riêng và ở tiểu học nói chung. Đó là:
1. Chuẩn bị cho việc rèn chữ:
1.1. Vở: Mỗi học sinh có 3 quyển vở tập viết
- Quyển thứ nhất: trong bộ sách giáo khoa để thực hành viết trên lớp theo
quy định.
- Quyển thứ hai: (Vở ô li có chữ mẫu). Đó là quyển thực hành Tiếng Việt
dùng để rèn viết các chữ cái viết hoa và thường theo thứ tự bảng chữ cái dưới
dạng từ (cỡ vừa và nhỏ) và các từ ứng dụng cỡ nhỏ. Rèn viết và trình tự bài thơ
ở các thể loại phổ biến.
- Quyển thứ ba: Vở hỗ trợ rèn chữ dùng để rèn viết các nét chữ cơ bản
của chữ hoa và chữ thường. Rèn viết thêm các đoạn văn, các bài thơ có nhiều
chữ viết khó.
1.2. Bút: Đặt mua cho học sinh bút chì và bút mực nét hoa.
1.3. Mực: Qui định mực tím Queen.
1.4. Bảng con: Mỗi học sinh có 1 bảng Mic + phấn, giẻ lau để thực hành.
1.5. Bìa kẻ vở: cứng và mỏng kích thước đúng bằng hai trang vở của học

sinh để giữ cho vở không bị giây bẩn, không bị quăn mép.
1.6. Bút chì, thước kẻ: Giúp cho việc chữa bài: sửa lỗi, ghi lỗi khi viết
xong bài.
2. Biện pháp:
2.1. Rèn cách viết đúng các nét chữ cơ bản:
Chia chữ cái viết hoa và viết thường thành các nhóm và rèn luyện dứt
điểm (biện pháp trọng tâm).

11


Nếu cùng một lúc đòi hỏi các em viết đúng và đẹp ngay là điều khó có thể
thực hiện được, bởi vì trẻ lớp một mới bắt đầu tập viết chữ hoa. Do vậy cùng với
việc luyện viết trong vở tập viết, phần rèn chữ tăng cường tôi chia thành các
nhóm nét cơ bản sau:
- Nhóm nét móc:
Nét móc ngược trái hơi lượn ở phía trên và nghiêng về bên phải
dùng để viết các chữ hoa A,

B, P, L, N, M
Nét móc ngược phải dùng để viết các chữ hoa A, M, U,
Nét móc xuôi phải dùng để viết các chữ hoa N,
Nét móc hai đầu ngược nhau dùng để viết các chữ hoa U, ¦,
Y
- Nhóm nét cong:
Nét cong trên 2 đầu uốn vào trong dùng để viết các chữ hoa

B, P,

R

Nét cong dưới và 1/2 cong trái tạo vòng xoắn to ở đầu chữ dùng để
viết các chữ hoa C, E, G, L, S
Nét cong trái rồi lượn ngang kết hợp nét móc ngược trái trái phần

H, K, I
Nét cong kín dùng để viết các chữ hoa U, ¦, Y
cuối lượn vào trong dùng để viết các chữ hoa
- Nhóm nét khuyết
Nét khuyết trên dùng để viết các chữ thường h,

l, k

Nét khuyết dưới dùng để viết các chữ thường và chữ hoa y, g
Song song với việc luyện các nhóm nét cơ bản tôi tiến hành luyện luôn
các chữ cái viết hoa để học có liên quan đến nét đó. Luyện dứt điểm để học sinh
viết đẹp nhóm chữ này mới chuyển sang nhóm chữ khác nên học sinh phấn khởi
và say mê rèn luyện.
* Để học sinh viết được 1 cách dễ dàng, đúng và đẹp giáo viên cần hướng
dẫn học sinh xác định một số điểm đặt bút, dừng bút cho từng nét cơ bản.

12


a. Rèn chữ hoa trong từ và cụm từ ứng dụng:
Giáo viên cần đặc biệt lưu ý rèn cho học sinh viết liền nét chữ hoa với chữ
thường, khoảng cách giữa các tiếng trong từ (khoảng 1 con chữ o cùng cỡ) giữa
các từ, cụm từ (khoảng 2 con chữ o cùng cỡ), khoảng cách giữa các nét chữ
trong 1 chữ = 1/2 con chữ o cùng cỡ.
Khi viết nối chữ hoa với chữ thường cần lưu ý với các trường hợp khác
nhau sau:

* Trường hợp nối thuận lợi: Hướng dẫn học sinh đưa tiếp nét bút từ
điểm dừng của chữ hoa nối sang điểm đặt bút của chữ viết thường đứng sau theo
hướng dịch chuyển của nét bút từ trái sang phải (sử dụng kĩ thuật lia bút, rê bút).
VD:

A nối với n -> An
G nối với i -> Gi

* Trường hợp nối không thuận lợi:
VD1:

L nối với a -> La

Trường hợp nét cuối chữ hoa liên kết với chữ viết thường đứng sau. Trong
trường hợp này phải viết chữ thường sao cho có 1 điểm tiếp xúc với điểm dừng
bút của nét cuối cùng khi viết chữ hoa.
VD2:

¤ kết hợp với m -> ¤m
§ kết hợp với i -> §i

Trường hợp nét đầu của chữ thường đứng sau liên kết với chữ hoa như
trên, cần lưu ý sao cho điểm đặt bút của chữ thường tiếp xúc với chữ hoa đứng
đầu.
* Trường hợp không nối: Cần phải chú ý khoảng cách giữa chữ cái viết
hoa với chữ cái viết thường = 1/2 con chữ o cùng cỡ.
VD:

Sách
13



Vở

14


b. Rèn viết dấu chữ cái và dấu thanh
- Kĩ thuật viết dấu chữ cái: Chữ cái nào có dấu thì đánh dấu đó cân đối
trên đầu chữ điểm cao nhất của dấu không quá 1/3 đơn vị, điểm thấp nhất của
dấu không chạm vào đầu chữ cái, chiều ngang của dấu phải nhỏ hơn chiều
ngang của chữ cái.
- Kĩ thuật viết dấu thanh: Đánh dấu ghi thanh trên đầu âm chính (nếu là
âm đơn).
VD: Rõ ràng (đánh dấu ngã trên âm o, dấu huyền trên âm a).
- Đánh dấu thanh trên đầu con chữ thứ 2 (nếu là âm đôi)
VD: viết, hưởng (dấu sắc, dấu hỏi đặt trên con chữ thứ 2 của âm đôi iê,
ươ).
c. Rèn chữ trong giờ chính tả: Để làm tốt việc rèn chữ trong giờ chính tả
giáo viên phải luôn có ý thức dạy đúng qui trình của giờ học này: Rèn chữ khó
bằng bảng con và bảng lớn, rèn trình bày vào bài viết, rèn viết đúng chính tả
bằng bài tập chính tả.
Tôi xếp vở của học sinh theo từng loại.
- Vở loại A.
- Vở chưa đạt loại A(B).
- Vở chưa đạt loại B.
Dựa vào sự phân loại kể trên tôi có biện pháp giúp đỡ cụ thể cho từng
nhóm.
* Nhóm các học sinh có vở đạt loại A: Chữ viết sạch đẹp đạt tiêu chuẩn
qui định: Những học sinh nhóm này là hạt nhân trong phong trào rèn chữ của

lớp. Tôi thường xuyên tuyên dương bài viết của các em trước lớp, cho từng bàn
học sinh xem chữ viết của bạn để học tập. Phân tích cho lớp biết tại sao bài viết
của bạn được cô ghi điểm cao để học sinh rút kinh nghiệm bài viết của mình.
Tạo điều kiện để các em nhóm này được viết bảng trên lớp giờ tập viết, được lên
bảng chữa bài trong giờ toán và các giờ học khác để các bạn học tập chữ viết và
cách trình bày bài. Cuối tháng qua xếp loại vở tôi kết hợp với bạn phụ huynh lớp

15


có phần thưởng thiết thức động viên, khích lệ các em tiếp tục nâng cao việc rèn
chữ của mình.
* Nhóm các học sinh có vở loại A(B) (gần đạt tiêu chuẩn) vở của những
học sinh này chữ viết đúng chính tả, sạch nhưng chưa chính xác về kĩ thuật viết
chữ, chữ chưa đều, nét chữ chưa liền mạch, khoảng cách chữ chưa đúng qui định
ở một số bài viết: với những học sinh này tôi kết hợp chặt chẽ với phụ huynh
học sinh động viên các em tích cực rèn chữ theo hướng dẫn của cô trên lớp
(nghe cô phân tích cấu tạo, cách viết, cách khắc phục nhược điểm ở một số chữ
viết khó mà học sinh hay mắc phải). Ở nhà phụ huynh học sinh giám sát, động
viên các em khắc phục những chữ các em viết chưa tốt ở lớp qua vở tập viết 2,
chính tả 2.
* Nhóm học sinh có vở loại B (Chưa đạt tiêu chuẩn)
Vở của các học sinh này có bài viết còn mắc lỗi chính tả (2 – 3 lỗi các
dạng) chữ viết chưa đúng kĩ thuật, bài trình bày chưa sạch, đẹp. Với những học
sinh ở nhóm này tôi thường xuyên quan sát, kiểm tra bài viết của các em trên lớp
về ở nhà, chấm chữa kĩ càng để vạch ra những lỗi chính tả, lỗi kĩ thuật, lỗi trình
bày và hướng dẫn cụ thể cách sửa chữa phù hợp giúp học sinh sữa chữa, hạn chế
sai sót. Với những học sinh này tôi kết hợp với phụ huynh tăng thêm các bài tập
viết chữ cái, từ ứng dụng.
d. Cách cầm bút, vị trí đặt vở và cánh tay khi viế, tư thế ngồi viết.

Trong mỗi giờ, nhất là khi học sinh luyện chữ viết, giáo viên cần luôn
luôn chú ý uốn nắn để các em cầm bút và ngồi viết đúng tư thế. Bài viết đẹp
phải đi kèm với tư thế đúng, rèn cho trẻ viết đẹp mà quên mất việc uốn nắn cách
ngồi viết là một thiếu sót lớn của giáo viên. Quan sát các em viết bài tôi phát
hiện ra vì sao khi viết các em hay cúi sát vở và nghiêng đầu 1 bên. Nguyên nhân
là do các em cầm bút quá thấp, các ngón tay cầm bút che khuất chữ viết và dòng
kẻ nên khi viết phải cúi thấp và nhìn ngiêng mới thấy chữ và dòng kẻ. Hơn nữa
khi viết các em ghì ngón tay cầm bút rất chặt, nên khi viết chóng mỏi tay. Trong
khi viết các em cũng chưa biết làm thế nào để di chuyển tay một cách linh hoạt
từ bên trái sang bên phải để viết, do đó quyển vở còn bị xoay đi xoay lại. Để làm
16


tốt việc này và để cho công việc viết chữ trở lên đơn giản giáo viên cần hướng
dẫn học sinh cầm bút bằng ba ngón tay theo qui định, dùng 2 ngón út và áp út
gấp nhẹ lại làm điểm tự rê nhẹ bàn tay trong quá trình viết. Đồng thời khi viết
cần lưu ý đặt cả cánh tay lên bàn nhưng không ấn mạnh cả cánh tay xuống mặt
bàn, viết hết 1 chữ hay hết 1 dòng đều phải di chuyển tay nhẹ nhàng và di
chuyển vở dần lên phía trên.
Cứ đều đặn mỗi giờ viết bài trên lớp cô và trò lại kiên trì tập luyện về nhà
các em lại tự rèn thêm có sự giúp đỡ, động viên của cha mẹ. Cuối cùng nhiều
học sinh đã khắc phục được nhược điểm và cầm bút đúng vị trí, nét bút khi viết
được nhẹ nhàng, nhấn vừa phải, thoải mái, viết lâu mà không mỏi.
Sau đây là bảng thống kê chất lượng của lớp 1A1mà tôi đã áp dụng biện
pháp nâng cao khả năng viết chữ đẹp và lớp 1A2 không áp dụng biện pháp nâng
cao khả năng viết chữ đẹp.
Lớp
1A1
1A2


Sĩ số
51
48

9-10
48
40

%
92,3%
83,33%

17

7-8
3
7

%
6,7%
14,58

5-6
0
1

%
0%
2,02%



C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua thực nghiệm dạy học đặc biệt là qua giờ tập viết có áp dụng một số
biện pháp đã nêu ở chương 3 vào việc hướng dẫn học sinh luyện tập thực hành.
Tôi thấy kết quả thu được ở những giờ dạy này cao hẳn. Điều đó chứng tỏ rằng
để giờ dạy đạt hiệu quả cao, giáo viên cần sử dụng linh hoạt các biện pháp (lựa
chọn điểm đặt bút, dừng bút cho từng nét, cách nối giữa chữ hoa với chữ
thường…) Tuy từng bài mà áp dụng các biện pháp khác nhau để làm sao đạt kết
quả cao nhất cho mỗi giờ tập viết hay rèn chữ bởi vì
Giáo viên cần phải làm được những công việc sau:
1.1. Trước giờ dạy:
- Nắm được nội dung bài viết, xác định nét viết cơ bản có trong bài.
Nét chủ đạo trong bài là nét cong kín, liên kết giữa nét đầu của chữ
thường đứng sau với chữ hoa đứng trước (Ơ với n), khoảng cách giữa s và â.
- Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng trực quan cho bài dạy, chữ mẫu giáo viên to, rõ
ràng, đẹp.
1.2. Trong giờ dạy:
- Giáo viên phải luôn bám sát học sinh sửa chữa kịp thời những nét viết
sai, tư thế ngồi sai.
- Giáo viên phải phối hợp các phương pháp dạy thật linh hoạt, khéo léo để
giờ học không trở nên căng thẳng.
1.3. Giáo viên phải thường xuyên tự bồi dưỡng trau rồi rèn luyện chữ viết
mình luôn mẫu mực, luôn có ý thức học hỏi đồng nghiệp để tích lũy kinh
nghiệm.
Tuy nhiên biện pháp bao giờ cũng chỉ là công cụ, yếu tố con người mới
quyết định. Cụ thể ở đây là lòng nhiệt tình, yêu nghề và năng lực của giáo viên,
sự siêng năng, chăm chỉ sáng tạo của học sinh sẽ làm nên thành công cho giờ
học.
Những biện pháp nêu trên chỉ là kinh nghiệm của bản thân, chắc chắn

chưa phải là những biện pháp hay nhất, dù vậy tôi cũng xin trình bày để đồng
18


nghiệp tham khảo. Tôi mong nhận được sự góp ý và sự đồng ý của cô giáo
hướng dẫn, của các bạn đồng nghiệp để rèn chữ của chúng ta đạt được hiệu quả
như yêu cầu mà xã hội đặt ra cho ngành giáo dục.
2. Khuyến nghị:
Là một giáo viên lâu năm dạy tiểu học tôi thấy môn Tập Viết là một môn
có tầm quan trọng đặc biệt ở tiểu học, tập viết là phân môn có tính chất thực
hành do vậy tôi có một số khuyến nghị như sau:
- Vì đặc trưng của môn Tập Viết là thực hành, mà hiện nay theo phân phối
chương trình lớp một mỗi tuần 1 tiết chính khóa theo tôi là hơi ít. Do vậy để học
sinh của mình viết chữ đồng đều hơn thì người giáo viên cần linh động hơn
trong những tiết hướng dẫn học. Cũng một tiết học giáo viên có thể phân nhóm
từng đối tượng, nhóm đối ượng viết chưa đẹp thì luyện viết, nhóm đối tượng non
toán thì làm toán. Như vậy chất lượng học sinh sẽ đồng đều và các em sẽ phát
huy hết khả năng của mình.
- Đầu tư thêm về cơ sở vật chất thiết yếu để tạo điều kiện cho dạy học
theo phương pháp mới như: nhà trường cùng gia đình trang bị bảng chiếu đa
năng, máy chiếu projector, tài liệu, đồ dùng trực quan và phòng học cần hợp lý.
- Người giáo viên cần bồi dưỡng thêm về trình độ lí luận, về phương pháp
dạy học mới làm quen với các công nghệ thông tin hiện đại, đổi mới phương
pháp dạy học.
- Nhà nước cần có chính sách vật chất tinh thần thỏa đáng đối với yêu cầu
cống hiến của giáo viên. Có như vậy việc giảng dạy của giáo viên mới không bị
chi phối và đạt hiệu quả cao.
Hà Nội, ngày 16 tháng 4 năm 2012
Người viết


Bùi Thị Mỳ

19


D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Dạy tập viết ở tiểu học (Theo chương trình tiểu học mới)
(Lê A- Trịnh Minh Đức)
2. Phương pháp dạy học Tiếng Việt 1.
(NXB Đại học sư phạm)
3. Bài giảng về phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học của GSTS. Lê
Phương Nga.
4. Vở tập viết lớp 1 tập 1
(NXB Giáo dục)

20


MỤC LỤC
A. PHẦN I: MỞ ĐẦU.............................................................................. 1
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI...........................................................................1
II. MỤC ĐÍCH - NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI.......................................................2
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.........................................................2
B. NỘI DUNG....................................................................................................3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN.................................................................3
I. VỊ TRÍ CỦA VIỆC DẠY TẬP VIẾT Ở TIỂU HỌC...............................3
II. NHIỆM VỤ CỦA PHÂN MÔN TẬP VIẾT..........................................3
III. NHỮNG CƠ SỞ CỦA VIỆC DẠY TẬP VIẾT....................................4
CHƯƠNG 2. NHỮNG YÊU CẦU RÈN LUYỆN VIẾT CHỮ ĐỐI VỚI

HỌC SINH LỚP 1........................................................................................8
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG VIẾT
CHỮ ĐẸP CHO HỌC SINH LỚP MỘT....................................................10
C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ...............................................................16
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................

21



×